Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.384 tác phẩm
2.747 tác giả
678
116.607.658
 
Tận cùng của Ðức tin: Tôn giáo, Nạn khủng bố và Tương lai của Lẽ phải-Phần 1
Sam Harris

Lẽ phải trong lưu đày

 

 

Người thanh niên bước lên khi chiếc xe bus vừa ra khỏi trạm. Y mặc một chiếc áo choàng. Dưới lớp áo của y dấu kín một trái bom. Trong các túi áo, đầy những đinh nhọn, bạc đạn và thuốc chuột.

 

Chuyến xe đầy khách chạy vào trung tâm thành phố. Người thanh niên ngồi chiếc ghế bên cạnh một cặp trung niên. Y sẽ đợi cho xe đến trạm kế. Cặp trung niên cạnh y đang tìm mua cái tủ lạnh mới. Người phụ nữ thích một loại nhưng ông chồng e ngại kiểu đó mắc quá. Ông chọn một kiểu khác trong tờ quảng cáo đặt trên đùi người vợ. Trạm kế vừa trờ đến. Cửa xe bus bung mở ra. Người đàn bà quan sát thấy kiểu tủ lạnh chồng bà lựa không vừa với dàn tủ trong nhà bếp của họ. Những hành khách mới lên đã ngồi kín đến chiếc ghế trống cuối cùng rồi tiếp tục đứng ra cả giữa lối đi. Chiếc xe bus bây giờ đầy ứ. Gã thanh niên mỉm cười. Chỉ một cái ấn nút nhẹ, y đã tự hủy chính mình cùng đôi vợ chồng trung niên bên cạnh và hơn hai mươi người khác trên chuyến xe. Những đinh nhọn, bạc đạn và thuốc chuột bắn tung tóe nhằm vào nhiều nhân mạng nữa trên đường phố và các xe cộ chung quanh. Tất cả xảy ra đúng như kế hoạch đã định.

 

Chẳng bao lâu sau đó, cha mẹ gã thanh niên biết được số phận của y. Dù buồn vì mất đi đứa con trai, nhưng họ vô cùng tự hào về thành quả của y. Họ biết y đã đến được cõi thiên đàng và sẽ dọn đường cho họ đến sau. Y cũng đọa đày được những nạn nhân của mình vào chốn địa ngục đời đời. Thật là một thắng lợi nhân đôi. Làng xóm láng giềng nhìn sự kiện này như một dịp trọng đại để ăn mừng và vinh danh cha mẹ gã thanh niên bằng cách biếu tặng họ tiền bạc và thực phẩm.

 

Những điều này là sự thật. Ðây là tất cả những điều mình biết chắc về gã thanh niên ấy. Ta có thể suy luận ra điều gì khác từ hành vi của y hay không ? Y có hòa đồng với mọi người trong trường học không ? Y giàu hay nghèo ? Thông minh hay kém cỏi ? Hành vi của y không để lại một dấu vết gì cả. Chẳng hiểu y có tốt nghiệp cao đẳng hay chưa ? Liệu y có một tương lai kỹ sư cơ khí sáng sủa hay không ? Hành vi của y đơn giản chỉ lặng im trước hàng trăm câu hỏi đại loại như thế [i]. Và, tại sao lại quá dễ, thậm chí dễ đến mức bạn có thể lập tức dám đánh cuộc mạng mình để đoán biết được ngay đạo giáo của y là gì ? [ii]

 

NIỀM TIN là một cái cần khởi động, một khi đã tác động vào, sẽ chuyển dịch tất cả mọi thứ trong đời sống của một con người. Bạn là một nhà khoa học ? Một ngưòi phóng khoáng ? Một kẻ kỳ thị chủng tộc ? Ðấy thật đúng là những dạng của niềm tin khác nhau trong hành động. Niềm tin của bạn sẽ xác định cái nhìn của bạn về thế giới, chi phối đến tình cảm của mình đối với những đồng loại khác. Nếu bạn nghi ngờ điều này, hãy thử xem đời mình sẽ thình lình thay đổi ra sao khi bạn trở nên tin vào một trong những điều sau :

 

1. Bạn chỉ còn sống được đúng hai tuần nữa.

2. Bạn vừa trúng sổ xố trị giá một trăm triệu dollars.

3. Người hành tinh đã cấy một cái máy trong đầu bạn và khống chế suy nghĩ của bạn.

 

Ðấy thuần túy chỉ là những câu chữ - trừ khi bạn tin vào chúng. Một khi đã tin, những câu chữ ấy trở thành cơ phận chính cho bộ máy suy tưởng của bạn, định đoạt các ước vọng, nỗi sợ hãi, niềm trông đợi và các hành vi đều hậu quả từ đó.

