Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.333 tác phẩm
2.747 tác giả
584
115.979.791
 
Đọc Miền Đất Ven Sông thử Tìm Hiểu Tiểu Thuyết Sử Thi của Hoàng Văn Bổn
Bùi Công Thuấn

Miền Đất Ven Sông gồm 3 tập, 847 trang , được Hoàng Văn Bổn viết trong hơn ba năm từ 1983 đến 1986. Tác phẩm miêu tả cuộc sống chiến đấu của những con người làng quê Bình Long bên sông Đồng Nai từ những ngày khởi nghiã năm1940 đến những ngày đình chiến 1954. Bộ tiểu thuyết này có thể đươc coi là một tiểu thuyết sử thi, vì nó phản ánh  những sự kiện  cuả một giai đoạn có những biến động lớn lao cuả lịch sử : kháng chiến chống thực dân Phát xít, Cách mạng tháng tám 1945 và chín năm kháng chiến chống Pháp (1946-1954).

 

Tập 1 : DÒNG SÔNG THƠ TRẺ (5/1983)

Nxb Đồng Nai 1983

 

Sông Dòng Thơ Trẻ  miêu tả lại cuộc sống  gia đình bác Sáu và dân làng Bình Long từ những ngày khởi nghiã “Nam kỳ bốn mươi” đến khi Cách Mạng tháng 8  năm 1945 thành công. Trong những năm tháng đó, nhân dân Bình Long bị thực dân, phát xít thống trị, bóc lột đến cùng cực. Họ  chịu bao nhiêu đau thương do tội ác của chúng gây ra. Lòng căm thù  dâng cao như nước sông Đồng Nai. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Công Sản Đông Dương họ đã  vùng lên và  giành được tự do.

 

Gia đình bác Sáu là gia đình nông dân có truyền thống đấu tranh cách mạng. Cha bác Sáu là võ tướng của ông Trương Công Quyền, con trai Trương Công Định. “Trong trận cố thủ thành Đất Cuốc, Mỹ Lộc, ông bị trọng thương và bị bọn Pháp chặt đầu, quăng xác xuống sông Đồng Nai”(tr227). Bác Sáu trai , con ông, phải bỏ xứ vào rừng sâu một thời gian mới dám trở về quê cha đất tổ làm ăn. “trong sổ đen cuả bọn quan làng, mật thám, chỉ điểm, tện bác bị khoanh tròn. Đời bác không sao ngóc đầu lên được”(tr227). Bằng , con bác, cùng với người yêu là Hương, bí mật hoạt động cách mạng, bị bắt và tra tấn dã man. Nhưng chính anh cùng các đồng chí của mình đã lãnh đạo quần chúng giành chính quyền, bắt tên chúa đất phản động Ngô Kỳ Hồng. Ngày cách mạng thành công, “tiếng hoan hô, tiếng gào thét, tiếng khẩu hiệu chào mừng cách mạng thành công vang lên âm ầm khu chòm dầu cổ thụ miểu Long Chánh, rền rền dọc hai bên bờ sông Đồng Nai linh thiêng cao cả của người dân xứ này”(tr.246)

 

Trong tác phẩm này, Hoàng Văn Bổn đã ghi lại được đậm nét hình ảnh đất nước và con người Đồng Nai. Dòng sông Đồng Nai được miêu tả nhiều lần(1) như một biểu tượng linh thiêng của nhân dân Đồng Nai, gắn bó với từng con người từng số phận, với những ngày đau thương (tr.63) và quật khởi (tr.245) cuả nhân dân. HVB cũng đặc tả những cảnh sinh hoạt có màu sắc và không khí đặc thù của người Đồng Nai : sinh hoạt cuả một gia đình (tr.7), đỡ trâu đẻ (180), đám cưới (tr144),  hội cấy đầu muà (chương 17), con nhà điạ chủ Ngô Kỳ Hồng quậy phá ( Đờ Mên-chương 14 ).

 

Tính cách con người Đồng Nai hiện lên khá rõ qua các nhân vật gia đình bác Sáu : Bằng, Sáu Nở, Bảy Quỳ,  và các nhân vật khác như Hương, Hai Đính, tướng cướp Bảy Lì, ông già chèo đò Hai Thố, mụ chủ quán Sáu Lé…Đó là những  con người có cá tính mạnh, cần cù chịu thương chịu khó, giàu tình nghiã, ngang tàng  khí phách, gắn bó với quê hương đất nước, sống chết có nhau. Chẳng hạn, Bảy Lì đã cướp tù cứu Bằng và Hương. Bảy Lì cũng dõi theo Sáu Nở mãi , cả sau những ngày sáu Nở có chồng, ốm đau..Bằng và Hương sống chết bên nhau, gắn bó với Cách Mạng (Chương 20.tr.231)

 

Ý tưởng sáng tạo một tác phẩm sử thi của HVB là khá rõ. Ông tập trung miêu tả những phẫn uất cuả nhân dân tích lũy dần theo thời gian làm đầy con sông căm thù. Ông ghi nhận những rục rịch trong lòng  biển dậy sóng đấu tranh. Ông phản ánh tình hình cách mạng sôi sục ở Việt Bắc và nội bộ lục đục các phe nhóm chính trị khác.  Đặc biệt là ông miêu tả quá trình thức tỉnh, dấn thân một lòng theo Đảng  cuả Bằng, Hương, Hai Đính, để rồi sau đó họ trở thành người những người đi đầu trong đoàn người khỡi nghiã giành chính quyền từ tay thực dân.

 

Tuy vậy, khả năng viết tiểu thuyết sử thi cuả HVB trong tập này còn hạn chế. HVB chỉ miêu tả được vài nhân vật trong gia đình bác Sáu mà không miêu tả được bối cảnh rộng đời sống nhân dân, không miêu tả được bối cảnh rộng cuả tình thế những năm trước 1945. HVB cũng không miêu tả được trực tiếp tội ác cuả thực dân phát xít mà tiêu biều là Ngô Kỳ Hồng. Tội ác cuả hắn chỉ được thuật lại qua than thở cuả nhân vật khác một các gián tiếp(tr.126). Việc Bằng, Hương, Hai Đính hoạt động cách mạng được miêu tả mơ hồ. Không ai rõ họ giác ngộ CM lúc nào, tổ chức của họ là ai, hoạt động ra sao . Không có một chi bộ đảng với những sinh hoạt chỉ đạo, tổ chức đấu tranh và lăn lộn với quần chúng. Việc Bằng ở trong nhà giam viết truyền đơn, gửi lính đem ra bên ngoài kêu gọi quần chúng đấu tranh (tr.230) là không tưởng, nếu không nói là ảo tưởng. Bởi vì ở bên ngoài, Bằng không hề có một tổ chức chi bộ cơ sở nào. Lực lượng nồng cốt của anh chỉ có mấy người trong gia đình là Bảy Quỳ, Sáu Diêm, Từ Khiêm và Hương (tr.212) , không phải là những cơ sở Đảng rộng khắp, thì làm sao lãnh đạo quần chúng khởi nghiã. HVB không miêu tả được các đường dây hoạt động của Bằng, Hai Đính, Hương trong một tổ chức cách mạng  rộng lớn. Xung quanh họ là một khoảng trống không. Nhiều lúc cả Bằng, Hương đều bơ vơ (tr.116 ; 213). Cũng vậy cứu Bằng khỏi trại giam là tướng cướp Bảy Lì, mà không phải là tổ chức CM.

