Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.377 tác phẩm
2.747 tác giả
786
116.515.967
 
Trung Quốc có dám ....không?
Đinh Kim Phúc

1. Chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là điều thiêng liêng của mỗi dân tộc. Biên giới của mỗi quốc gia là biểu hiện của nền độc lập dân tộc bất khả xâm phạm của mỗi quốc gia đó. Quốc gia bao hàm trong nó 3 vấn đề lớn: dân tộc, chủ quyền và lãnh thổ. Biên giới luôn luôn gắn liền với lãnh thổ nên luật pháp và tập quán quốc tế thừa nhận tính bất khả xâm phạm của biên giới quốc gia. Biên giới được định nghĩa theo khía cạnh chủ quyền là “cái khung” của chủ quyền. Do đó, việc bảo vệ biên giới cũng chính là bảo vệ chủ quyền lãnh thổ chống lại mọi hình thức ngoại xâm. Trong lịch sử hình thành của thế giới, từ thời cổ đại đến thời hiện đại đã xảy ra hàng trăm cuộc tranh chấp biên giới giữa các quốc gia. Nguyên nhân của những cuộc tranh chấp đó có rất nhiều nhưng nguyên nhân chính vẫn là những tham vọng về đất đai. Chúng ta hãy thử nhìn ra trên phạm vi toàn thế giới:

 

Các quốc gia trên bán đảo Balkan đã xảy ra nội chiến triền miên, gây thiệt hại biết bao nhiêu tài sản và sinh mạng cũng vì tranh chấp biên giới lãnh thổ.

 

Israel và Palestin cũng xảy ra tranh chấp lãnh thổ hàng nửa thế kỷ mà vẫn chưa đi đến kết quả cuối cùng cho tiến trình hòa bình ở Trung Đông.

 

Hay giữa ChileArgentina đã liên tục xảy ra tranh chấp lãnh thổ ở vùng núi Andes. Mãi đến năm 1902 thì hai nước mới đạt được một hiệp ước ngừng bắn và cùng quyết định đem tất cả đại bác trong cuộc chiến đúc thành bức tượng Chúa Jesus khổng lồ cho nhân dân hai bên biên giới cùng nguyện cầu cho hòa bình và hai nước đã cam kết không đánh nhau nữa. Thế nhưng chỉ 9 năm sau đó lại nổ ra một cuộc tranh chấp khác. Đến năm 1966 lại ký kết một hiệp ước nhưng vẫn không chấm dứt đươc tranh chấp.

 

Những diễn biến hiện nay ở khu vực Đông Âu, Trung Đông, Nam và Đông Nam Á… đã cho chúng ta thấy rõ vấn đề biên giới là rất nhạy cảm và là nguyên nhân chính dễ dẫn đến bùng nổ tranh chấp.

 

Loài người chúng ta, từ thời xa xưa, đã biết xử dụng biển làm nguồn cung cấp muối ăn và một phần thực phẩm cho mình trong mối giao lưu ven bờ biển của một quốc gia hay rộng hơn là giữa các quốc gia trong khu vực. Khoảng 2.000-3.000 năm trước Công nguyên, đảo Grete chỉ rộng hơn 8.000km2 nhưng đã biết tận dụng và phát huy ưu thế của biển nên đã trở thành một quốc gia phồn vinh với một nền văn minh rực rỡ. Liên bang biển Athenes đã xuất hiện từ thế kỷ thứ V trước Công nguyên với trung tâm của nó là hòn đảo Delos chỉ rộng có 3 km2. Do đã thực hiện chế độ miễn thuế nên Delos đã trở thành một trung tâm thương mại ở vùng Địa Trung Hải.

 

Cho đến ngày nay trên biển và trên đại dương đã trải qua hai thời kỳ biến chuyển mang tính toàn cầu.

 

Thời kỳ thứ nhất: Bắt đầu từ thế kỷ XV với những phát kiến địa lý vĩ đại, trong đó có sự kiện Christophe Colomb tìm ra Châu Mỹ vào năm 1492 đã dẫn tới sự bành trướng như vũ bão của các nước tư bản Châu Âu trên các đại dương khiến cho nền kinh tế thế giới đã phát triển một bước nhảy vọt hình thành nên một thị trường thế giới duy nhất. Các đế quốc Anh, Pháp, Hà Lan, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha đã trở nên hùng mạnh và phồn vinh là do họ đã biết tận dụng ưu thế của biển để đi xâm chiếm các thuộc địa.