 

Tuy nhiên, có lẽ có vấn đề với một số những niềm tin hằng ấp ủ nhất của chúng ta về thế giới : Các niềm tin đã dẩn dắt chúng ta không một cách không thể cưỡng lại được đến việc giết hại người khác. Liếc nhìn vào lịch sử, vào bất cứ trang nhật báo nào, để vạch ra những ý tưởng vốn chia rẽ, phân nhóm nhân loại chúng ta để chỉ đoàn kết họ vào những giết chóc, thường là có căn nguyên từ tôn giáo. Dường như nếu loài người chúng ta từng tự tiêu diệt chính mình trong chiến tranh, thì không phải bởi vì việc ấy đã được viết ra từ trên những vì sao xa xôi mà chính ngay từ các kinh sách của chúng ta; là những gì chúng ta hành động vì các từ như “Thượng đế” , “thiên đàng” và “tội lỗi” trong chính hiện tại này khiến định đoạt đến tương lai của chúng ta.

 

Hoàn cảnh của chúng ta là như thế này : hầu hết mọi người trên thế gian tin rằng Ðấng tạo nên vũ trụ đã từng viết một cuốn sách. Bất hạnh là chúng ta đã có quá nhiều cuốn sách như thế trong tay, mỗi cuốn sách lại độc quyền xác quyết như thể mình không thể sai lầm được. Con người thường tự tổ chức mình thành những phần nhóm nhỏ theo những loại xác quyết vốn đố kỵ lẫn nhau nào mà họ từng tin – hơn là từ căn bản của ngôn ngữ, màu da, nơi sinh quán hay bất cứ các tiêu chuẩn nào khác của tính bộ tộc. Mỗi văn, kinh bản này thôi thúc người đọc chấp nhận một số niềm tin và cách thực hành khác nhau, một số niềm tin thì vô hại nhưng đa số còn lại thì không. Tuy nhiên, tất cả đều ở trong một thỏa thuận ngoan cố về một vấn đề có tầm quan trọng chủ yếu : sự “tôn trọng” các đức tin khác, quan điểm khác của những người không tin theo, đều không phải là thái độ mà Thiên chúa yêu thích. Trong khi ở nơi này nơi khác, tất cả các đức tin đã được đề cập đến trong tinh thần thống nhất Ki-tô giáo trên toàn cầu, tín điều trọng tâm của mọi truyền thống tôn giáo rằng tất cả những niềm tin khác loại chỉ là một kho chứa đựng các sai lầm, hay nói cho đúng nhất là thiếu sót một cách nguy hiểm. Sự bất khoan dung này ẩn sâu trong mọi tín ngưỡng. Khi một người đã tin, thực sự đã tin - rằng một số tư tưởng có thể dẫn mình đến hạnh phúc đời đời hay đến chốn ngược lại, y sẽ không tha thứ cho cái khả năng người mình yêu thương lại bị lạc đường từ sự tán tỉnh của những kẻ không tin. Xác tín về thế giới bên kia đơn giản là không thích hợp với lòng tha thứ trong đời sống này.