 

HVB đã không thực hiện được bằng hình tượng nghệ thuật ý đồ miêu tả sự vùng dậy của quần chúng dưới sự lãnh đạo cuả Đảng để làm nên Cách Mạng tháng tám thành công. Trái lại, sự kiện lớn lao ấy chỉ được tái hiện bằng những tường thuật áp đặt, thiếu logic, đầy ngẫu nhiên. Chẳng hạn, ngẫu nhiên Bằng gặp một nữ cán bộ ngoài Bắc (tr.228) trong trại giam mà biết tinh hình Việt Bắc, rồi ngẫu nhiên Hương bị giam chung phòng với Bằng và Bằng nói cho Hương tình hình và cơ sở CM (tr.233). Không biết tình hình ấy Bằng lấy tin ở đâu, hay chỉ nghe cô gái Bắc Kỳ trong trại giam nói và Bằng nói lại !

 

HVB vẫn lặp lại những đặc điểm ngòi bút của ông như đã từng xuất hiện ở các tác phẩm trước đó, những đặc điểm làm mất đi những giá trị thẩm mỹ văn chương của ông

 

Ông thường sử dụng ngôn ngữ cường điệu (2), thích tả ngực con gái (3), nói tục, chửi tục (tr.35), miêu tả hiện thực  một cách “cải lương “, vi phạm những nguyên tắc cuả chủ nghiã hiện thực. Chẳng hạn, cách miêu tả hành vi, tâm trạng lão chuá đất Ngô Kỳ Hồng ở chương 21 là phi hiện thực. Lão sắp chết đến nơi mà vẫn như người mộng du quyền lực, vẫn tiếc rẻ bầu vú trinh nữ đỏ hồng cuả Hương (tr.239), tiếc rẻ vẻ đẹp Hồng Loan là đưá con nuôi của lão (tr240). Cảnh đám cưới Sáu Nở bị Đơ Mên quậy phá và Bảy Lì xuất hiện can thiệp như trong phim cao bồi Mỹ (chương 14). Nhân vật Bảy Lỳ được miêu tả như một anh hùng mã thượng, xuất quỷ nhập thần, đầy quyền lực, có thể cứu nhân độ thế (cứu Bằng) . Nhân vật ấy là nhân vật của lọai truyện kiếm hiệp, hoang dã, và lãng mạn. Người đọc chẳng rõ tung tích làm ăn sinh sống ra sao. Kiểu nhân vật ấy làm hỏng tính chất sử thi Cách Mạng của tác phẩm. Cuộc tình cuả Bảy Lì với Sáu Nở và cuả Bằng với Hương cũng được miêu tả lãng mạn. Sáu Nở và Bảy Lì yêu nhau, bỗng dưng Sáu Nở lấy Út Thiện, một người cô độc chỉ biết tụng kinh, và Sáu Nở cam chịu kiềp sống làm vợ Út Thiện. Tác giả không có một lời lý giải tại sao có cảnh sống như vậy. HVB cũng thương xuyên miêu tả đêm, nhưng câu chuyện lại diễn ra như ban ngày (4) Không gian đêm không tạo được hiệu quả thẩm mỹ nào. Cảnh Hương đi tìm bắt liên tạc với tổ chức đầy chính chất truyện phiêu lưu ( chương 18) không phải là hoạt động cuả một cán bộ giao liên từng trải, trong một tổ chức cơ sở Đảng dày dạn chiến đấu.

 

Có thể nhận thấy HVB có khả năng miêu tả truyện phong tục khá hay.

 

Tập II : DÒNG SÔNG CHÁY ĐỎ (7.5.1984)

Nxb Đồng Nai 1985

 

Dòng Sông Cháy Đỏ miêu tả quãng thời gian từ sau Cách Mạng Tháng Tám (CMT8) đến những ngày bắt đầu kháng chiến chống Pháp 23/9/1945 ở Sàigòn.

 

Sau CMT8, những con người nô lệ trước kia của xã Bình Long lên nắm chính quyền: Chủ quán Sáu Lé làmTrưởng Ban Quân Sự Cách Mạng,  Hương làm cán bộ thường đi họp trên quận .Từ Khiêm phụ trách quân sự. Bằng trở thành Đại diện CM Đồng Nai, phụ trách quân sự vùng hữu ngạn sông Đồng Nai. Sáu Diêm được phân công  làm cận vệ cho Bằng.  Bảy Lì trở thành Tư Lệnh chỉ huy quân sự vùng tả ngạn sông Đồng Nai, Hai Đính trở thànhThanh Tra chính trị Miền Đông. Cả những thành phẩn phản động trước kia cũng tham gia chính quyền : Lão địa chủ Kỳ Hồng làm Chủ Tịch Ủy Ban Hành Chánh CM. Con lão, Đờ Mên làm Phó Ban Quân Sự quận Tân Uyên, Kỳ An chì huy một lực lượng quân sự đông  người.

 

Trong khoảng thời gian đó những sự kiện gì đã xảy ra, số phận những con người mới được giải phóng thế nào ? Nói cách khác, chính quyền non trẻ đã được những người nông dân điều hành thế nào trên giòng chảy của những biến động lịch sử ? Nhà văn Hoàng văn Bổn có nhận thức và suy tư gì về những vấn đề lớn của thời đại ?

 

Lão cường hào Kỳ Hồng  và những đưá con lão ( Đờ Mên, Kỳ An ) , do thời thế thay đổi, lão phải ép mình theo Cách mạng, song trong thâm tâm lão, mối thù giai cấp vẫn còn đó , và hành động cuả lão là hành động hai mặt. Bên ngoài theo CM, bên trong lão vẫn ngầm câu kết với thực dân phát xít. Lão không giết Cônhan, và để Cônhan ra đi là để dành về sau này (chương 3). Đơ Mên cũng một bản chất như cha. Sáu Lé đã nói rõ hành động cơ hội chủ nghiã cuả hắn(tr.89)

 

Những số phận dở dang như Sáu Nở, Út Thiện cũng được miêu tả cận cảnh (chương 9,10,11,12). Út Thiện bị bắt đi linh cho Nhật, 2 năm  khổ aỉ. Trở về, anh chút nữa đã bị Nhật giết nếu không có Bảy Lì cứu. Anh định mua súng cho Cách mạng. Nhưng đời anh luôn là một bi kịch. Bi kịch giữa khát vọng tìm vòng hào quang của Phật và cuộc đời thực trong thân phận người dân nô lệ. Khi trở về, anh không gặp được vợ (Sáu Nở) Út Thiện định tìm đến cái chết ở sông Đồng Nai, được Út Chót cứu. Đời anh vẫn dở dang (tác phẩm bỏ lửngnhân vật  ở chương 12).

