Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.405 tác phẩm
2.747 tác giả
676
116.788.426
 
Ðồng quê phỏng sự
Phi Vân
Chương 2

Người ta thoáng thấy một cái nhích mép đưa nhẹ chòm râu xéo một bên: Cười hay gây ? Nào ai biết !

Hương Ba ngờ ngợ nhìn và lanh lợi:

- Ông Tộc trưởng cho phép chúng tôi dán đôi liễn giao hiếu.

- Ðươc. Coi nào!

Không đợi nhắc, Hương Ba lẹ làng phết hồ lên cột.Ông Tộc trưởng chậm chạp đứng dậy cầm đèn sáp nhỏ đi theo xem.Lớp tuổi già đè nặng trên lưng, nhưng ông cũng cố gượng ngước lên, tay giơ cây đèn cao khỏi đỉnh đầu, tay gõ bằng mấy cái móng dài thườn thượt trên lớp liễn đỏ, dò từng nét, từng chữ một và chậm chạp đọc:

- Thừa... long... lạc... ỷ... tam... chi... thọ...

Ông gật gù, nặng nề bước qua cột bên kia. Ánh đèn làm nổi bật mấy nét nhăn và chói sáng cả cái “tầng thượng” trên chiếc khăn đóng: mõi cái gật làm búi tóc lắc lư như con “lật đật” của trẻ con!

- Giá... phụng... quan... thành... bách... lượng... xa!

Rồi bằng một giọng ngâm trầm bổng, ông lặp lại và phê bình:

- Thừa long lạc ỷ tam chi thọ... Hay!

Giá phụng quan thành bách lượng xa. .. Cũng hay!

Nhưng mà, ông chủ hôn ơi! Ông cắt nghĩa giùm thử coi câu liễn nó thế nào mà tôi “dốt tối dốt tăm” không hiểu được! Ông lại chép miệng lầm thầm như tự hỏi:

- Tam chi thọ? Ba nhánh hay ba họ?...

 

Ông Chánh Khá nãy giờ đứng rón rén cạnh Hương ba, nghe kêu, vội vàng đưa tay lên sửa vàng khăn đóng, mạnh dạn bưới tới biết rằng “chiến cuộc” đã “khai hấn” và sứ mạng của ông là phải giữ danh dự cho phe nhà:

- Dám thưa ông Tộc trưởng, chúng tôi không phải là kẻ thâm nho, tài hèn chỉ đáng làm môn đệ của ông, nhưng ông đã dạy, tôi xin mạng phép vâng lời, nhờ ông không chấp cho chuyện  trước cửa Lỗ Ban múa búa. Tôi có thể thích nghĩa xuôi hai câu ấy ra như thế nầy:

Chú rể cỡi rồng nương cây ba nhánh, Cô dâu hỉ hạ tìm đặng mối trăm xe.. . Còn dịch nôm thì tôi nghe ông Ðồ Ướt nhà tôi diễn thử trong câu này:

 

Rể lành đủ dựa tài lương đống, 

Dâu thảo vui nên bậc thế quyền...

 

Tưởng cũng tạm gọi được là hay vậy. Chẳng hay ông Tộc trưởng nghĩ thế nào ?

- Hay ? Tạm gọi là hay ? Già nầy thấp thỏi không biết nôm na cao kiến như mấy ông, già chỉ biết rằng trong rừng nho biển thánh, không thiếu chi tiếng dùng, sao lại đem nào là “thừa long... giá phụng... “ tiếng của bậc đế vương vua chúa vô làm chi cho tủi nhục thêm cho con nhà “dân dã” chúng tôi... Chánh Khá xanh mặt:

- Thưa ông...

- Thôi, thưa gởi làm chi nữa, theo phép mấy ông trầu rượu tới đây cưới con gái nhà tôi, mấy ông không có quyền khinh khi quá lẽ... Bây giờ tôi muốn coi đồ nữ trang trước rồi đợi tới giờ sẽ hay.