 

Tuy vậy, việc bình phẩm về những điều này trực tiếp mang lại khó khăn cho chúng ta, bởi vì phê bình đức tin của một con người vẫn còn là một điều cấm kỵ trong mọi ngõ ngách của văn hóa chúng ta. Về chủ đề này, những người phóng khoáng và thủ cựu cùng đạt đến một đồng thuận hiếm hoi: các niềm tin tôn giáo đơn giản là đứng trên các phạm vi của bàn luận lý lẽ. Phê bình ý tưởng của một ai về Thiên chúa hoặc đời sau bị xem như bất lịch sự trong khi cùng một phê bình như thế về lịch sử hay vật lý học thì không hề gì. Và như thế có nghĩa là khi một kẻ đánh bom tự sát Hồi giáo xóa sạch dấu vết của chính mình cùng với nhiều ngưòi vô tội khác trên một đường phố ở Jerusalem thì vai trò của đức tin trong hành động của y luôn luôn được giảm nhẹ. Động cơ của y chắc chắn phải là do chính trị, kinh tế hoặc hoàn toàn có tính cá nhân. Không có đức tin, những con người tuyệt vọng vẫn hành động các sự việc khủng khiếp. Còn bản thân đức tin luôn luôn được miễn tội, ở đâu cũng thế.

 

Nhưng khoa học kỹ thuật có một phương cách tạo nên các yêu cầu đạo đức mới. Kỹ thuật tiến bộ của chúng ta trong nghệ thuật chiến tranh cuối cùng phải trao lại cho các khác biệt tôn giáo – chính từ đây các niềm tin tôn giáo của chúng ta - đối nghịch lại sự sống còn của chúng ta. Chúng ta không còn có thể làm ngơ trước sự việc hàng tỉ anh em láng giềng tin vào cái siêu hình của sự tử đạo, hay tin vào sự thật theo nghĩa đen của kinh Khải huyền, hay là từ bất cứ một quan niệm lập dị nào đã từng ẩn náu trong những người ngoan đạo suốt hàng nghìn năm - bởi vì ngày nay láng giềng mình đã trang bị vũ khí sinh học, hóa học và hạt nhân. Không còn nghi ngờ gì nữa rằng những phát triển này đánh dấu giai đoạn cuối cùng cho tính cả tin nhẹ dạ của chúng ta. Các từ ngữ như “ Thiên chúa” và “Allah” phải đi theo con đường của “thần Apollo” và “thần Baal” nếu không, thế giới của chúng ta sẽ phải tiêu tan.

 

Vài phút lang thang trong nghĩa địa của các tư tưởng tồi sẽ thấy rằng một cuộc cách mạng về nhận thức như thế là có khả năng. Hãy xem trường hợp của thuật giả kim: nó đã quyến rũ con người từ nhiều ngàn năm nhưng ngày nay nếu có ai nghiêm chỉnh nhận mình là một người thực hành giả kim thuật chắc chắn y sẽ tự loại mình ra khỏi tất cả các vị trí có trách nhiệm trong xã hội chúng ta. Các tôn giáo dựa trên đức tin lẽ ra cũng phải chịu sự suy thoái tương tự vào lãng quên.

 

Có một thay thế nào cho tôn giáo mà chúng ta hằng được biết ? Đây là một câu hỏi sai. Ngành hóa học không phải là một “thay thế” cho thuật giả kim; đó là sự đổi chác hàng loạt của sự ngu dốt lỗi thời nhất của kiến thức chân thực.[iii] Chúng ta sẽ nhận ra, như với trường hợp giả kim thuật, rằng nói đến sự “thay thế "đối với đức tin tôn giáo là trật vấn đề.

 

Dĩ nhiên, con người của đức tin rơi vào một thể tiếp diễn: một số tìm được khuây khỏa và cảm hứng từ một truyền thống tôn giáo đặc trưng những vẫn luôn gìn giữ lòng tận tụy cho sự tha thứ và tính đa dạng, trong khi những người khác sẽ thiêu cháy cả địa cầu ra tro than nếu như cần phải tiêu diệt kẻ dị giáo. Nói một cách khác, có tôn giáo ôn hòa, có tôn giáo cực đoan, và không nên nhầm lẫn về các đam mê cùng các công trình khác nhau của họ.  Tuy nhiên, một trong những trọng tâm của tác phẩm này là, những người ôn hòa tôn giáo chính là đang tự chống đỡ cho một giáo lý tệ hại: họ tưởng tượng rằng con đường dẫn đến an hòa sẽ được lát một khi mỗi chúng ta học được cách tôn trọng các niềm tin vô chứng cứ của kẻ khác. Tôi hy vọng chỉ ra rằng chính cái lý tưởng của vị tha tôn giáo này – đã đẻ ra ý tưởng rằng mọi con người nên được tự do tin vào bất cứ điều gì họ muốn tin về Thiên chúa – là một trong các lực chủ yếu kéo chúng ta xuống vực thẳm.