 

Trở lại các nhân vật chính, Sáu Lé đã bắt trói được 6 tên lính Nhật, rồi đi tìm Bảy Lì để xử lý chúng. Bảy Lì trở thành tư lệnh quân sự, anh được Ủy Ban Hành Chánh Nam Bộ điều về trấn giữ mặt trận Thị Nghè, Cầu Bông, Đakao, Hàng Xanh (tr.249). Trong tình hình Sàigòn rối ren, ngày nào bảy Lì cũng phải xử kiện cướp giựt, tống tiền, sung công, hiếp dâm, trả thù bằng dao búa. Anh chán ngán và nuối tiếc núi rừng. Nhiều lần anh tìm Hai Đính để xin rút về Biên Hoà. Anh cũng bị ám sát nhiều lần.Con người ấy đã cùng với Bằng trụ lại những ngày sau cùng trước khi có lệnh rút lui để trường kỳ kháng chiến. Hai Đính trở thànhThanh Tra chính trị Miền Đông. Anh bất lực trước những yêu cầu của thực tiễn cách mạng. Trước cổng UB Thanh Tra chính trị lúc nào cũng đông nghẹt người, ai cũng đòi gặp đích danh ông thanh tra chính trị miền Đông với hàng trăm lý do: kiện cáo vụ Đệ Tam sư đoàn cướp cũa giết người, sung công xe cộ, tịch thu vàng bạc, con gái rượu của người ta…(tr.226). Quá mệt mỏi, Hai Đính đã ngủ gục ngay lúc làm việc (tr231). Trong cuộc chiến đấu ở mặt trận Sàigon , anh bị thương nặng (tr274).Bằng trở thành đại diện cách mạng Đồng Nai thương thuyết với tên đại úy người Anh đại diện tướng Graxây. Cuộc thương thuyết thất bại, vì chúng đòi giải giới lực lượng CM (tr.256). Khi Sàigòn bị tấn công, Hai Đính bị bao vây, Bằng và sáu Diêm đã dẫn quân tiếp cứu.

 

Những sự kiện chính được miêu tả là, tình hình còn mù mờ giưã các thế lực chính trị. Sự việc chỉ sáng tỏ khi Pháp tấn công Sàigòn 23/9/1945, các đạo quân CM “tan đàn xẻ nghé”, kết thúc tác phẩm là lệnh rút để chuẩn bị đánh lâu dài. (chương 24,25,26,27). Trong suốt tác phẩm, có một sự kiện được tập trung tả trong nhiều chương là việc tìm vũ khí cho CM. Việc này do út Thiện , nhưng không thành. HVB cũng miêu tả nhiều cảnh sinh hoạt của nhân dân sau CM. Lịch Sử Đồng Nai (tr.66), cảnh gặt luá (chương 13,14) cảnh Saigòn rối loạn , dân tản cư (chương 26)

Có lẽ tác giả cố gắng phản ánh cho được tình hình nước sôi lưả bỏng những ngày trước khi Pháp tấn công trở lại Sàigòn, và sự non trẻ cuả chính quyền CM. Điều này phần nào HVB đạt được, nhất là ở các chương cuối (chương 24,25,26,27). Tuy nhiên, về nghệ thuât tiểu thuyết sử thi, HVB vẫn tỏ ra non tay trong xây dựng tác phẩm, không phản ánh được đầy đủ và chân thực những diễn biến dẫn đến 23.9.1945. Chẳng hạn cuộc họp cuả Xứ Ủy và Ủy Ban Nhân Dân Nam Bộ sáng 23/9/1945 (5)

 

Trong tác phẩm này, HVB không có được một cốt truyện hấp dẫn, mạch lạc. Suốt 14 chương đầu ( 166 trang văn ) không có cốt truyện gì . Các chương là những sự kiện, nhân vật được kết nối lỏng lẻo. Lão Kỳ Hồng được nói đến trong 3 chương (chương 1,2,3) rồi thôi. Út Thiện được nói đến trong 4 chương ( chương 9,40,11,12) rồi bặt tăm. Cũng vậy,Từ Khiêm chỉ được nhắc tới trong 2 chương (16,17) .Các nhân vật chính : Hương, Bằng, Hai Đính không được tập trung miêu tả liền mạch, mà chỉ thấp thoáng xuất hiện khiến cho họ trở nên nhạt nhoà. Nghe nói Hương làm Bí Thư Chi Bộ Đảng Bình Long, Lợi Hoà, “cộng sản bự “ (tr.163) .Họ  là những người lãnh đạo CM nhưng không hề được miêu tả lãnh đạo thế nào, tổ chức vận động quần chúng ra sao. Không có sinh hoạt chi bộ . Cả tập truyện chỉ có một lần HVB nhắc đến chi bộ ( tr.244) lúc giành chính quyền với bảy Lì , nhưng không rõ chi bộ gồm những ai, sinh hoạt thế nào. Không có chỉ đạo cuả các cấp cả hàng ngang và hàng dọc, khiến cho họ trơ vơ, lạc lõng (suốt 18 chương đầu họ không được miêu tả trực diện). Chỉ có Bảy Ly được khắc họa sắc cạnh và có cá tính. Hồng Loan lại được ngợi ca bằng những lời có cánh, mặc dù nhân vật này không có ảnh hưởng gì trong sự phát triển cốt truyện ( chương 8 và chương 19).

 

HVB  không dành chương nào để miêu tả thành phố Biên Hoà và các hoạt động CM cuả Đồng Nai, như là một điạ phương CM trong mặt trận CM chung cuả cả nước. Điều này lộ ra sự non yếu của HVB trong việc  miêu tả khái quát bối cảnh sử thi làm nền cho nhân vật, vì thế nhân vật chưa mang được dáng vóc của nhân vật sử thi ( người anh hùng của cộng đồng, có tầm vóc kỳ vĩ). Trái lại, HVB lại miêu tả quá nhiều cảnh lặt vặt trong sinh hoạt đời thường khiến cho tác phẩm trở nên dài dòng, và rất tiếc, những cảnh  ấy không tạo nên cốt truyện, không mang đến giá trị thẩm mỹ cho tác phẩm . Chẳng hạn chuyện sức khoẻ (tr.25), chuyện cụng ly (tr.36) , canh bếp lửa (tr.62), cháo gà (tr.68), bàn về đàn bà (tr104), ăn bún mắm tôm (tr.158), xin trứng gà (tr.198), ăn hủ tiếu (tr221)…

 

