Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.312 tác phẩm
2.745 tác giả
374
115.863.844
 
Kẻ sĩ chọn cái chết thể hiện chí hướng
Lê Ngọc Trác

Một người can đảm chọn cái chết để không mắc tội với vua và quyết không thể trở thành tội nhân của lịch sử và nhân dân. Đó là trường hợp của Trần Bích San, một danh sĩ triều Tự Đức.

Trần Bích San hiệu Mai Nham sinh năm 1840, người làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Năm 1864, ông đỗ giải nguyên. Năm 1865, thi đậu hội nguyên và đình nguyên nên được người đời xưng tụng là "Tam nguyên Vị Xuyên". Trần Bích San là một người tài giỏi, được người đời sánh ngang hàng với Vương Tăng, một danh sĩ đời Tống ở Trung Hoa. Ông được vua Tự Đức trọng dụng, đổi tên là Trần Hy Tăng. Trần Bích San từng được bổ nhiệm làm tuần phủ Hà Nội. Năm 1870, giữ chức lễ bộ sự vụ, được cử đi sứ sang Trung Quốc lo việc mở thương cục. Là một sĩ phu yêu nước, ông ủng hộ những người chống Pháp, kịch liệt phê phán những người bảo hòa, đầu hàng giặc để một phần đất nước rơi vào tay giặc Pháp xâm lược. Tháng 6 năm Đinh Mão (1867), Pháp chiếm 3 tỉnh miền tây Nam Kỳ, với nỗi lòng của một người yêu nước, Trần Bích San đã làm bài thơ "Văn Dương nhân bức thủ Vĩnh, An Hà tam tỉnh":

 

Nam trung bất khả đạo

Di lỗ tối tung hoành

Trực quát tam châu địa

Hà lao nhất thốn binh

Linh Châu thành dĩ một

Tống cảnh hộ thùy quynh

Lư kỹ do năng sính

Sài tâm thả nhật sinh

Chí nhân hoài đế đức

Thần vũ vọng thiên thanh

Thử địa đa hào kiệt

Du du cố quốc tình.

 

(Nam trung thôi hết nói

Giặc dữ rất tung hoành

Thẳng chiếm đất ba tỉnh

Không nhọc sức một binh

Thành Linh Châu đã mất

Cửa nước Tống ai canh?

Khôn lừa càng đua mạnh

Lòng sói lại nảy sinh

Nhớ ơn vua nhân hậu

Mong tiếng trời uy linh

Đất ấy lắm hào kiệt

Tình cố quốc mông mênh.

 

(Bản dịch của Chu Thiên)

Trước tình cảnh Pháp xâm chiếm đất nước ta, Trần Bích San đã viết bài thơ "Hải đào" với lòng căm thù sâu sắc:

Hoàng đường thu dạ tịch

Ngọa thính hải đào minh

Quỷ quốc do vi ngạnh

Ba tâm tự bất bình

(Phủ đường đêm thu lặng

Nằm nghe sóng bể gầm

Bọn quỷ còn ngang ngạnh

Lòng sóng cũng hờn căm)

 

(Bản dịch của Phùng Uông)

Trần Bích San là người có tư tưởng tiến bộ, muốn tiến hành cải cách nước ta về mọi mặt. Ông đã đề nghị triều đình sửa đổi việc đào tạo, tuyển chọn, sử dụng nhân tài, tăng cường củng cố xây dựng quân sự, mở mang công nghiệp, mở các cửa biển để thông thương mua bán với các nước, đưa học sinh du học ở nước ngoài. Trong bài "Thiên thời bất như địa lợi, địa lợi bất như nhân hòa luận", Trần Bích San đã nhấn mạnh đến vai trò của con người trong việc xây dựng đất nước và trong chiến tranh bảo vệ đất nước. Ông còn tha thiết đề nghị sửa đổi việc triều chính. Tiếc rằng, vua Tự Đức và một số quan lại bảo thủ đã bỏ ngoài tai những ý kiến quý báu, cực kỳ quan trọng của ông cũng như của những sĩ phu tiến bộ thời bấy giờ. Năm 1877, vua Tự Đức cử Trần Bích San dẫn đầu phái đoàn sang Pháp để tiếp tục nghị hòa và thương lượng về vấn đề Nam Kỳ. Đến thời điểm này, Nam Kỳ đã bị Pháp xâm chiếm được 10 năm. Một số nơi ở miền Trung và miền Bắc, quân Pháp tiếp tục gây hấn và chiếm đóng. Thế mà Tự Đức và triều đình còn "mù mờ", nói chuyện nghị hòa với Pháp, lại chọn một người có tư tưởng tiến bộ, chống Pháp đi đàm phán. Thật là trớ trêu! Từ năm 1862, rồi đến năm 1867, Phan Thanh Giản đã dẫn đầu phái đoàn nghị hòa với Pháp. Kết cuộc Nam Kỳ rơi vào tay Pháp. Đại học sĩ Phan Thanh Giản phải uống thuốc độc tự tử. Phan Thanh Giản còn bị triều đình cách bỏ chức tước, đục xóa tên ở bia Tiến sĩ. Bài học Phan Thanh Giản đã để lại cho đời nhiều đánh giá khác nhau (có lúc, bị xem như một tội nhân của dân tộc và lịch sử).