 

Chúng ta đã chậm nhận ra cái mức độ mà đức tin tôn giáo đã ghi khắc vĩnh viễn cái phi nhân tính của con người vào con người. Điều này không ngạc nhiên bởi vì đa số chúng ta vẫn còn tin rằng đức tin là một bộ phận quan yếu của đời sống con người. Hiện nay, hai điều hoang đường giữ đức tin vượt qua được các tranh cãi của phê phán thuộc về lý lẽ, và các huyền thoại này như đã nuôi dưỡng đồng đều cho cả tôn giáo ôn hòa lẫn chủ thuyết tôn giáo cực đoan : (1) đa số chúng ta tin rằng con người thực có hưởng được những điều tốt từ đức tin tôn giáo mà không thể  tìm được ở đâu khác ( td. Các cộng đồng vững mạnh, cư xử hợp đạo lý, các chứng nghiệm về tâm linh); (2) đa số chúng ta tin rằng nhiều điều tệ hại đã đôi lúc xảy ra dưới danh nghĩa tôn giáo không phải là sản phẩm của tự bản thân đức tin mà là cái gì thuộc bản chất tự nhiên - các động lực như tham lam, hận thù hay sợ hãi - những thứ mà tự chính niềm tin tôn giáo là thuốc chữa hiểu quả nhất (ngay cả duy nhất). Những điều hoang đường này, gộp chung lại, dường như đã ban cho chúng ta sự miễn nhiễm đến các bùng nổ về sự phải quấy trong các cuộc luận bàn công cộng.

 

Nhiều người ôn hòa tôn giáo đã xử dụng con đường hiển nhiên cao cả của chủ nghĩa đa nguyên, đòi hỏi đến giá trị đồng đều của tất cả mọi đức tin, nhưng trong khi làm như thế, họ tảng lờ không chú ý đến các khẳng định chân lý có tính bè phái tuyệt vọng của từng đức tin này. Chừng nào người Kitô giáo còn tin rằng chỉ có những đồng đạo đã rửa tội của mình mới được giải thoát trong ngày phán xét, người ấy không thể nào “tôn trọng” niềm tin của kẻ khác, bởi vì người ấy hiểu rằng ngọn lửa địa ngục đã cháy lên ngay từ chính các ý tưởng này và đã chờ đợi những kẻ tin theo ấy ngay từ bây giờ. Người Hồi giáo và người Do thái thường có những quan điểm ngạo mạn tương tự từ sự táo bạo của họ và đã nghìn năm nhiệt thành lập đi lập lại những sai lầm của các đức tin khác. Cố nhiên là những niềm tin đố kỵ nhau này đều không hề bị ô uế bởi chứng cứ.

 

Song le, trí thức các loại như H.G.Wells, Albert Einstein, Carl Jung, Max Planck, Freeman Dyson và Stephen Jay Gould đã tuyên bố rằng cuộc chiến tranh giữa lẽ phãi và đức tin còn lâu mới chấm dứt được. Theo quan điểm này, không cần phải có tất cả các niềm tin cũa chúng ta về sự nhất quán của vũ trụ. Một người có thể vừa là người Kitô giáo kính sợ Chúa vào ngày chủ nhật lại đồng thời là một nhà khoa học vào ngày thứ hai mà không hề phải giải thích về sự phân chia dường như đã tự trồi lên trong đầu mình lúc ngủ, và nếu như điều này có xảy ra, người này có thể có lý lẻ riêng của mình và ăn mòn nó luôn. Như những phần trước của cuốn sách này sẽ minh hoạ, chính bởi vì ở phương Tây, các nhà thờ đã đi hàng hai một cách khôn ngoan để ai cũng có thể nghĩ được bằng cách này. Ở những nơi mà các học giả có thể bị ném đá cho chết vì dám nghi ngờ sự chân thực của kinh Koran thì khái niệm của Gould về một “giáo ước thương yêu” giữa lẽ phải và đức tin đáng phải là một sự đánh lừa tuyệt hảo.[iv]