 

Thời kỳ thứ hai: Bắt đầu từ sau chiến tranh thế giới thứ hai với đặc trưng là con người đã quan tâm nhiểu đến biển trước nhu cầu của con người và trước sự phát triển của khoa học kỹ thuật đặc biệt là khoa học kỹ thuật biển. Giáo sư người Pháp, Yves Lacoste đã viết: “Trước đây hàng trăm, hàng ngàn năm các quốc gia chỉ tranh nhau các vùng đất nổi, nhưng ngày nay các nhà nước cố gắng mở rộng tối đa chủ quyền trên biển và trên các đại dương. Trên các bản đồ, các đường biên giới được vạch qua màu xanh của biển, các vùng yêu sách đôi khi ra tới hàng ngàn ki-lô-mét cách bờ; ngay cả Bắc Băng Dương, người ta cũng cãi cọ nhau về các quyền lịch sử đối với mõm đá bốn bề sóng vỗ”.

 

Thật vậy, ngày nay con người đã coi biển và đại dương là niềm hy vọng của loài người, là nguồn cung cấp vô hạn thức ăn, nguyên liệu và năng lượng cho con người một khi mà dân số trên trái đất này ngày một tăng cao mà tài nguyên trong lòng đất lại ngày càng cạn kiệt. Một học giả người Mỹ đã viết: “Chúng ta đang ở vào một buổi bình minh của thời đại mới: thời đại biển”. Có lẽ vì thế mà con người đã, đang và ngày càng quan tâm nhiều đến biển thậm chí tham vọng của họ còn hướng tới cả những hải đảo ở xa tít ngoài khơi.

 

Năm 1955, Nữ hoàng Anh đã ra lệnh cắm cờ và dựng bia chủ quyền tại Rock All là một mõm đá rộng 3m2 cách nước Anh 200 hải lý và đến năm 1977, bà đã ra lệnh cho một viên sĩ quan hải quân Anh ra sống ở đó trong một tiềm thủy cầu được buộc vào đá Rock All trong vòng 40 ngày để nước Anh có cơ sở tuyên bố rằng trên Rock All đã có thần dân Anh sinh sống và do đó Rock All là thuộc chủ quyền của Anh và nó hoàn toàn có quyền có vùng đặc quyền kinh tế.

 

Nhật Bản đã bỏ ra khoảng 200 triệu Mỹ kim để xây dựng một công trình bảo vệ bãi đá Okinotorishina chỉ rộng mấy mét vuông ở ngoài khơi Thái Bình Dương, cách nước Nhật 1.700km.

 

Cuối thế kỷ XIX, những cuộc khảo sát biển của nước Anh phát hiện dưới đáy biển, bên ngoài lãnh hải, có một phần đất rộng lớn tiếp giáp đất liền, có nước biển phủ lên trên, nhưng chưa xác định cụ thể nó là gì? Giá trị của nó đối với đời sống của người ra sao?

 

Năm 1916, nước Nga thông báo với thế giới rằng: một số đảo mới phát hiện ở phía Bắc Siberi là “phần kéo dài về phía Bắc thềm lục địa Siberi”. Đây là lần đầu tiên thuật ngữ “thềm lục địa” và cả khái niệm “phần kéo dài của thềm lục địa” được sử dụng.

 

Ngày nay, khoa học xác định được rằng bên ngoài lãnh thổ của quốc gia ven biển cũng có một dải đất bằng phẳng, với kích thước khác nhau dưới đáy biển, có độ dốc rất thoải, dần dần đi xuống thấp cho đến một vùng rất sâu, gọi là “bình nguyên sâu thẳm”. Phần đáy biển trung gian giữa đất liền và bình nguyên sâu thẳm, đó chính là thềm lục địa.

 

Tổng diện tích thềm lục địa bao quanh các châu lục lên đến khoảng 27.500.000 km2, bằng 8% diện tích đáy biển. Phân bổ rất không đồng đều giữa các nước ven biển do cấu trúc địa chất của các nước không giống nhau. Có nước hầu như không có (Colombia), hoặc có thềm lục địa hẹp các nước Ảrập, châu Phi). Có nước có thềm lục địa rộng bao la (Hoa Kỳ, Nga, Canada, Ireland, Argentina, Australia, Srilanka...).