HVB vẫn chưa khắc phục được những hạn chế cuả ngòi bút trong những tác phẩm trước, như sử dụng từ ngữ cường điệu, cách miêu tả phóng bút thành vô lý, dựng những cảnh chỉ có trong một vở diễn cải lương .Thí dụ : cảnh đánh trống nổi loạn (tr.10) ; Bảy Lì sắp chết đói được Sáu Nở cứu (tr.117) ; cảnh phóng dao găm trong đêm (tr115) ; sóng thần trên sông Đồng Nai giết chết tên cướp chở Út Thiện (tr.131) ; cảnh dân chúng tụ tập rất đông trước cơ quan làm việc cuả Hai Đính chờ giải quyết công việc , thì Bảy Lì lại  bắn súng giải tán, để ba người ( Bằng, Hai Đính, Bảy Lì) ngồi ngắm sông uống rượu thề (tr.242,247). HVB vẫn tả nhiều sự việc diễn ra trong đêm, mặc dù không gian đêm không đem tới hiệu quả nghệ thuật nào ( tr.70,112,128,146,168,195..) . Nhiều nhân vật có tên mà không có vai trò gì (Kiều Công, Ba Dương, Lý Hoa, Kilô, Ba sinh, Lan). Nhìn chung ngoại trừ Bảy Lì, các nhân vật khác không có cá tính, tất cả đều na ná như nhau, từ tính cách đến ngôn ngữ hành động, cách suy nghĩ và phương thức miêu tả, khiến cho nhân vật không hiện lên được.

 

Mặt thiếu nhất cuả ngòi bút HVB là thiếu tư tưởng. HVB phản ánh hiện thực nhưng để nói điều gì, đứng trên lập trường tư tưởng nào, đâu là ánh sáng lý tưởng của ngòi bút ? Tất cả không rõ ràng và không chuyển hoá thành hình tượng nghệ thuật có giá trị thẩm mỹ.Vì thế tác phẩm trở nên nhạt nhoà, không gây được ấn tượng gì. Phải chăng HVB chỉ muốn phản ánh tình hình còn tranh tối tranh sáng những ngày sau CM tháng 8? Hay HVB muốn đề cao vai trò của quần chúng trong việc xây dựng chính quyền mới, hay HVB muốn chỉ ra những yếu kém của con người và chính quyền CM còn non trẻ. Dù vậy, đâu là ánh sáng phiá trước? đâu là con đường tương lai ? HVB chưa chỉ ra điều này.  Giá trị nhân bản là một trong những giá trị cuả bất cứ tác phẩm văn học nào, điều này thiếu vắng trong tác phẩm. Việc Sáu Lé bắt trói 6 tên Nhật, sau đó cho vào bao quăng xuống sông, việc Bảy Lì cho xử bắn nhiều người (tr.250), việc Đơ Mên vung gươm chém sâu đến nửa cổ tên lính Nhật, máu phun lên thành vỏi (tr.88) là những sự việc gây ra phản cảm nơi người đọc.

 

Trong tác phẩm này, HVB cũng sử dụng nhiều lần kỹ thuật viết những đoạn hồi tưởng quá khứ, Bảy Lì nhớ những năm tháng cơ cực gần chết đói (chương 9), Từ Khiêm hổi tưởng cảnh Cả Hồng đóng trân (tr.180), chuyện ông lái đò ngủ với vợ Cả Hồng (tr.83), lai lịch út Thiện (tr.132,133) ; hồi tưởng ngày Bằng và Bảy Lì giành chính quyền (tr.242) là một đoạn tiêu biểu. Điều này có nghiã gì ? Rõ ràng trong tập I, HVB đã không có cơ hội để miêu tả trực tiếp những cảnh này. Và khi đưa những cảnh này vào tập II, nó làm mất đi không khí hiện tại cuả CM tháng 8. Nó không phục vụ gì cho sự phát triển cốt truyện, đồng thời kéo lùi thời gian nghệ thuật, làm cho nhịp phát triển cuả truyện bị dừng lại, trong khi đời sống thực tiễn đang biến chuyển từng ngày.

 

Ở tập II Miền Đất Ven Sông,  HVB vẫn chưa đạt được mục đích viết sử thi cuả mình, xuất phát từ những non tay trong nghệ thuật, và do “cái tạng” riêng của ngòi bút HVB. Tôi nghĩ, nếu HVB viết truyện phong tục về đất người đồng Nai ( như Sơn Nam ), có lẽ ông sẽ thành công hơn, bởi vì bút pháp hiện thực, yêu cầu phản ánh hiện thực và đặc điểm thi pháp của tác phẩm sử thi đã trói buộc ngòi bút của ông. Có thể nhận thấy rõ “cái tạng” của ông khi ông viết về nhân vật Bảy Lì. Ngòi bút cuả ông thật bay bổng, sảng khoái và hết sức sinh động.

 

 

Tập III :DÒNG SÔNG NỔI GIẬN (8.1986)

Nxb Đồng Nai 1987

 

Dòng Sông Nổi Giận là chuyện nối tiếp Dòng Sông Cháy Đỏ, kể lại chín năm kháng chiến của nhân dân Đồng Nai, cuả dân làng Bình Long, Biên Hoà từ những ngày tiêu thổ kháng chiến đến khi có lệnh đình chiến 1954.

 

Giai đoạn tiêu thổ kháng chiến, các lực lượng quân đội cách mạng cuả Bảy Lì, Bằng, Ngô Kỳ An, Nguyễn Hoà..tuy chiến đấu kiên cường, song liên tiếp thất bại,  phải rút từ Sàigòn về, và sau cùng trụ lại vùng rừng núi chiến khu Đ. Cả chiến khu Đ cũng bị đánh phá dữ dội (chương 18), bị bão lụt tan hoang (chương 29). “Bảy ngày đêm liền, tàu chiến cuả giặc giăng khắp giòng sông Đồng Nai, nã đại bác và súng máy khắp vùng chiến khu Đ…Những gì còn sót lại sau nhiều trận càn trước , nay bị thiêu đốt, bị bứng tận gốc. Nhiều hầm hố bí mật  dọc bờ sông bị ném lựu đạn phá tung hết”(tr.74),”sau cuộc tấn công ấy, chiến khu Đ tiêu điều !”(tr.180). Những cuộc kháng cự cũng liên tiếp bị thua ( chương 16, 17). Bằng là người chỉ huy quân sự bị mất phương hướng. Anh tự hỏi “ đi đâu bây giờ” với một đội quân mệt mỏi (tr.154). Tan nát hết. Hội nghị thống nhất các lực lượng Biên Hoà tại chiến khu Đ cũng thất bại. Cả Bằng, Bảy Lì, Ngô Kỳ An, Đơ Mên đều không chịu hợp nhất lực lượng quân sự dưới sự chỉ huy cuả Hai Đính cùng đánh giặc (chương 20). Sau cùng làng Bình Long bị giặc tràn đến. Bác Sáu trai, Năm Hường, Ba Sang chết bi thảm (chương 260). Sau chín năm kháng chiến, những người thời kỳ đầu theo cách mạng là Ngô Kỳ Hồng, Lê Ông Phước, Đơ Mên và cả Hồng Loan, người gắn bó sâu nặng với cách mạng cũng đào thoát ra vùng  địch tạm chiếm theo Pháp ( chương 27, 29, 30). Tác phẩm kết thúc với  tin Sáu Lé báo có lệnh đình chiến trong vòng 10 phút nưã (tr. 300). Sau đó Hai Đính thông báo cho Bằng lệnh tập kết ra Bắc (tr.302).. Cuộc chiến đấu cuả nhân dân Đồng Nai sẽ còn gian nan cay đắng nhiều, còn chết chóc hy sinh nhiều. (tr.303)