Hương Ba vội vàng mở khay hộp. Ông Tộc trưởng nâng từ chiếc vòng, sợi dây chuyền lên nhìn, bỗng nhiên mắt ông sáng hoắc lạ thường chép miệng hỏi:

- Ủa, sao lại có đôi bông nở mà không có bông búp?

Chánh Khá rối loạn chực nói, nhưng đã bỡ ngỡ nhìn mọi người.

 

Hương Ba lẹ miệng đỡ lời:

- Thưa bông búp là hồi “ăn trầu uống rượu” kia. Lời tục người ta nói: “Bông búp về nàng, bông nở về anh”, vì đường xa xuôi quá, chúng tôi đã yêu cầu trầu rượu cưới hỏi một lần thì chúng tôi tưởng “bông nở” không, cũng đủ lễ rồi vậy...

Ông Bái ngồi chăm chỉ nghe đến đó, bỗng nhiên khóc lên rưng rức:

- Nhà tôi vô phước. Trời ơi, con làm nhục cha nhục mẹ vậy hỡi con!... Sanh con tưởng gả được chỗ môn đăng hộ đối, ai dè họ khi mình đến đỗi này...

Ông Chánh Khá bị “tấn công” gắt quá, đành đưa mắt cầu cứu với Hương Ba lần nữa mà mồ hôi trên trán đã nhỏ giọt.

Hương Ba chẳng nói chẳng rằng, ngoắt chàng rễ bước vào, còn ông thì đến cạnh ông Chánh Khá, láy mắt ngụ ý nói “để tôi” rồi nói lớn để thay đổi cuộc diện:

- Ðã trình đồ nữa trang, thì bây giờ xin lên đèn làm lễ cưới.

Ông Tộc trưởng trợn ngược cặp mắt, đôi lông chân chày dửng lên làm tăng vẻ giận dữ, oai nghi:

- Ai cho phép chú cưới? Tôi bảo đợi tới giờ nghe chưa?

Ông Chánh Khá lập tức trả lời khéo léo:

- Xin ông Tộc trưởng thương giùm. Con rể nó ở đời với nhau được, có phải tại cái giờ đó đâu.

 

Nếu chờ đến giờ Tý, con nước chảy ròng cho đến trưa mai, thì chúng tôi chịu ngược cả máy con nước nữa, chắc chết đói ở dọc đường. Nhất là cô dâu không quen đi đường trường bó ró dưới tàu năm sáu bữa, chẳng là tội nghiệp lắm sao?

Ông Tộc trưởng nín lặng.

Chánh Khá láy Hương Ba. Hương Ba hội ý, xì ống quẹt nổi đèn khay trầu rượu rồi đưa tay ngoắt một cái. Ðám bưng mâm lục tục kéo vào.

 

Trong lúc lộn xộn, Hương Ba lừa dịp kề tai Chánh Khá bảo một câu:

- Lạy họ xong, giượng xin kiếu liền, đừng để trể một phút nào cả. Mình không cần ăn mà cũng không cần họ tử tế nữa. Chẳng lẽ họ níu con dâu lại đâu mà sợ.

Chánh Khá làm như lời.

Họ đàng trại đã thông đồng ăn rập nhau đứng lên một lượt.

Thấy con mình bị “bắt” đi một cách “cấp tốc”, bà Bái trong nhà khóc rống lên như đám ma, còn ông Tộc trưởng vỗ bàn ầm ĩ.

 

Nhưng, đám bưng mâm đã vây quanh hộ tống cô dâu, chàng rể xuống tàu một cách hùng dũng, dẫu phe ông Bái có muốn “phá vòng vây”, cũng không tài nào vô nổi.

Mọi người đều xuống tàu, trừ Hương Ba đang hí hửng như vừa “thắng trận”, đứng cạnh Chánh Khá nói nói cười cười:

- Vậy cũng xong! Ðó, giượng thấy chưa, mình phải.... mình phải cương quyết, phải... tài ba như vậy mới được chớ!