 

Hai nguyên tắc cơ bản về luật biển, hình thành từ thế kỷ XVIII, không còn phù hợp (lãnh hải rộng 3 hải lý và tự do biển cả). Xuất hiện xu hướng mở rộng tối đa quyền tài phán quốc gia ra các vùng biển nhằm mục đích xác định chủ quyền đối với tài nguyên sinh vật và không sinh vật, tăng cường vị thế nước ven biển trong khu vực và trên thế giới.

 

Hoa Kỳ là nước đầu tiên nêu yêu sách về thềm lục địa. Tháng 9 năm 1945, Tổng thống Hoa Kỳ Truman tuyên bố: Chính phủ Hoa Kỳ coi các tài nguyên của lòng đất dưới đáy biển thuộc thềm lục địa là thuộc về Hoa Kỳ và đặt dưới quyền tài phán và kiểm soát của mình. Một số nước Mỹ Latinh cũng đơn phương tuyên bố mở rộng các vùng biển quốc gia đến 200 hải lý. Trong khi đó Anh vẫn bám giữ lập trường đã lỗi thời về chiều rộng lãnh hải bằng 3 hải lý...

 

Hai hội nghị lần thứ nhất (1958) và thứ hai (1960) của Liên hợp quốc về Luật biển đã thất bại trong việc xây dựng một công ước quốc tế toàn diện, quy định chế độ pháp lý quốc tế mới đối với các vùng biển quốc gia và đại dương, đáp ứng lợi ích chính đáng của các nước.

 

Tình hình đó làm gia tăng mâu thuẫn quyền lợi chiến lược kinh tế - quốc phòng giữa các nước ven biển và không có biển, các nước có công nghệ cao về khai thác độ sâu đáy biển và đại dương, các nước có bờ biển tiếp giáp hoặc đối diện nhau trong việc phân định thềm lục địa.

 

2. Công ước của Liên Hiệp Quốc về Luật biển (United Nations Convention on the Law of the Sea -UNCLOS), cũng gọi là Công ước Luật biển hay cũng được những người chống đối nó gọi là Hiệp ước Luật biển, là một hiệp ước quốc tế được tạo ra trong Hội nghị về luật biển Liên Hiệp Quốc lần thứ 3 diễn ra từ năm 1973 cho đến 1982 với các chỉnh sửa đã được thực hiện trong Hiệp ước thi hành năm 1994. Công ước Luật biển là một bộ các quy định về sử dụng các đại dương của thế giới, chiếm 70% diện tích bề mặt trái đất. Công ước đã được ký kết năm 1982 để thay thế cho 4 hiệp ước năm 1958 đã hết hạn. UNCLOS có hiệu lực năm 1994, và đến nay, hơn 150 quốc gia và Cộng đồng châu Âu đã tham gia Công ước này. Hoa Kỳ không tham gia vì nước này tuyên bố rằng hiệp ước này không có lợi cho kinh tế và an ninh của Hoa Kỳ. Công ước quy định quyền và trách nhiệm của các quốc gia trong việc sử dụng biển, thiết lập các hướng dẫn rõ ràng cho các hoạt động kinh doanh, bảo vệ môi trường và cải thiện quản lý các tài nguyên thiên nhiên đại dương. Các sự kiện mà thuật ngữ đề cập trong Công ước là: Công ước về Luật biển Liên Hiệp Quốc lần 1, Công ước về Luật biển Liên Hiệp Quốc lần 2, Công ước về Luật biển Liên Hiệp Quốc lần 3. Công ước này là kết quả của Công ước về Luật biển Liên Hiệp Quốc lần 3 và cũng mang tên gọi Công ước về Luật biển Liên Hiệp Quốc.

 

Trong khi Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc nhận được các công cụ phê chuẩn và gia nhập và Liên Hiệp Quốc quy định ủng hộ các cuộc họp của các quốc gia là thành viên của Công ước thì Liên Hiệp Quốc không có vai trò hoạt động trong việc thi hành Công ước này. Tuy nhiên các tổ chức liên chính phủ tự trị như: Tổ chức Hàng hải Quốc tế, Ủy ban Cá voi Quốc tếCơ quan quản lý Đáy biển Quốc tế được Công ước này thành lập lại có một vai trò trong việc thực thi Công ước.