 

Trong tác phẩm này, có lẽ Hoàng Văn Bổn chỉ tập trung miêu tả cuộc chiến đấu gian khổ và hy sinh cuả nhân dân. Cuộc tiêu thổ kháng chiến được tả khá dài. Đốt rừng cao su, băm đường, đốt cầu, đốt miễu thờ (chương 4) ”Dọc lưu vực sông Đồng Nai, những đám cháy nối liền nhau, chỗ bốc cao, chỗ đang tàn, chỗ mới bén. Những đám cháy đã khắc hình hài dòng sông Đồng Nai tựa con rồng lưả uốn khúc, quẫy cựa trong đêm” (tr.39). HVB cũng thuật khá kỹ cuộc bại trận rút lui cuả Bằng, cuả Bảy Lì. Bằng bị thương (chương 8). Tình hình trở nên ngặt nghèo khi Hai Đính, người chỉ huy cao nhất, bị bắt (chương 9) . Những cuộc chỉ huy cuả Hai Đính đều thất bại : Sài gòn thất thủ, Thủ Đức thất thủ, mặt trận Biên Hoà cũng thất thủ (tr,99), mạnh ai nấy chạy, mạnh sống mạnh chết (tr.105). Bi thương nhất là cảnh làng Bình Long bị đốt cháy rụi. Năm Hướng, Hai Thố, Ba Sang, Năm Di bị bắt , bị tra tấn. Bác Sáu trai bị đánh bất tỉnh, năm ngày sau chết trong uất nghẹn (chương 26). Chính trong tình hình khủng hoảng ấy, khủng hoảng niềm tin, Kỳ Hồng, Hồng Loan (tr.285,286) đã bỏ cách mạng về thành. Cả khi đã có lệnh đình chiến thì tình hình vẫn chưa có gì khả quan, vì cuộc chiến đấu còn dài, còn nhiều hy sinh.

 

HVB vẫn tiếp tục khuynh hướng sử thi trong tác phẩm này khi cố gắng miêu tả cuộc kháng chiến chống Pháp trường kỳ gian khổ. Ông cũng đã đạt được những thành công nhất định khi phản ánh tình hình rối ren, khó khăn, thất bại cuả nhân dân ta trong cuộc đối đầu với sức mạnh xâm lược của giặc pháp ở thời kỳ đầu. Cũng thành công khi miêu tả tinh thần ngoan cường cuả nhân dân, và dựng được một số cảnh chiến đấu sinh động như cảnh chống càn của nhân dân làng Bình Long (chương 26).

 

Tuy vậy, ngòi bút cuả Hoàng Văn Bổn vẫn gặp nhiều lúng túng khi xây dựng một tác phẩm sử thi có tầm vóc rộng lớn về thời gian và không gian suốt cuộc kháng chiến chống Pháp.

 

HVB miêu tả khá dài dòng giai đọan tiêu thổ kháng chiến (16 chương đầu). Sau đó cuộc kháng chiến diễn ra trong  sự mơ hồ về ý thức thời gian. Người đọc không nhận ra được đâu là  giai đoạn phòng ngự và tổng tiến công. Các trận công đồn đánh bót Cây Đào đều thất bại, không có một chiến công nào trong giai đoạn tổng tiến công phối hợp với mặt trận Điện Biên Phủ. Chiến khu Đ là chiến khu quan trọng bị  giặc Pháp đánh tan tác tiêu điều, không có hoạt động gì góp phần vào chiến thắng chung. Vì thế, cấu trúc tác phẩm bị lệch hẳn và hụt hẫng. Tác phẩm kết thúc không phải là niềm vui chiến thắng chung, trong đó có  chiến công của nhân dân Đồng Nai, trái lại, HVB kết thúc bằng vấn đề cuả cá nhân hai cô gái: Hương bị bắt, Bằng lo giải cứu, sau đó là mất Hồng Loan.

 

Trong cuộc kháng chiến ấy, không có một tổ chức Đảng lãnh đạo chặt chẽ, chỉ có những cá nhân tự vẫy vùng. Và vì thế họ mất phương hướng. Kể cả người có trọng trách là Bằng cũng mất phương hướng, không biết cuộc kháng chiến sẽ đi về đâu. Bảy lì, Nguyễn Hoà, Ngô Kỳ An đều là những lực lượng đứng ngoài tổ chức lãnh đạo cuả Đảng trong mắt trận thống nhất kháng chiến, họ chẳng khác gì đoàn quân vô chính phủ.

 

Tác phẩm tuy lấy bối cảnh cuộc chiến đấu cuả nhân dân Đồng Nai, nhưng  thực chất chỉ miêu tả cuộc chiến đấu cuả những người con trong gia đình Bác Sáu :  Hai Đính, Bằng, Năm Hướng, Sáu Nở, Bảy Quỳ,và những người có liên quan là Hương, Hồng Loan, rộng ra một chút là Năm Di, ông già chèo đò Hai Thố, chủ quán Sáu Lé, con Sáu Lé là Kỳ Lô. Những lực lượng cách mạng của nhân dân Đồng Nai chỉ thoáng qua , và không có vai trò gì trong tác phẩm. Chẳng hạn, như đã nói ở trên, chiến khu Đ không được miêu tả như là nơi lãnh đạo, nơi hội tụ sức mạnh cuả mọi lực lượng, nơi chiến đấu và chiến thắng. Trái lại, đó chỉ là nơi vắng không, hoang tàn (6). Tác phẩm sử thi phải phản ánh được một cách chân thực bề rộng thời gian không gian của thực tại lịch sử, đồng thời phải phân tích và chỉ ra hướng đi tới của lịch sử, lý giải được bản chất những biến cố lịch sử. HVB đã không đạt tới những yêu cầu như vậy trong tác phẩm này, bởi vì đối tượng  miêu tả cuả ngòi bút HVB là gia đình bác Sáu, với những con người riêng lẻ trên nền bối cảnh lịch sử. Chính sự chọn lựa này làm hạn chế giá trị sử thi của tác phẩm. Và dù HVB có nhắc đến một vài tên tuổi Pháp,  phiá chiến tuyến đối địch, như Đágiăngliơ, Lơcơle, Mariut Mutê, Sutic, Xêđin, nhưng đây không phải là những hình tượng.