Bỗng ông Tộc trưởng trên nhà chống gậy xồng xộc chạy xuống níu tay ông Chánh Khá thở hào hển, vểnh râu, sừng sộ:

- Còn lễ... “trao thân gởi mình”, sao không làm hử?

Nhưng Hương Ba bước vội xuống tàu, mặt đang nở như hoa, tự nhiên xanh xám lại, kéo đại ông Chánh Khá theo, cộc lốc trả lời:

- Trao thân... con khỉ mốc!

Anh tài công tàu giựt chuông mỡ máy...

 

Cành tre cũ -cặp giò xưa

 

Tôi đứng núp sau lùm bông phướn, tay cầm chắc ngọn roi tre, vững lòng chờ. Hễ bón đen nào lao tới nạp mình là tôi khệng cho một cây, lập kỳ công bất hủ!

Tiếng kêu cướp rền trời phía nhà ông Bá và tiếng mõ hồi một làm vang động cả đêm khuya. Bầy chó trong xóm cũng hè nhau sửa rầm lên dữ dội.

 

Bỗng trống ngực tôi đánh lồng lên, tôi vảnh tai nghe tiếng thình thịch từ xa chạy lại.

 

Bóng người vừa nhô tới là tôi rán sức bình sanh cầm ngọn roi quất ngang vào ống quyển: Rốp!

Có thế mới được chớ! Tôi nhà đại vào đống đen đang té nằm rên dưới đất, ôm chặc lấ, nghiến răng:

- Chó chết, mày có chạy đàng trời!….

Nhưng, thiên địa quỉ thần ơi! Người tôi đang ôm cứng lại là… một cô gái!

Thôi phen này có nước mà chết nhục với đời! Tôi rụng rời buông lỏng nàng ra, hỏi:

- Cô là ai, có sao không cô? Cô chạy đi đâu làm vầy cho tôi tưởng lầm là kẻ cướp?

Nàng rên rỉ:

- Chết tôi đi anh ơi, tôi là con ông Bá đây! Anh làm ơn…. Đem tôi vô nhà… rồi tôi kể hết chuyện cho anh nghe, mau đi anh, đừng cho ai biết, mau đi anh!…

nàng nói rồi, oằn oại, nằm thiêm thiếp…

Làm sao bây giờ? Có Phật Trời nào chứng chiếu cho cả tấm lòng trong suốt của tôi?

Giúp người, hại mình, bây giờ đâu có thể chần chờ mãi được. Rủi thiên hạ xông tới gặp tôi đang níu lấy nàng, tôimới ăn nói cách nào cho xuôi?

 

Thôi, rủi đã vương lấy hoạ, tấm thân bảy thước còn kể gì, tôi kề vai vác nàng vô cửa.

Thằng Năm dầu có ngủ mê cách nào cũng đã thức dậy lục đục đốt đèn.

Thấy tôi cõng một cõng lù lù đi vô, nó kinh hãi nhảy lui một bước toan la, thì tôi đã khoát tay bảo nhỏ:

- Tao đây, câm họng lại, ra đóng chặt cánh cửa cái, mau lên!…

Nó sững sờ nhìn cái “sức nặng” trên vai tôi, rồi riu ríu vâng lời.

Tôi đặt “cục nợ đời” nằm xuống bộ ván trong, lấy dầu thoa trán cho hoàn hồn, rồi xây lưng ra ngoài, kéo tay thằng Năm:

- Nguy lắm rồi mầy Năm ơi! Nghe đằng nhà ông Bá bị cướp, tao tốc mùng vác cây roi tre ra tiếp cứu, không dè ba chớp ba nháng, đập nhằm con gái ổng gần chết, tao lật đật cõng về đây!