 

Điều này không phải để bảo rằng những quan tâm sâu sắc của những người ngoan đạo, ôn hòa hoặc cực đoan, là sai lầm hoặc không đáng kể. Không hề có sự chối bỏ rằng hầu hết chúng ta đều có những nhu cầu về tâm linh và tình cảm vốn đang được nhắc đến – dù quanh co và ở một cái giá đắt khủng khiếp - từ những tôn giáo chủ đạo. Và đây là những nhu cầu mà chỉ riêng hiểu biết của chúng ta, một cách khoa học hay cách nào khác, sẽ chẳng bao giờ có thể hoàn thiện được. Đây rõ ràng là một chiều kích thiêng liêng cho sự hiện hữu của chúng ta, và đi đến giới hạn của sự việc này chính là mục đích cao nhất của con người. Nhưng chúng ta tìm ra rằng không hề phải cần đến một đức tin trong những tuyên bố không thể kiểm chứng- như Jesus được sinh ra từ sự đồng trinh; Koran chính là lời của Thượng đế - để mà thực hiện mục tiêu cao cả đó.

 

Sự Hoang Đường của “Tính Ôn hòa” trong tôn giáo.

 

Ý tưởng rằng mỗi tôn giáo của chúng ta đại diện cho những lời không thể sai lầm được của một Thượng Đế Duy Nhất Thật (One True God) cần được nuôi dưỡng bằng cả một sự ngu đần có tính bách khoa của lịch sử, thần thoại học, và cả nghệ thuật nữa – như các niềm tin, lễ nghi và các mô tả tranh tượng của mỗi tôn giáo đã chứng minh hàng trăm năm giao phấn với nhau. Bất kể các cội nguồn tưởng tượng của họ từ đâu, các học thuyết của tôn giáo hiện đại không còn biện hộ được hơn những học thuyết khác vì những sự thiếu mạch lạc, đúc khuôn từ đống phế thải của thần thoại học hàng nghìn năm trước; bởi vì không còn bằng chứng nào nữa để minh giải một niềm tin vào sự hiện hữu phàm tục của Yahweh và Satan hơn là đã có để giữ thần Zeus trên đĩnh núi đăng quang của ngài hoặc Thủy thần sẽ quậy sóng biển lên.

 

Theo viện Gallup, 35 phần trăm người châu Mỹ tin Thánh kinh là những lời đúng và không thể sai lầm của Ðấng tạo hóa. [v]48 phần trăm tin đó là những lời “gợi ý” của cùng Ðấng ấy và không thể sai lầm được, mặc dù một số chương đoạn đã phải diễn dịch một cách tượng trưng trước khi sự thật của chúng được mang ra ánh sáng. Chỉ có 17 phần trăm còn lại trong chúng ta nghi ngờ rằng một Thiên chúa nhân tính, trong sự thông thái vô hạn của Người, có thể đã soạn văn bản này, hoặc, vì tầm hệ trọng đó, để tạo nên trái đất này với 250,000 loài bọ khác nhau. Khoảng 46 phần trăm người Mỹ đứng về phía quan điểm nghĩa đen của sự sáng thế (40 phần trăm tin Thiên chúa đã hướng dẫn sự sáng tạo thế gian thông qua hàng triệu năm). Ðiều này có nghĩa là 120 triệu chúng ta đặt sự kiện big bang vào 2500 năm sau khi người Babylon và Summerian biết học làm bia bọt. Nếu các con số thăm dò này là đáng tin cậy, gần 230 triệu người Mỹ tin rằng một cuốn sách không đồng nhất trong văn cách lẫn tính nhất quán nội dung đã được một đấng toàn năng, toàn trí và hiện hữu ở mọi nơi chốn soạn thảo ra. Một cuộc khảo cứu về Ấn độ giáo, Hồi giáo và Do thái giáo khắp thế giới chắc chắn cũng sẽ mang đến một kết quả tương tự, cho thấy rằng chúng ta, như một loài sinh thể, đã trưởng thành được một cách hoàn hảo không hề vẩn đục bởi các hoang đường thần thoại của chúng ta. Trong riêng lãnh vực này của đời sống, chúng ta đã tự thuyết phục được chính mình rằng các niềm tin về thế giới này có thể trôi đi thong dong hoàn toàn không cần đến một lý lẽ, một bằng chứng nào. Như thế là như thế nào ?