 

Từ đây, tác phẩm lộ ra nhiều mặt non yếu. Chẳng hạn, tiêu thổ kháng chiến chỉ là tiêu thổ, là phá sạch, đốt sạch, không biết để làm gì. Sau khi đốt sạch, phá sạch, nhân dân sống bằng gì và sống thế nào? Không có ai chăm lo đời sống cho họ trong suốt 9 năm kháng chiến. Từ số phận cuả các nhân vật, người đọc hiểu lý do thất bại của Hai Đính, Bằng, Bảy Lì, Nguyễn Hoà.. là do họ vô chính phủ ; và vì không có Đảng lãnh đạo chỉ đạo thống nhất. HVB đã  không miêu tả vai trò lãnh đạo cuả Đảng từ chi bộ cơ sở đến thành uỷ Biên Hoà, Tỉnh Ủy Đồng  Nai và cấp miền là chiến khu Đ. Lý do Ngô Kỳ Hồng, Lê - ông Phước, Đờ Mên, Hồng Loan bỏ ra thành là vì cuộc sống kháng chiến quá đói khổ, không có ai chăm sóc tinh thần vật chất và cảm thông cho họ, khiến họ khủng hoảng niềm tin mà không tự vượt qua được.

 

Trong tác phẩm này, HVB sử dụng cách miêu tả phiêu lưu lãng mạn kỳ tình, thoát ly khỏi bối cảnh sử thi. Chương 22 miêu tả Út Thiện trở thành lý thuyết gia của “chỉ huy giáo chủ”. Đó hoàn toàn là một cuộc phiêu lưu cá nhân. Không rõ “chỉ huy giáo chủ là ai” , có vai trò lịch sử gì trong cấu trúc của cốt truyện. Cũng vậy, chương 23, Xêđin và người đàn bà vào rừng đi tìm Bảy Lì cũng mơ hồ phiêu lưu như vậy. Người đọc không biết người đàn bà ấy là ai, có vai trò gì trong cuộc xâm lựợc cuả Pháp hay không ( thực sự thì mụ ta không có vai trò gì). Cảnh giải cứu Hai Đính (chương 10, tr, 92) là cảnh giả. Hai Đính là cán bộ cấp tỉnh uỷ, sao không được tổ chức vũ trang cách mạng cuả Đảng  giải cứu mà chỉ do một cô gái ( Mai Lan giả gái làm tiền ) và một cháu bé (Kỳ lô) ngẫu hứng thực hiện. Không ai rõ Hai Đính bị bắt như thế nào, việc một tỉnh uỷ viên bị giặc bắt có tầm quan trọng thế nào.

 

 HVB cũng sử dụng nhiều yếu tố tình cờ, ngẫu nhiên để đẩy mạch truyện đi tới. Khi Hương bị giặc bắt, Bằng và Sáu Diêm trong hai đêm liền, tổ chức tấn công để cứu Hương, nhưng thất bại, bị thương vong hơn chục người. Vậy mà,  Sáu Lé, Kỳ Lô, Từ Khiêm đã giải thoát Hương dễ dàng (tr.291). Một trường hợp khác, trong khi Hai Đính, Bằng, Bảy Lỳ họp với phái bộ Pháp, thì ông già chèo đò Hai Thố báo tin mật cuả tỉnh uỷ cho Hai Đính,  rằng ở nhà đã chuẩn bị xong (tr173). Người đọc tự hỏi Hai Thố làm gì mà có tin mật cuả Tỉnh Uỷ báo cho Hai Đính , và tỉnh ủy là ai? Cũng tình cờ như  vậy, lúc Bằng, Sáu Diêm, Kỳ Lô dẫn các đại đội tiếp cận chi khu cây Đào, chuẩn bị nổ súng thì Sáu Lé  xuất hiện, báo tin đình chiến rồi, chỉ còn 10 phút nưã là lệnh đình chiến có hiệu lực (tr.300). Người đọc tự hỏi,  không biết Sáu Lé lấy tin ở đâu ra, trong khi Bằng là người chỉ huy cao cấp ở Đồng Nai lại không biết gì về tin ấy. Các trận đánh lớn  giưã quân dân Đồng Nai và giặc Pháp không được miêu tả trực tiếp, chỉ được nhắc tới như là một mẩu tin (thí dụ,  đánh lớn ở mặt trận Tân Uyên, tr.88). Cũng có những sự việc HVB bỏ quên không xử lý hiệu quả. Đó là việc Bảy Lì cho căng dây ngang sông Đồng Nai treo bộc pha đánh tàu Pháp và việc Út Chót cho đổ đá xuống sông (chương 14,15) không biết để làm gì và cũng không gây được hiệu quả gì. Người đọc ngạc nhiên vì HVB là một nhà văn quân đội, sao không miêu tả một trận đánh oanh liệt, tiêu biểu của nhân dân Đồng Nai làm bối cảnh sử thi cho tác phẩm ? Tôi tin rằng HVB hoàn toàn có khả năng miêu tả được những cảnh ấy, vì ông đã miêu tả rất sinh động cảnh nhân dân làng Bình Long  đánh giặc chống càn ( chương 26). Có lẽ HVB thiếu vốn sống về thực tại chiến đấu ở Đồng Nai, và vì là tác phẩm sử thi, tác giả không thể hư cấu những cảnh như vậy ? Điều này chưa  hẳn đúng, vì Từ năm 1946 đến năm 1962, HVB là Trưởng ban giáo dục huyện Tân Uyên, ông là người con Đồng Nai, là nhân chứng lịch sử của Đồng Nai

 

Tác phẩm kết thúc bỏ lửng, câu chuyện Miền Đất Ven Sông (MĐVS) sẽ còn tiếp tục trong kháng chiến chống Mỹ.

 

Có thể nhận ra những đặc điểm gì cuả ngòi bút HVB trong tác phẩm sử thi này ?

 

Khi được hỏi nhà văn tâm đắc nhất tác phẩm nào, HVB trả lời  tác phẩm sử thi  Miền Đất Ven Sông . Đọc MĐVS, người đọc thấy được  hình ảnh gia đình nhà văn trong bóng dáng các nhân vật. HVB kể : “Những năm 1945 – 1958, gia đình tôi bị Pháp giết hại nhiều quá. Anh Năm tôi bị chúng cắt cổ tại đầu làng. Ba tôi uất ức và chết sau hai ngày cái chết của anh Năm tôi. Anh Tám tôi đi bộ đội, bị thương, bị chúng bắt giam, tra tấn, chết sau khi thả ra hai tháng. Má tôi lên chiến khu thăm con bị chúng bắn bị thương. Anh Bảy, anh Tư, anh Ba tôi cũng bị bắt giam, bị tra tấn…làng tôi bị biến thành vành đai trắng từ đó đến 1975. Tôi căm thù chúng, tôi thương cha mẹ an hem và tôi quyết viết một cái gì đó để trả thù, ít ra cũng để thiên hạ biết tội ác tày trời của chúng. Tôi đi kháng chiến mà quyết ăn chay, tu tại tâm, và quyết viết sách để tố cáo tội ác cuả chúng” ( Văn nghệ Tp HCM,  số 513 ngày 1.1.1988. Tr 8)

 

Điều này giúp lý giải ý thức sáng tạo và bút pháp cuả HVB. Động lực viết cuả HVB là tình yêu quê hương, gia đình ; là lòng căm thù giặc ; là dùng văn chương để đánh giặc. Chất liệu, bối cảnh, nhân vật, sự kiện là từ cuộc sống thực. Và những gì tác giả viết ra xuất phát từ chính những trải nghiệm của nhà văn. HVB tâm sự :” Với chúng tôi, mỗi trang bản thảo đều đổi bằng cái giá không biết thế nào mà tính được. Đắng cay lắm. Giờ đây, khi còn sống ngồi viết lại những dòng này, tôi càng thấm thiá rằng mỗi một dòng, một trang sách đối với chúng tôi (ít tài năng) chúng tôi phải trả bằng cả cuộc đời, bằng trăm nghìn thứ hy sinh trên đời này”(Văn Nghệ Đồng Nai, số 8/1987). Với những trang văn, trang đời như thế, cách đọc, tâm thế đọc, cách tiếp cận phải khác với kiểu đọc tác phẩm hư cấu.