- Khốn nạn chưa! Biết lầm sao mầy không tháo chạy, lại rước “của nợ” ấy về làm chi, hỡi Trời!…

- Ai tàn nhẫn như vậy được mậy? Ðã đập cho người ta ngất ngư, còn bỏ chạy là nghĩa lý gì? Vả lại hồi nãy, lúc tao ôm “con mẻ”, “con mẻ” năn nỉ tao cõng về, tao bấn loạn nghe theo, không kịp suy nghĩ, bây giờ biết làm thế nào?

- “Con mẻ” năn nỉ mầy cõng về! Rồi mầy cõng? Hừ, làm thế nào thì làm, tao bỏ nhà nầy cho mầy ở!

- Tội nghiệp tao mà mầy Năm, chuyện đã lỡ ra thế này, mầy phải giúp tao gỡ rối mới được!

- Giúp mầy? nghĩa là cõng đem trả? Mô Phật, tao không có cái lưng “nghĩa hiệp” như mầy đâu!

- Không mà! Số là tao chưa biết ất giáp gì hết, mầy lập tức giùm chạy lại nhà ông Bá coi cho tao hay. Chuyện nầy tao nghi lắm, tao phải chờ “con mẻ” tỉnh hồn lại mà cật vấn mới được. Giùm mau đi Năm!

 

Thằng Năm lật đật thoát ra mà vẫn cằn nhằn cẳn nhẳn:

- Ừ, tao cũng “nghi” lắm, chỉ thương hai cho tao không ăn mà chịu, rủi thời mang nhục cả lủ cho mà coi!

Tôi đi tới đi lui trong nhà, bóp đầu suy nghĩ vì “cục nợ đời” vẫn còn nằm thiêm thiếp, thì thằng Năm hào hển chạy vào:

- Tao lạy mầy, tao lạy mầy, mầy mau đem “con mẻ”, trả chỗ nào thì trả, không thì vạ tới nơi…!

- Thong thả mà nói, làm gì rối rít lên như thế?

- Thong thả sao được, ông Bá vừa bị một người cầm dao vào hăm hoạ đòi giết, rồi nó trói ổng lại, dắt con gái ông did. Ông la rầm lên, thiên hạ đang đuổi theo lục soát lùm tum beng kìa!

Tôi nghe thằng Năm nói, hồn phi phách tán cứng họng nói chẳng ra lời.

- Bây giờ mầy đứng “chết trân” đó mà chịu hay sao? Ðây, tao vừa nghĩ được một kế cứu mầy: Tụi mình áp khiêng “cục nợ” đó ra đầu ngã ba nầy rồi đồng la lên: “Bớ người ta! Ai nằm đây!”, cho thiên hạ đổ lại “rước” con mẻ về là xong!….

 

Thằng Năm nói dứt lời kéo xển tôi lại ván nhận đầu tôi xuống, khiêng “nàng” lên.

“Nàng” vẫn con chưa tỉnh hẳn….

 

Ðêm ấy, sau khi tìm được con gái ông Bá, “họ” còn bắt được cả thủ phạm: thằng Tư Rổ! Nọi vụ đưa ra làng, giao cho Hương quản làm “ăng kết”.

Trên bàn Hương quản lại nhà công, một cây dao sắc lẻm để nằm làm tang vật. Thằng Tư Rổ bị trói ké ngồi cú rũ ở góc phòng. Ông Bá khép nép đứng cạnh đó và một dọc dài chứng cớ…. có cả tôi và thằng Năm!

 

Thầy Hương quản là một người ốm mảnh khảnh nhưng có một bổ râu dữ tợn, cặp mắt oai nghi, trông vào ai cũng hết vía.

Thầy ngồi giữa bàn, ngậm cái ống cối to tướng, nghiêm sắc mặt, kêu ông Bá hỏi trước:

- Sao, ông hãy thuật đầu đuôi gốc ngọn cho làng nghé

Ông Bá khúm núm:

- Thưa thầy, cách đây một năm, tôi thấy thằng Rổ nầy khá đứa, biết lo làm ăn, nên tôi định gả con Hai tôi cho nó. Tôi kêu nó về ở rể đúng năm rồi sẽ chọn ngày lành tháng tốt cho chúng nó nên vợ nên chồng.