UNCLOS đã tỏ ra cần thiết do tính pháp lý yếu của ý niệm “quyền tự do về biển”có từ thế kỷ XVII: quyền của các quốc gia đã bị giới hạn trong một vành đai lãnh hải mở rộng ra từ các bờ biển của quốc gia đó, thường là 3 hải lý, theo quy định phát đạn pháo được thẩm phán người Hà Lan Cornelius Bynkershoek phát triển. Tất cả các lãnh hải nằm ngoài biên giới quốc gia được xem như lãnh hải quốc tế - tự do cho tất cả các quốc gia, nhưng không thuộc quốc gia nào cả (nguyên tắc mare liberum được Grotius công bố).

 

Đầu thế kỷ XX, nhiều quốc gia biểu lộ ý muốn mở rộng quyền tuyên bố chủ quyền quốc gia nằm đưa các nguồn tài nguyên khoáng sản, bảo vệ nguồn cá và có các phương tiện để thực thi kiểm soát ô nhiễm. Hội Quốc Liên đã tổ chức một hội nghị năm 1930 tại Hague để bàn về điều này, nhưng hội nghị không đạt được thỏa thuận nào.

 

Một quốc gia phản ánh nguyên tắc luật bất thành văn quốc tế về quyền một quốc gia để bảo vệ tài nguyên thiên nhiên của mình là Hoa Kỳ, khi năm 1945, Tổng thống Harry S. Truman đã mở rộng sự kiểm soát quốc gia trên các tài nguyên thiên nhiên ở trong thềm lục địa của mình. Các quốc gia khác cũng nhanh chóng ganh đua theo Hoa Kỳ. Giữa năm 1946 và 1950, Argentina, Chile, PeruEcuador đều nới rộng chủ quyền của mình ra khoảng cách 200 hải lý nhằm bao quát cả ngư trường trong hải lưu Humbol của họ. Các quốc gia khác đã nới rộng vùng lãnh hải đến 12 hải lý.

 

Đến năm 1967, chỉ có 25 quốc gia vẫn sử dụng giới hạn 3 hải lý, 66 quốc gia đã quy định giới hạn lãnh hải 12 hải lý và 8 quốc gia đưa ra giới hạn 200 hải lý. Nhìn bảng các tuyên bố hàng hải được Liên Hiệp Quốc biên tập, chúng ta thấy rẳng đến ngày 27 tháng 7 năm 2007, chỉ có vài nước sử dụng giới hạn 3 hải lý là (Jordan, PalauSingapore). Giới hạn 3 hải lý này cũng được sử dụng ở một số đảo của Australia, một khu vực của Belize, một vài eo biển của Nhật Bản, một vài khu vực của Papua New Guinea, và một vài lãnh thổ phục thuộc của Anh Quốc như Anguilla.

Năm 1967, vấn đề về các tuyên bố khác nhau về lãnh hải đã được nêu ra tại Liên Hiệp Quốc. Năm 1973, Hội nghị Liên Hiệp Quốc lần thứ 3 về Luật biển (Third United Nations Conference on the Law of the Sea) được tổ chức tại New York. Để cố gắng giảm khả năng các nhóm quốc gia thống trị đàm phán, hội nghị dùng một quy trình đồng thuận thay cho bỏ phiếu lấy đa số. Với hơn 160 nước tham gia, hội nghị kéo dài đến năm 1982. Kết quả là một công ước có hiệu lực từ ngày 16 tháng 11 năm 1994.

 

Công ước của Liên Hiệp Quốc về Luật Biển gồm 17 phần với 320 Điều, và 4 Nghị quyết kèm theo (các nghị quyết về: Ủy ban chuẩn bị cơ quan về đáy biển và Tòa án về Luật biển; Bảo vệ nguồn vốn đầu tư ban đầu trong giai đoạn hoạt động đầu tiên ở đáy biển; Các lãnh thổ bảo hộ; Các phong trào giải phóng dân tộc). Những điều khoản quan trọng nhất quy định về việc thiết lập các giới hạn, giao thông đường biển, trạng thái biển đảo, và các chế độ quá cảnh, các vùng đặc quyền kinh tế, quyền tài phán thềm lục địa, khai khoáng lòng biển sâu, chính sách khai thác, bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học, và dàn xếp các tranh chấp.