 

Giá trị cốt lỗi cuả văn chương HVB là ở tình yêu quê hương, ở những trang văn viết về con người và đất nước Đồng Nai. Nhiều nhà phê bình đã nhận xét như vậy. TS Huỳnh Văn Tới nhận định :” Phải nói rằng, những trang viết, thước phim của nhà văn Hoàng Văn Bổn đầy sức sống là do trong đó có sự kết tinh và nâng đỡ của lý tưởng cách mạng, vàng lửa của cuộc sống kháng chiến, ân tình của quê hương…”(Điếu Văn vĩnh biệt nhà văn HVB).Nhà nghiên cứu Bùi Quang Huy cũng nhận định :” Công bằng mà nói, đến nay, chưa có nhà văn nào có được những trang viết ăm ắp chất liệu cuộc sống kháng chiến của người miền Đông Nam bộ như Hoàng Văn Bổn.( Báo Đồng Nai 13.5.2006). Nhà văn Trần Thu Hằng cũng khẳng định :” Ông cũng luôn giữ được bản sắc của một người con của Đồng Nai – Nam bộ dù có phải lăn lộn trên bất kỳ chiến trường nào, sống trong bất kỳ một hoàn cảnh nào, dù là hoàn cảnh nguy hiểm, khắc nghiệt nhất. Đó là tình yêu nhiệt thành đối với quê hương; một lòng tin sắt son vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước; và một chí khí người “Đồng Nai khoai củ”(Blog Trần Thu Hằng 26.06.2009). HVB là nhà văn lớn cuả Đồng Nai cũng là nhà văn lớn cuả văn chương Việt Nam trong cả hai cuộc kháng chiến vĩ đại cuả dân tộc

 

Nếu nhìn tác phẩm văn chương ở nhiều góc độ khác nhau, người đọc có thể nhận ra cái riêng cuả HVB. Để viết một chương, ông thường bắt đầu bằng những cảnh sinh hoạt đời thường, rồi  bất chợt để một nhân vật thông báo một tin gì đó, đẩy câu truyện đi tới. Kỹ thuật này tuy có làm cho hiện thực được phản ánh phong phú, song vấn đề là ở chỗ những cảnh đời thường ấy có góp phần tạo nên sự hấp dẫn cuả cốt truyện hay không. Quả thực HVB không có được một cốt truyện hấp dẫn, và những cảnh đời thường ấy làm cho tác phẩm dàn trải.

 

Viết sử thi, HVB không xây dựng cốt truyện cuả riêng mình , mà kể câu chuyện theo sự trôi chảy cuả thời gian cùng với những sự kiện  đang diễn ra trong hiện thực. Tập II là sự việc cuả vài chục ngày từ cách mạng tháng tám 1945 đến 23 tháng 9.1945 khi Pháp tấn công Sàigon.Tập III là những ngày tháng tiêu thổ kháng chiến được miêu tả kỹ, sau đó là ý thức thời gian mù mờ về 9 năm kháng chiến. Tuy có tập trung vào các nhân vật cuả gia đình Bác Sáu, và cố gắng miêu tả số phận cuả các nhân vật, song Sử thi cuả HVB là loại truyện không có cốt truyện, vì thế không tạo ra được sức hấp dẫn văn chương. Cuối cùng tác phẩm trở thành như một sự minh hoạ hiện thực mà không lý giải hiện thực. Chẳng hạn, tập III tập trung minh hoạ tiêu thổ kháng chiến mà không lý giải đầy đủ tầm quan trọng và hiệu quả cuả bước chiến lược ấy trong kháng chiến chống Pháp. Đốt sạch, phá sạch, tản cư, và chỉ có thế. Tác phẩm đã không phản ánh được chân thực lịch sử như lịch sử đã diễn ra.

 

HVB có ưu thế về viết đối thoại, xây dựng những hoạt cảnh , thí dụ cảnh làng Bình Long chiến đấu chống càn (chương 26, tập III). Ông cũng có tài  phân tích tâm lý nhân vật , chẳng hạn trạng thái khủng hoảng tinh thần cuả Ngô Kỳ Hồng và Hồng Loan,( chương 27,29, tập III). Tuy vậy nhân vật cuả ông chưa được cá thể hoá thành những tính cách điển hình như yêu cầu cuả phương pháp sáng tác hiện thực. Ngoại trừ nhân vật Bảy Lì tạo được ấn tượng về một tính cách, còn lại, các nhân vật khác được miêu tả có suy nghĩ, cảm xúc na ná như nhau. Hương và Hồng Loan chỉ khác nhau ở xuất thân, Hồng Loan đẹp và giỏi ngoại ngữ. Người đọc cũng khó nhận dạng sự khác biệt giữa Hai Đính và Bằng. Lêông Phước, Ngô Kỳ An, Đờ Mên cùng một tính cách. Các nhân vật khác như Bác Sáu trai, Năm Di, Ba Sang, Hai Nở, Từ Khiêm.. đều mờ nhạt, mặc dù họ  xuất hiện nhiều lần trong tác phẩm và không phải là không có những hoàn cảnh đặc biệt.Ngoài ra còn phải kể đến nhiều nhân vật có tên nhưng chưa thành nhân vật.Thật khó có thể chọn được một nhân vật trong MĐVS thực sự điển hình cho con người Đồng Nai.

 

HVB có nhiều trang văn rất giàu chất thẩm mỹ, song  tác phẩm cuả ông cũng có nhiều yếu tố làm hỏng giá trị văn chương  của ông. Ông  sử dụng nhiều từ cường điệu, có cả yếu tố tục. Nhiều cảnh được tả phóng bút chỉ có thể diễn cách điệu trên sân khấu cải lương, khó xảy ra trong hiện thực. Nhiều hư cấu ngẫu nhiên phi logic, có khi miêu tả áp đặt. Chẳng hạn , trong cách miêu tả nhân vật Ngô kỳ Hồng, Đờ Mên,ngay từ những tập đầu, người đọc đã dự đoán được chắc chắn hai nhân vật này sẽ đào thoát.  Hồng Loan là nhân vật hết sức gắn bó với Cách mạng, tác giả cũng bắt nhân vật phải bỏ cách mạng . Ông không cho nhân vật này bất cứ cái gì có thể bám víu vào cách mạng.