 

Mấy tháng đầu về với tôi, nó làm việc lực bạt biết chiều chuộng tôi, biết lo bổn phận. Không dè khi gần ngày cưới bỗng thinh nó phát lên làm biếng, làm nhác, không chịu làm việc nữa, cứ rủ rê bạn bè nó lại phá gà, phá vịt hoặc thả đi luông tuồng. Tôi rầy la mãi không được, túng tôi phải hăm nó: Nếu nó còn giữ thói đó nữa, thì tôi tống cổ nó ra ngoài và không gã con cho nó. Nó vẫn không nghe, tôi buộc lòng tôi phải đuổi nó.

 

Thằng Tư Rổ đang ngồi, vùng đứng dậy dợm cãi, nhưng bị anh Cai tuần chụp đè cổ xuống, và thầy Hương quản trợn mắt, làm nó phải ngồi lại nín khe.

Ông Bá tiếp theo:

- Thế rồi gần tháng nay tôi tưởng nó về với cha mẹ nó, không dè đêm hôm, tôi đang nằm ngủ quên giữa ván nhà, bỗng đâu nó đẩy cửa nhảy xổ vào, phóng lên ván, câu hai cẳng đè cứng mình tôi, tay đưa dao hăm doạ: “Ba la một tiếng tôi phụp một cái rụng đầu!”

Tôi sợ quá năn nỉ nó, nó không buông, còn lấy dây trong áo trói tôi lại, rồi xông vô buồng bắt con gái tôi đi….

 

Ông Bá khai rồi đứng sang một bên. Ðến lượt thằng Tư Rổ được Cai tuần dẫn lại giữa bàn.

- Sao, thằng chó chết nầy, mầy phải khai cho thiệt! Thầy Hưởng quản ra lịnh.

Thằng Tư Rổ hằn học từ lâu, được phép cho nói tuôn ra một hơi:

- Bẩm thầy, ổng nói láo! Ổng hứa gả con Hai cho tôi, ổng bắt tôi về ở rể, đầy tôi như đầy tớ mà cấm tôi không được nói chuyện với vợ tôi tiếng nào. Rồi gần đến ngày cưới, thình lình ổng đuổi tôi đi. Tôi năn nỉ hết lời, ổng cũng không chịu cho tôi ở lại. Tôi chắc ổng giận tôi chuyện gì nên bóp bụng ra về, định chờ ổng nguôi ngoai sẽ năn nỉ xin cưới.

 

Không dè mới đây người ta cho tôi hay rằng ổng đã kêu thằng Út ở xóm trong vào ở rể nữa.

 

Tôi tức mình đón vợ tôi gạn hỏi. Té ra ổng ép vợ tôi, không cho đi đâu khỏi nhà. Biết rằng vợ tôi nó cũng thương tôi lắm, mà ổng thì độc ác không thể năn nỉ được, tôi vẫn chiều lòng đến lạy lục ổng năm bảy phen. Lần nào ổng cũng đuổi tôi như đuổi chó.

Tức quá, tôi mới xách dao lại hăm ổng, đó là sự bắt đắc dĩ, xin thầy xét lại cho tôi nhờ.

- Mầy có đè, trói, và hăm giết ổng không?

- Bẩm có, vì ổng thấy tôi, ổng muốn la, tôi đè ổng trên ván và nói: “Nếu ba không gả con cho tôi, tôi sẽ lấy đầu ba”. Tôi nói vậy là để cho ổng sợ, ổng gả con Hai cho tôi, chớ tôi không có ý định giết ổng.

- Ðược rồI ! Rồi mầy trói ổng lại và cướp con gái ổng đi ?

- Bẩm, ổng nằn nằn không chịu, ổng nói rằng tại vợ tôi muốn vậy. Tức quá tôi phải trói ổng lại, chạy vô buồng hỏi, và biết rằng có nói cũng vô ích, tôi đánh liều tính dẫn vợ tôi đi ít lâu rồi về thú phạt. Ðó là vợ tôi chịu theo tôi chớ tôi đâu có bắt ngang….