 

Chính vì tôn trọng hơn là ngạc nhiên đến bối cảnh của nhận thức này mà chúng ta phải phân định rõ thế nào là một người tôn giáo “ôn hòa” ở thế kỷ hai mươi mốt này. Những người ôn hòa trong mọi đức tin buộc phải giải thích lỏng lẻo (hoặc đơn giản cứ giả vờ quên đi) hầu hết những giáo điều vì các quyền lợi của cuộc sống trong một thế giới tân tiến. Không còn nghi ngờ gì rằng có một thứ chân lý kinh tế tối tăm đang tác động ở đây: các xã hội có vẻ trở nên kém phát triển một cách đáng kể mỗi lúc có một số đông người ngừng sản xuất các widget và bắt đầu giết hại khách hàng và các chủ nợ của mình vì họ dị giáo. Ðiều đầu tiên để nhận xét về sự rút lui của người ôn hòa từ chủ nghĩa đọc thánh kinh theo nghĩa đen là ở chỗ họ rút ra được cảm hứng  không phải từ kinh sách mà từ các phát triển xã hội vốn được diễn dịch từ những phát biểu của Thiên chúa vốn khó chấp nhận như đã được viết ra trong kinh sách. Ở Mỹ, phong trào ôn hòa tôn giáo còn được mạnh hơn từ sự thực là đa số người Mỹ và người Do thái không hề đọc Thánh kinh trọn vẹn và hậu quả là họ không biết gì về việc Thiên chúa của Abraham dứt khoát mãnh liệt muốn những kẻ dị giáo phải bị triệt tiêu. Ai đọc sách Ðệ nhị luật sẽ tìm thấy Người có một điều gì rất đặc biệt trong suy nghĩ nếu như con trai, con gái bạn trở về nhà sau buổi học Yoga mà dám bênh vực cho sự sùng kính đấng Krishna :

 

Nếu anh em của ngươi, con trai của mẹ ngươi, hay con trai, con gái của ngươi, ngưòi vợ ôm ấp của ngươi, bạn thân như chính bản thân mình của ngươi, bí mật lén lút cám dỗ ngươi mà nói rằng “ Chúng ta hãy đi phụng thờ các thần chúa khác”,… ngươi không được ưng thuận, nghe lời hay nhường bước chúng nó, không được thương hại chúng, không được tha thứ chúng, không được dấu giếm bao che chúng mà phải giết chúng đi. Tay ngươi phải là bàn tay đầu tiên trước tất cả  mọi người khác để giết chúng chết đi.Nó phải chết bởi vì đã tìm cách lôi kéo ngươi ra khỏi đất Ai cập, rời khỏi cảnh nô lệ… Nếu ngươi nghe thấy, nơi một trong những thành mà Thiên chúa đã ban cho ngươi để ở, rằng có những kẻ phát xuất từ các ngươi và lôi kéo dân cư mà bảo rằng “Mình hãy đi thờ phụng những thần chúa khác” những thần, chúa mà ngươi không được biết thì các ngươi phải điều tra, xem xét, tra hỏi kỹ lưỡng để chắc rằng đã có điều đáng ghê tởm như thế từng được thực hiện giữa các người,thì chắc chắn rằng ngươi phải đặt những cư dân ấy dưới lưỡi gươm, hủy diệt đến tận cùng, tất cả mọi người trong thành cùng nhà cửa dinh thự.