 

Đây là một văn kiện pháp lý quốc tế có tính chất tổng hợp toàn diện, bao quát tất cả các vấn đề quan trọng nhất về chế độ pháp lý của biển và đại dương, đáp ứng lợi ích quốc gia dân tộc của tất cả các nước thành viên Liên Hiệp Quốc.Công ước Luật Biển năm 1982 được đánh giá là văn kiện pháp lý quốc tế quan trọng nhất từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, chỉ sau Hiến chương Liên Hiệp Quốc.

 

Việt Nam được mời tham dự Hội nghị Luật Biển từ khóa họp lần thứ 6 (tháng 3-7/1977), tức là trước khi được kết nạp vào Liên Hiệp Quốc. Việt Nam đã tích cực góp phần vào việc thương lượng để hoàn chỉnh dự thảo Công ước, là một trong những nước đầu tiên ký và phê chuẩn Công ước của LHQ về luật Biển năm 1982.

 

Trong số 60 quốc gia đầu tiên ký kết đã có nhiều nước lớn như Brazil, Ai Cập, Indonesia, Mehico...

 

Việt Nam cũng phê chuẩn một số Công ước biển chuyên ngành về Hàng hải quốc tế IMO, Công ước SOLAS về cứu hộ trên biển, London 1/11/1974, Công ước về mớn nước, Công ước MARPOL chống ô nhiễm tàu thuyền (Prevention of Pollution from Ships) ngày 2/11/1973 và phần bổ sung năm 1978 về phòng chống ô nhiễm biển.

 

UNCLOS có ý nghĩa to lớn đối với Việt Nam, là quốc gia có bờ biển dài trên 3.200km, tiếp giáp hoặc đối diện với nhiều nước láng giềng có biển và không có biển trong khu vực xung quanh biển Đông.

 

UNCLOS đã xác nhận và khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với các vùng biển và thềm lục địa phù hợp các tuyên bố ngày 12/5/1977 và 12/11/1982 của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về các vùng biển Việt Nam, phù hợp chính sách nhất quán của Nhà nước Việt Nam nhằm giải quyết những tranh chấp về các vùng biển và thềm lục địa với các nước láng giềng thông qua thương lượng hòa bình, trên tinh thần bình đẳng, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, phù hợp luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước của LHQ về luật Biển năm 1982. Trên tinh thần đó, Việt Nam đã đàm phán giải quyết tốt đẹp việc phân định ranh giới vùng biển và thềm lục địa cũng như các vùng chồng lấn với hầu hết các nước trong khu vực Đông Nam Á.

 

Cho đến đầu thế kỷ thú XX, Trung Quốc vẫn là một quốc gia lục địa chưa quan tâm nhiều đến biển. Thế mà ngày nay, nhà nước Trung Quốc đã coi biển là “lối thoát” của dân tộc Trung Hoa để sinh tồn và phát triển và “Biển lịch sử” là một khái niệm mà nhà nước Trung Quốc dùng làm cơ sở cho ranh giới đường lưỡi bò chiếm 75% diện tích trên biển Đông (2,6 triệu km2). Đây là một khái niệm không hề tồn tại trong UNCLOS hay trong công pháp quốc tế về chủ quyền. Trên thực tế, ngoại trừ Trung Quốc, không có nước nào dùng khái niệm biển lịch sử và cũng không có nước nào chủ trương chiếm 2.6 triệu km2 trên biển. Trong lịch sử nhà nước Trung Quốc chưa hề tuyên bố chủ quyền trên vùng biển mà ngày nay họ cho là biển lịch sử của họ.

 

Hởi “láng giềng hữu nghị” Trung Quốc, nếu 75% diện tích biển Đông là thuộc về “Quý quốc”, Trung Quốc có chấp nhận cùng Việt Nam gặp tại các nơi dưới đây không?

- Tòa án Công lý quốc tế (tiếng Anh là World Court hay International Court of Justice). Tòa án này có thể xử tranh chấp giữa hai quốc gia nếu hai quốc gia này chấp nhận thẩm quyền của tòa án.