 

Làng làm ăng kết xong, liền giải thằng Tư Rổ ra quận.

 

Tôi không chờ biết kết cuộc ra thế nào, chán cả kiếp sống ở đồng, nghĩ tủi tấm thân bảy thước của mình mỗi lần phải đụng đầu với con gái ông Bá.

 

Tôi không phải cây cỏ gì mà không biết ơn nàng khi nàng không hề hở môi cho ai biết vụ tôi đập nàng một cây và tôi cõng nàng về nhà đêm ấy.

 

Nhưng mỗi khi gặp nàng ở đâu là nàng ngó tôi một cách khẩn thiết như muốn bày tỏ một sự gì, rồi nàng dòm xuống cặp giò cười mỉm. Tôi hiểu là nàng muốn nhắc tới ngọn roi tre cũ, nhưng tôi tảng lờ quay đi…

- Không được mầy Năm, ở đây rồi phải chết một cửa tứ! Coi bộ con mẻ… “cảm” tao rồi mầy ơi.

- Tùy mầy, mầy muốn sao cũng được. Ði ở là quyền của mầy. Nhưng tao nghĩ mà tức cười, nếu hôm trước “con mẻ” tỉnh, và “con mẻ” quyết nằm lì ở nhà mình, thì chắc “thế cuộc” giờ đã đổi khác, đâu còn cái vụ quấn quít giữa “cành tre cũ với cặp giò xưa”.

 

Ðổng Trác biết sập giàn

 

Ghe hát bầu Tèo hôm ấy đã thấy chèo đến đậu ngay trước đình làng. Con nít chạy bu theo trên bờ kinh vỗ tay la rầm rĩ:

- Bầu Tèo ở cù lao Heo tụi bây ơi !

 

Ðình đang buổi kỳ yên. Người ta dọn sẵn sàng tất cả, chỉ chờ ghe hát đến là lên giàn.

Bạn hát được dân làng phụ giúp, chỉ non nửa ngày là cất rạp xong đâu đấy. Chiều đến, họ có thể gióng trống xây chầu. Làng đã nhứt định hát ba “thứ”, mỗi “thứ” ba chục đồng, tùy ông bầu chọn tuồng, miễn cho xứng đáng thì thôi. Và nếu được vừa lòng, làng sẽ tuỳ tiện thưởng thêm là khác nữa.

 

Làng lại cho ông sáu Lý phụ đóng thêm một vai trong tuồng nào cũng được.

 

Ông sáu Lý là tướng hát rành nghề. Trong giới hát bộ, đã đành rằng không đào ké nào là chẳng biết danh ông, mà thậm chí đến dân làng hễ nghe đến tên ông, là hăm hở phục tài.

Năm nay ông đã già. Ông có bộ râu hơi dài và người ông hơi ốm. Nhưng không vì thế mà tài ông giảm đi.

 

Chẳng những ông hát hay mà ông lại có tánh vui vẻ bặt thiệp, ở cảnh ngộ nào ông cũng làm cho người ta vừa bụng, nhất là đám trẻ con trong làng. Hễ chúng gặp ông đâu là nài nỉ xin ông “đi” cho một bộ Trương Phi hay Triệu Tử.

 

Ông vò đầu chúng, rồi sẵn lòng bẻ một cành cây làm roi ngựa, giả đáp giáp, hất râu, múa lăn chiêng y như trên sân khấu.

 

Ngoài ông sáu Lý, làng lại cử ông Chánh bái cầm chầu.

Ông nầy lại có cái đặc biệt khác.

Gánh hát nào đến cũng phải cậy nhờ ông.

Ðược một người cầm chầu giỏi, đúng phép, không tư vị, biết giục lòng, con hát mới phấn khởi, mới hả hê.