 

DEUTERONOMY 13:7-11

 

Dù việc ném đá vào trẻ con đã trở nên lỗi thời trong đất nước chúng ta, bạn cũng không hề nghe một người Kitô giáo ôn hòa hay một người Do thái tranh cãi gì về việc đọc các chương đoạn như thế này “một cách tượng trưng”. (Thực ra, có một đoạn đã bị ngăn chặn dứt khoát bởi chính Thiên chúa trong sách Ðệ nhị luật 13:1 – “ Bất cứ điều gì ta ra lệnh cho ngươi bây giờ, ngươi phải giữ lấy và tôn trọng, không thêm thắt, không bỏ đi gì cả” ) Chương trên đây đã hợp quy tắc giáo hội như bất cứ chương nào khác trong Thánh kinh, và nó đã được như thế chính từ việc tảng lờ đi những hành vi man rợ để cuốn sách tốt lành có thể hòa giải được với cuộc sống trong thế giới tân tiến. Ðây là vấn nạn của “ôn hòa” trong tôn giáo: nó không có cái gì để bảo hiểm mình hơn là sự tảng lờ không thừa nhận về nghĩa chữ của luật thánh.

 

Lý do duy nhất của một ai “ôn hòa” trong vấn đề đức tin ngày nay là kẻ ấy đã tiêu hóa một số hoa trái của tư tưởng nhân loại suốt hơn hai nghìn năm qua (các nền chính trị dân chủ,[vi] các tiến bộ của khoa học trên tất cả mọi mặt, các quan tâm về nhân quyền, sự chấm dứt các cô lập về văn hóa và địa lý, v.v…). Cánh cửa dẫn ra khỏi chủ nghĩa kinh bản nghĩa đen không được mở ra tự bên trong. Sự ôn hòa chúng ta nhìn thấy giữa những kẻ không chính thống không phải là những chỉ dấu cho thấy đức tin tự nó đang chuyển hóa. Ðúng hơn, nó là sản phẩm sau nhiều cú đánh trí mạng của nền hiện đại khiến lộ diện ra một số tín điều trở nên đáng nghi hoặc của đức tin. Không một chút gì tối thiểu trong những diễn biến này là sự xuất hiện xu hướng nhằm đánh giá chứng cớ hoặc bị thuyết phục bởi những xác nhận đến mức thực sự tin có bằng chứng cho việc ấy. Ngay đa số những người thuộc tôn giáo chính thống sống trong ánh sáng hợp lý về mặt này; dường như lý trí của họ đã phải phân chia ra sao cho phù hợp với những khẳng định sự thật vốn hoang phí về đức tin của mình. Bảo một người Kitô giáo sùng đạo rằng vợ anh đang gian dối anh, hoặc ăn sữa chua đông lạnh có thể làm anh trở nên vô hình. Như mọi người, hầu như anh ta sẽ đòi hỏi các bằng chứng càng nhiều càng tốt, và anh chỉ có thể bị thuyết phục trong giới hạn của những bằng chứng mình có thể tìm được. Bảo anh ta rằng cuốn kinh sách anh giữ ở đầu giường được viết bởi một đấng thần linh vô hình và đấng này sẽ trừng phạt anh bằng ngọn lửa địa ngục miên viễn nếu anh ta không chấp nhận các khẳng định tồi tệ về vũ trụ thì anh ta lại sẽ không đòi hỏi bằng chứng gì cả.

 

Ôn hòa tôn giáo phát sinh từ sự thật là ngay cả một người ít học nhất giữa chúng ta cũng hiểu biết nhiều hơn về một số sự thể mà ai đó đã thực hiện từ hai ngàn năm trước – và hầu hết kiến thức này đều tương thích với kinh sách. Nếu được nghe hiểu về các khám phá của y học trong thế kỷ qua, tất cả chúng ta không ai còn coi quá trình bệnh tật như một thứ tội lỗi hay là quỷ ám nữa. Ðược học hiểu về khoảng cách của các vật thể trong vũ trụ, hầu hết chúng ta (đúng ra là khoảng một nửa chúng ta) nhận ra ý tưởng cho rằng tất cả vạn vật đã được tạo nên sáu ngàn năm trước (với ánh sáng từ các vì sao xa xôi đã sẵn sàng để chuyển xuống địa cầu) thì thật không thể nào xem là nghiêm chỉnh được. Những nhượng bộ đối với cái hiện đại như vậy không hề cho thấy đức tin không hề thích hợp một chút nào với lẽ phải, hay các tôn giáo của chúng ta đang có căn bản để học hỏi những cái mới. Ðó chính là cái lợi ích của sự tảng lờ (hay phiên dịch lại) một số chủ đề của đức tin đang tràn ngập hiện nay. Bất cứ ai phải bay đến một thành phố khác để giải phẩu heart-bypass đã thừa nhận, hoặc tối thiểu là ngầm thừa nhận rằng, kể từ thời Moses đến nay, chúng ta đã thực sự học hỏi được một số điều về vật lý học, địa lý, kỹ thuật và y học.