 

Có thể thấy rõ kỹ thuật dựng cảnh trong phim  ảnh hưởng khá rõ trong cách viết tiểu thuyết cuả HVB. Ông kính máy ảnh có thể gíup miêu tả ngoại cảnh, dựng bối cảnh câu chuyện rất đắc lực, mất ít thời gian, và tạo được hiệu quả nghệ thuật. Trái lại, việc miêu tả như vậy trong văn chương sẽ làm câu truyện trở nên dài dòng, làm phân tán mạch truyện. Văn chương  là hình thức sáng tạo nghệ thuật khác với phim ảnh, điều này HVB chưa dung hoà được.

 

MĐVS được viết trước thời kỳ đổi mới, vì thế ta không thể đòi hỏi HVB phải có những cách tân trong cách viết, hay tư duy nghệ thuật. Ông viết để phản ánh, để tố cáo tội ác cuả kẻ thù, để thoả mãn khát vọng ghi lại những tháng ngày cuả quá khứ riêng ông. Ông tâm sự :” Sau lưng tôi 58 tuổi đời, 37 năm cầm bút, 42 năm theo CM cầm súng chiến đấu…những năm tháng ấy, những kỷ niệm ấy hoà trộn vào nhau thành một cuộc sống riêng của tôi, một thế giới riêng của tôi…Thật kỳ lạ, trong nhiều trường hợp tôi nhận thức hiện tại nhờ vào cái thế giới đã qua đó.Tôi bắt tay viết Lũ Chúng Tôi gần như là để thoả mãn cái thế giới quá khứ của tôi. (văn Nghệ Đồng Nai số 79. (3/87). Ông không viết với ý thức sáng tạo văn chương như là sự sáng tạo cái đẹp, vì thế, người đọc hôm nay khó tìm thấy một ý thức sáng tạo mới, một kiểu sáng tác mới hay một tư duy nghệ thuật mới trong văn của ông. Giá trị văn chương của ông thuộc về những lĩnh vực khác.

 

8/2009

 

(1)     Sông Đồng Nai được miêu tả ở nhiều trang trong cảnh ngộ và tâm trạng nhiều nhân vật :tr 63, 67, 80,115, 176, 224, 237,

(2)     “quần đóng phèn vàng khè (tr.7), lai quần vàng hoách nồng nặc, ngáy như hoà nhạc (tr.8). Hình ảnh cô gái chết chìm với khung ngực, bộ mông nứt toác, miệng ngậm chiếc lưỡi dài ngoẵng, căng phồng đã bị cá riả nham nhở (tr.58)…

(3)     Tr.55, 56, 58, 60, 61, 63, 143, 239..

(4)     Miêu tả đêm :53, 89, 96, 113, 114, 118, 122, 130, 148, 185, 200, 226, 232, 235…

(5)     Sáng ngày 23.9.1945, tại số nhà 269 đường Cây Mai (nay là đường Nguyễn Trãi) diễn ra cuộc họp khẩn cấp của Xứ ủy và Ủy ban nhân dân Nam Bộ. Bên ngoài nhiều người tụ tập chờ quyết định của hội nghị, tiếng la thét “xin cho đánh” dội vào phòng họp. Sau cùng hội nghị đi đến quyết định: một mặt điện báo gấp ra Trung ương và Hồ Chủ tịch xin chỉ thị, mặt khác phát động ngay cuộc kháng chiến.

(Thanh Hoàng )

 

(6).Tư liệu về Chiến khu Đ: Những sự việc được miêu tả trong tác phẩm có thấp thoáng bóng dáng lịch sử sau đây:Ngay từ tháng 10-1945, Pháp đánh chiếm  Biên Hoà, Thủ Dầu Một. Do tương quan lực lượng không cân sức, các đơn vị kháng chiến dần dân rút ra vòng ngoài để bảo toàn, củng cố lực lượng, tập trung về Tân Uyên (thuộc tỉnh Thủ Dầu Một). Đêm 22-10, một bộ phận gồm 40 người, trang bị 30 khẩu súng trường do đồng chí Huỳnh Văn Nghệ chỉ huy, kéo về Tân Tịch, Đất Cuốc. Nhiều lực lượng ở các nơi khác cũng lần lượt rút về Tân Uyên. Đầu tháng 11, đồng chí Nguyễn Bình được Trung ương Đảng cử vào phụ trách công tác quân sự ở Nam Bộ, đã chọn khu Lạc An lập căn cứ địa.

 

Ngày 10-2-1945, tại Đức Hoà (Chợ Lớn) hội nghị quân sự toàn Nam Bộ được triệu tập, quyết định chia Nam Bộ thành các chiến khu 7, 8, 9. Chiến khu 7, gồm các tỉnh Thủ Dầu Một, Biên Hoà, Tây Ninh, Gia Định, Chợ Lớn, Bà Rịa và Sài Gòn. Đồng chí Nguyễn Bình được chỉ định làm Khu trưởng và đồng chí Trần Xuân Độ làm Chính trị uỷ viên khu. Lạc An, được chính thức xây dựng thành căn cứ địa kháng chiến của Chiến khu 7, thường được gọi là Chiến khu Đ.

 

Đầu năm 1946, giặc Pháp đánh lan ra. Căn cứ Tân Uyên trở thành mục tiêu tấn công đầu tiên của chúng.
Chiến khu 7 phát triển nhiều mặt. Các lực lượng vũ trang ở đây đã dũng cảm chiến đấu tiêu diệt và đẩy lùi quân địch./.

 

Bùi Công Thuấn
Số lần đọc: 3958
Ngày đăng: 16.08.2009
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Nhân nghe CD Kiều Ba Miền của Lệ Ba - Nguyễn Ước
Chất trữ tình tuổi già trong thơ Xuân Sách - Nguyễn Hồng Nhung
Để có những trang viết tươi ròng sự sống - Lê Khánh Mai
William Carlos Williams: Thơ cài trên tủ lạnh - Nguyễn Đức Tùng
Đọc Ru tình lưu lạc của Nguyễn Ước - Nguyễn Hồng Nhung
Sức nặng của một Tuyển tập Thơ - Nguyễn Khắc Phê
Có một nhà thơ Xứ Nghệ... - Yến Nhi
Đọc thơ Ngân Giang :Trưng Nữ Vương - Khổng Ðức
Nhận diện truyện ngắn "Vàng lửa" qua yếu tố văn hóa - Đặng Văn Sinh
Những đối lập gay gắt trong "đất không giấu mặt" (1) - Lê Quang Trang
Cùng một tác giả
Tiếng kèn sắc-xô (truyện ngắn)
Hạnh (truyện ngắn)
Về đâu hoa phượng (truyện ngắn)
Ở nơi băng tuyết (truyện ngắn)
Giải hạn (truyện ngắn)
Tiếng hát ru (truyện ngắn)