- Tòa án luật biển Liên Hiệp Quốc (tiếng Anh là International Tribunal on the Law of the Sea). Tòa án này có thể xử tranh chấp trong UNCLOS nếu hai quốc gia có tranh chấp chấp nhận thẩm quyền của toà án.

 

Ngoài ra, án lệ quốc tế còn phân xử tranh chấp lãnh thổ theo các nguyên tắc sau: Sự chiếm hữu lãnh thổ vô chủ theo luật quốc tế.

 

Trong giai đoạn từ đầu thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX, các nước Hà Lan, Anh, Pháp cũng phát triển dần trở thành cường quốc, bị đụng chạm quyền lợi, không chịu chấp hành sắc lệnh của Giáo Hoàng Alexandre VI ký ngày 4 tháng 5 năm 1493 xác định nguyên tắc phân chia các vùng lãnh thổ mới phát hiện ngoài Châu Âu. Từ thực tế này, các nước đã tìm ra nguyên tắc mới về thiết lập chủ quyền trên những vùng lãnh thổ mà họ phát hiện. Đó là thuyết “quyền ưu tiên chiếm hữu” một vùng lãnh thổ thuộc về quốc gia nào đã phát hiện ra vùng lãnh thổ đó đầu tiên. Đó chính là thuyết “quyền phát hiện”.

 

Trên thực tế, việc phát hiện như trên chưa bao giờ tự nó đem lại cho quốc gia phát hiện chủ quyền lãnh thổ vì rất khó xác định chính xác thế nào là phát hiện, xác nhận việc phát hiện và xác định giá trị pháp lý của việc phát hiện ra một vùng lãnh thổ. Vì thế việc phát hiện đã mau chóng được bổ sung bằng việc chiếm hữu trên danh nghĩa, nghĩa là quốc gia phát hiện ra một vùng lãnh thổ phải để lại dấu vết trên vùng lãnh thổ mà họ phát hiện.

 

Sau hội nghị Berlin về châu Phi năm 1885 của 13 nước Châu Âu và Hoa Kỳ và sau khóa họp của Viện Pháp luật quốc tế ở Lausanne ( Thụy Sĩ) năm 1888, nguyên tắc chiếm hữu thật sự trở thành quan điểm chiếm ưu thế trên thế giới. Điều 3, điều 34 và 35 của Định ước Berlin ký ngày 26 tháng 6 năm 1885 xác định nội dung của nguyên tắc chiếm hữu thật sự và các điều kiện chủ yếu để có việc chiếm hữu thật sự như sau:

- “Phải có sự thông báo về việc chiếm hữu cho các nước ký định ước trên”.

- “Phải duy trì trên những vùng lãnh thổ mà nước ấy chiếm hữu sự tồn tại của một quyền lực đủ để khiến cho các quyền mà nước ấy đã giành, được tôn trọng…”.

 

Tuyên bố của Viện Pháp luật quốc tế Lausanne năm 1888 đã nhấn mạnh “mọi sự chiếm hữu muốn tạo nên một danh nghĩa sở hữu độc quyền… thì phải là thật sự tức là thực tế, không phải là danh nghĩa”.

 

Chính tuyên bố trên của Viện Pháp luật quốc tế Lausanne đã khiến cho nguyên tắc chiếm hữu thật sự của định ước Berlin có giá trị phổ biến trong luật pháp quốc tế chứ không chỉ có giá trị với các nước ký định ước trên.

 

Nội dung chính của nguyên tắc chiếm hữu thật sự là :

 

1.Việc xác lập chủ quyền lãnh thổ phải do nhà nước tiến hành. Tư nhân không có quyền thiết lập chủ quyền lãnh thổ vì tư nhân không có tư cách pháp nhân quốc tế, vì quan hệ quốc tế là quan hệ giữa các quốc gia.

 

2. Sự chiếm hữu phải được tiến hành một cách hòa bình trên một vùng lãnh thổ thật sự là vô chủ (res nullius) hoặc là đã được quốc gia làm chủ chủ động từ bỏ (derelicto). Dùng võ lực để chiếm một vùng lãnh thổ đã có chủ là một hành động phi pháp.

 

3. Quốc gia chiếm hữu trên thực tế phải thực hiện những hành động chủ quyền ở mức độ tối thiểu phù hợp với các điều kiện tự nhiên và dân cư trên vùng lãnh thổ đó.