Ngay sau khi được triều đình cử dẫn đầu phái đoàn đi Pháp để đàm phán, Trần Bích San đã có ngay một sự lựa chọn. Với kẻ sĩ, không nhận nhiệm vụ là chống lại mệnh vua, là bất trung, vâng mệnh vua, đi nghị hòa với giặc, chưa chắc đã thành công. Với một người có tư tưởng chống Pháp, đứng trước bối cảnh lịch sử, trước cán cân lực lượng của ta và địch, trước sự nhu nhược bảo thủ của triều đình, theo Trần Bích San, nghị hòa là bán nước, đầu hàng giặc Pháp, sẽ trở thành tội nhân của dân tộc, đất nước và lịch sử đến muôn đời sau. Thế là sau khi vào triều trở về nhà được 1 ngày, Trần Bích San uống thuốc độc tự tử để phản đối chủ trương nghị hòa của triều đình, thể hiện chí hướng của mình. Ông đã lấy cái chết để thức tỉnh người đang sống. Trước khi tự tử, Trần Bích San đã viết bài thơ tuyệt mệnh, nói lên chí hướng và nỗi lòng của mình đối với tình cảnh của đất nước:

 

Tự sủy tài sơ xỉ vị cường

Tây sà kim hựu phiếm trùng dương

Cực tri sơn hải ân tình trọng

Na quản đông tây đạo lộ trường

Vạn lý Thiết thành thông dị vực

Thập niên Ngưu chử ức luân cương

Hoàng hoa tương mệnh tri hà bổ

Lại hữu gia du xuất miếu đường.

(Tự xét tài sơ tuổi chửa bao

Sứ Tây nay lại vượt ba đào

Ơn trên non biển còn mang nặng

Nẻo thẳm đông tây có sá nào

Muôn dặm Thiết thành non nước lạ

Mười năm Bến Nghé đắm chìm đau

Biết mình đi sứ, làm chi được

Trông cậy triều đình có chước cao.)

 

(Bản dịch của Phùng Uông)

Trần Bích San đã để lại cho đời các tác phẩm chính:  Thanh tâm tài nhân quốc âm thi, Nhân sự kim giám, Mai Nham thi thảo, Gia huấn ca...

Phạm Văn Nghị, một danh sĩ triều Nguyễn đã làm thơ khóc Trần Bích San:

Tài ngộ như kim hữu kỉ nhân

Điều canh trực nghĩ Tống danh thành

Nhất tâm đoạn thiết duy ưu quốc

Vạn lí phù sà cảm ái thân

Sinh dã hữu nhai tùy tạo hóa

Tử nan minh mục trọng quần thần

Hoàn danh hoàn cuộc ninh tu thuyết

Tráng ngã sơn hà khí vị nhân.

(Tài ngộ xưa nay được mấy ai ?

So cùng tướng Tống kém chi người

Một lòng son sắt luôn lo nuớc

Muôn dặm bè khơi dám tiếc đời

Sống chỉ có chừng, quyền tạo hóa

Chết khôn nhắm mắt, nghĩa vua tôi

Vẹn danh, tròn cuộc không cần nói

Khí mạnh non sông chửa chút vơi.)                                                      

 

(Bản dịch của Nguyễn Q. Thắng – Nguyễn Bá Thế)

Sau này, khi có dịp đi qua Vị Xuyên, quê hương của Trần Bích San, danh tướng Tôn Thất Thuyết, người cầm đầu phong trào Cần Vương, đã làm câu đối viếng Trần Bích San, ca ngợi và thương tiếc một con người tài hoa, trung hiếu của đất nước:

Lân quân độc thủ cô thành, quốc trung thần, gia hiếu tử

Sử ngã kinh qua thử địa, giang bán dạ, nguyệt trung thu

(Thương ông riêng tấm lòng thành, con hiếu của nhà, tôi trung của nước

Khiến tôi qua nơi đất cũ, dòng sông đêm vắng, vầng nguyệt giữa thu.)

 

(Bản dịch của Hoàng Tạo)

 

Tài liệu tham khảo & trích dẫn:

- Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim (1999)

- Vương triều cuối cùng của Phạm Minh Thảo (2007)

- Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam của Nguyễn Q. Thắng – Nguyễn Bá Thế (1999)

- Thơ văn yêu nước của NXB Văn học (1970)

Lê Ngọc Trác
Số lần đọc: 3006
Ngày đăng: 20.10.2009
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Ngôi báu và hai người đàn bà trong sử Việt - Đinh Kim Phúc
“Thất trảm sớ” và nhân cách của một con người - Đinh Kim Phúc
Môt Viện giáo dục –một chiếc áo-một bài báo và 30 triệu đồng! - Đinh Kim Phúc
Quan Hệ Trung-Nhật và Bài Học Kinh Nghiệm cho Việt Nam - Đinh Kim Phúc
Thủ Lĩnh Nguyễn Hữu Huân :Người anh hùng tự điếu mình - Lê Ngọc Trác
Hai trang web-hai thái độ - Đinh Kim Phúc
Hải quân Trung Quốc diễn tập tại biển Đông - Nhiều Tác Giả
Một cái chết bất tử - Nguyễn Tam Phù Sa
Nguyễn Thái Học "Chết vì tổ quốc, chết vinh quang" - Lê Ngọc Trác
Bản đồ "đường lưỡi bò" trên biển Đông: Bất chấp sự thật lịch sử và pháp lý quốc tế! - Nguyễn Nhã
Cùng một tác giả