Một tiếng “thùng” cũng đã làm cho họ sung sướng mà hai ba “chầu” liên tiếp lại còn làm cho họ nở lòng.

Ông Chánh bái trong làng thường bảo:

- Mình cầm chầu không đúng đắn, bọn hát nó khi, nhiều khi nó dể ngươi lờn mặt. Ôm chầu như tôi, tôi đố đào kép nào dám ra hát “ẩu” đặng lãnh tiền. Không một tiếng trống của tôi cũng đủ cho họ bị bầu gánh cúp tiền cữ đêm đó…

 

Mà thật ông Chánh bái rành điệu cầm chầu tự hồi ông còn ở chức Hương thân kia lận.

Tiếng đồn ông sáu Lý hát và ông Chánh bái cầm chầu được truyền đi liền khắp xóm.

Người ta thấp thỏm chờ đến buổi chiều. Trẻ con rộn rực đòi áo quần, xin xu ăn bánh; các anh trai tráng nôn nao bỏ giấc nghỉ trưa ở luôn ngoài ruộng đợi chiều về sớm một chút; các cô gái, mặt trời chưa chênh bóng là đã lo làm cá nấu cơm.

 

Khi tiếng trống “thùng thùng” nổi lên trên xóm đình, thì dọc theo bờ ruộng đã thấy lũ lượt kẻ năm người ba kéo nhau đi xem hát.

 

Sân đình trước là một đám cỏ cao nghều nghệu, chỉ sơ sơ trong nửa buổi là bị dấu chơn người giẩm lên sát rạt.

Trước rạp, người ta dọn dẹp sạch sẽ, sắp một hàng ghế dài để dành riêng cho các bậc kỳ lão và hương chức; kế đó là ghế của tư nhận. họ khuân từ nhà đem lại, chen nhau giành chỗ.

 

Giàn hát cất không được cao; bên trái là buồng kèn nhạc, bên phải là buồng của đào kép sắm tuồng. Chính bên phải là chỗ để trống chầu cho ông Chánh bái ngồi.

Hai ngọn đèn “măng sông” được treo tòn ten trên cao, trước rạp.

Ba hồi trống cơm “tùm tum, tùm tum” báo rằng đào kép sắp “ra tuồng”, mà tội quá, đám con nít cứ chen lấn nhau kêu la ầm ĩ. Chúng trèo níu, đánh đeo ở hai bên giàn coi đàn kèn và coi các ông tướng vẽ mặt.

 

Hai anh Cai tuần lãnh coi trật tự đuổi thế nào chúng cũng không đi. Tức quá, họ bẻ roi quất bổ trên đầu, trên lưng làm chúng kinh hoảng lấn nhau té đùn cục.

Nhưng một lát, chờ khi anh Cai tuần rỏn đi chỗ khác, là chúng lại leo lên bu xung quanh như kiến. Ông Chánh bái là người hiền từ thuở giờ, bị chúng chen lấn quá, ngồi chầu không được, ông phát giẫn dữ phải giơ dùi trống lên “khệng” cho mấy đứa đến u đầu.

 

Ðêm ấy hát tuồng Phụng Nghi Ðình. Chính ông sáu Lý ốm tong, bây giờ động cái bụng to, mặc áo rộng xùng xình đóng vai Ðổng Trác.

 

Mỗi lần ông đi kệ nệ, vuốt râu, đưa quạt lên trời hất hất, là mỗi lần người ta la ó dậy.

Lữ bố là một anh chàng trai trẻ, mặt đẹp như con gái, giắt hai lá cờ soái hai bên lưng, thắt cái bông tròn trước ngực, đầu đội mão kim khôi, tay cầm phương thiên hoạ kích, oai vệ vô cùng.

Ðiêu thuyền là cô đào chánh của gánh hát mặt hoa da phấn, yểu điệu thướt tha, màu mè cặp bồ với Lữ Bố thật xứng lứa vừa đôi.