 

4. Việc thực hiện chủ quyền phải liên tục trên vùng lãnh thổ đó.

Ngày 10 tháng 9 năm 1919, công ước Saint Germain đã được các cường quốc lúc bấy giờ ký tuyên bố hủy bỏ định ước Berlin năm 1885 với lý do là trên thế giới không còn lãnh thổ vô chủ nữa và như thế nguyên tắc chiếm hữu thật sự không còn giá trị pháp lý nữa. Song do tính hợp lý của nguyên tắc này, các luật gia trên thế giới vẫn vận dụng nó khi phải giải quyết các vụ tranh chấp chủ quyền trên các hải đảo. Như phán quyết của tòa án trọng tài thường trực quốc tế La Haye tháng 4 năm 1928 về vụ tranh chấp đảo Palmas giữa Hoa Kỳ và Hà Lan, phán quyết của toà án quốc tế của Liên Hiệp Quốc tháng 11 năm 1953 về vụ tranh chấp các đảo Minquiers và Écrehous giữa Anh và Pháp.

 

Ngày nay theo luật quốc tế, sự chiếm hữu lãnh thổ phải bao gồm cả hai yếu tố vật chất và tinh thần. Yếu tố vật chất được thể hiện qua việc chiếm hữu thực sự và hành xử chủ quyền trên lãnh thổ đó. Điều này có nghĩa là quốc gia chiếm hữu phải có sự hiện diện thường trực trên lãnh thổ được chiếm hữu, và phải có những hoạt động hoặc những hành vi có tính quốc gia đối với lãnh thổ đó. Sự hành xử chủ quyền phải có tính liên tục. Còn yếu tố tinh thần có nghĩa là quốc gia phải có ý định thực sự chiếm hữu mảnh đất đó. Phải hội đủ hai yếu tố vật chất và tinh thần trên thì sự chiếm hữu mới có hiệu lực. Và sự từ bỏ lãnh thổ cũng phải hội đủ cả hai yếu tố: vật chất, tức là không hành xử chủ quyền trong một thời gian dài, và tinh thần, tức là có ý muốn từ bỏ mảnh đất đó. Phải hội đủ cả hai yếu tố: từ bỏ vật chất và từ bỏ tinh thần thì lãnh thổ đó mới được xem như bị từ bỏ, và trở lại quy chế vô chủ.

 

Ngoài phương pháp chiếm hữu thực sự và hành xử chủ quyền (occupation và effectivité), một quốc gia cũng có thể thụ đắc chủ quyền qua những phương pháp khác như chuyển nhượng (cession), thời hiệu (prescription), củng cố chủ quyền bằng danh nghĩa lịch sử (consolidation par titre historique),… Phương pháp “củng cố chủ quyền bằng danh nghĩa lịch sử” được áp dụng nếu quốc gia đã sử dụng lâu đời một lãnh thổ khác mà không có phản đối của một quốc gia nào khác.

 

Những tiêu chuẩn trên đã được áp dụng thường xuyên bởi án lệ quốc tế, trong những bản án về tranh chấp đảo Palmas, đảo Groenland, đảo Minquier và Ecrehous…

Trung quốc có dám không?./.

Đinh Kim Phúc
Số lần đọc: 3408
Ngày đăng: 05.07.2009
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Mục Lân, An Lân, Phú Lân? - Đinh Kim Phúc
Những ngày này 55 năm trước – nhớ lại Hội nghị Genève - Đinh Kim Phúc
Đài loan hoàn toàn không có chủ quyền trên quần đảo Trường Sa của Việt Nam - Đinh Kim Phúc
LỊch sử và sự công bằng - Đinh Kim Phúc
Game Over! - Đinh Kim Phúc
Vì sao Greenland lại chủ trương độc lập với Đan Mạch? - Nguyễn Văn Toàn
Một số Kỷ Lục Việt Nam trên đất Bà Rịa-Vũng Tàu xưa nay - Đinh Văn Hạnh
Tinh Thần 4 Tốt và Yêu Sách của Thiên Triều - Đinh Kim Phúc
Trả lại công bằng cho lịch sử - Hà văn Thùy
Láng Giềng Hữu Nghị hay Bá Quyền Nước Lớn - Đinh Kim Phúc
Cùng một tác giả
Game Over! (lịch sử)
Đọc thơ xưa (tạp văn)