 

Anh chàng Lữ Bố có cái bộ ghen tuyệt diệu. Mỗi lần anh hằn học với Ðiêu Thuyền là mỗi lần mấy cô ngồi chen nhau ở “hạng ba” véo nhau gần nhảy nhổm, và hít hà chắt lưỡi như đám thằn lằn kêu đói ở trong đình.

 

Một điều đáng để ý là sau lưng các cô, đố một chị đàn bà nào, một ông già bà cả nào, hoặc một đứa con nít nào bén mãng tới được. Toàn là bọn thanh niên đầu chải bóng láng. Chen chúc nhau đứng cặp kè. Rọ rạy nói chuyện vang trời. Ðứa thuộc Tam Quốc nói thôi vô số kể, đứa phê bình kép hát, có đứa lại nói tiếng Tây!

 

Ðã vậy mỗi lần ông sáu Lý vỗ cái bụng phệ làm cho người ta cười ngã nghiêng, ngã ngửa, thì phía ngoài thêm một vài cậu lừa thế thò đầu vô, hai tay vẹt đàn bà con nít, mắt liếc coi phía nào có mấy cô là chen tới.

 

Ðàng kia, ông Chánh bài đã bổ dùi xuống làm u đầu năm bảy đứa con nít rồi, nên chúng tức tối lập thế trả thù.

Chờ đến hồi “cụp lạc”, lúc Lữ Bố nghe nhảy sấn lại cắn, véo, đánh yêu Ðiêu Thuyền, ông Chánh bái sửa gọng kiếng lại ngay ngắn, ngồi nhìn chết sững chúng bèn hốt nào cát, nào bụi, nào xác mía len lén để đầy trên mặt trống.

 

Ông Chánh bái gặp lúc say mê, vô ý không dòm trước dòm sau, giơ dùi thẳng cánh “chầu” liên tiếp. Tiếng trống vừa kêu “thùng” là cát, bụi, xác mía bay tưới lên đầu, lấp mặt ông. Ông đỏ mặt tía tai, quơ dùi “lia” xung quanh, con nít té lăn đùn cục, kêu khóc om sòm.

Nhưng, thiên hạ ai cũng để hết tinh thần vào lớp “cục” ấy, ông Chánh bái có làm gì, con nít có la bao nhiêu, cũng không ai màng tới.

 

Có vài chị đàn bà bồng con, tay  vạch áo đưa vú cho con bú mà mắt chăm ngay lên sân khấu, hồn gởi trọn cho Ðiêu Thuyền. Ðứa con ngậm vú không được vùng khóc ré lên. Chị ta không kể đến, cứ đứng sững giơ tay đ1nh chan chát vào đít đứa con. Ðứa bé khóc ngất.

Ðang hát “cụp” quá mà trời lại vần vũ kéo mây và trong giấy lát mưa nhểu hột lâm râm.

Ðám người vẫn không thấy nhúc nhích.

Kịp khi một ngọn gió lạnh thổi qua, mưa tuôn ào xuống, họ mới vẹt nhau chen lấn lại gần giàn, có cái mái che cho hương chức.

Lại càng là một dịp cho các cậu trai giành nhau xô mấy cô gần ngã sấp.

Tội nghiệp, cô mất guốc, cô mất giày, vừa lom khom xuống lượm liền bị chúng ủi té nhủi.

Chương : 1    2   3    4   
Phi Vân
Số lần đọc: 1738
Ngày đăng: 24.08.2006
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Tìh êu - Lê Anh Hoài
Bờ bên kia - Trần Kiêm Ðoàn
Phản trắc - Hoàng Đình Quang
Tương Tác - Triệu Từ Truyền
Nhạc vũ trong HÁT BỘI BÌNH ĐỊNH - Trần Kiêm Ðoàn
Tiếng trống Sampô - Anh Động
Sóng lừng - Triệu Xuân
Cõi Mê - Triệu Xuân
Một thời in dấu - Trần Đồng Minh
Dương Từ Hà Mậu - Nguyễn Đình Chiểu
Cùng một tác giả