 

Do đó, không phải là các văn bản ấy giữ được sự vẹn toàn với thời gian         (chúng vốn không giữ được như thế) mà chính là vì chúng đã được biên soạn một cách hiệu quả từ sự tảng lờ của chúng ta đối với một số chương đoạn. Hầu hết những chương đoạn còn lại – các phần tốt – đã được tha miễn khỏi sự sàng lọc tương tự bởi vì chúng ta chưa có được sự hiểu biết thực cận đại về các cấu thành luân lý của chúng ta và năng lực của chúng ta đối với kinh nghiệm tâm linh. Nếu chúng ta có hiểu biết tốt hơn về các công việc của não bộ con người, chúng ta chắc chắn sẽ khám phá ra những liên kết đúng giữa tình trạng ý thức của chúng ta và cung cách ứng xử của chúng ta và có thể xử dụng nhiều phương cách khác nữa cho các chú tâm của chúng ta. Cái gì khiến cho người này hạnh phúc hơn người kia ? Tại sao yêu thương có ích lợi hơn là oán ghét ? Tại sao chúng ta thường thích vẻ đẹp hơn là sự xấu xí, thích trật tự hơn là náo loạn ? Tại sao lại cảm thấy sung sướng để mỉm cười hay cười vang lên và tại sao khi chia xẻ những kinh nghiệm này sẽ mang con người lại gần nhau hơn ? Phải chăng cái tôi là một ảo giác, và, nếu là ảo giác, cái tôi muốn ám chỉ cái gì cho đời sống con ngưòi ? Có một đời sống khác sau khi chết hay không ? Ðấy là những câu hỏi chủ yếu, cuối cùng, cho một nền khoa học trưởng thành của tâm hồn. Nếu chúng ta đã từng khai triển được một nền khoa học như thế, thì hầu hết các văn bản tôn giáo đã không còn ích lợi cho sự huyền bí hay cho thiên văn học như hiện nay.

 

Trong khi sự ôn hòa trong tôn giáo có vẻ như là một vị trí hợp lý để khoanh vùng, trong ánh sáng của tất cả những gì chúng ta từng (và chưa từng) hiểu biết về vũ trụ, ôn hòa tôn giáo không mang lại được bức tường thành ngăn cản cực đoan tôn giáo và bạo hành tôn giáo. Từ bối cảnh của những ai tìm cách sống với từng từ ngữ của các văn bản, những người ôn hòa tôn giáo không khác hơn là một ngưòi chính thống thất bại. Người ấy, có nhiều khả năng, sẽ đi đến chung cuộc trong cõi địa ngục cùng với tất cả những kẻ không tôn giáo khác còn lại. Cái vấn nạn mà ôn hòa tôn giáo mang đến với chúng ta là họ không cho phép được nói lên một điều gì chống lại chủ nghĩa tôn giáo nghĩa đen. Chúng ta không thể bảo rằng người chính thống là điên bởi vì họ chỉ đơn thuần thực hành quyền tự do tin của mình, ngay cả chúng ta không thể bảo rằng họ đang sai lầm trong các phạm trù tôn giáo, bởi vì kiến thức về kinh sách của họ thường là vô địch. Tất cả những gì chúng ta có thể nói, như một người ôn hòa tôn giáo, là chúng ta không thích các phí tổn cá nhân và xã hội hoàn toàn theo kinh sách đang bắt chúng ta phải gánh chịu. Ðây không phải một hình thức mới của đức tin, hoặc ngay cả không phải là một phạm trù mới của bình giải kinh sách. Nó đơn giản chỉ là một sự thỏa hiệp với một loạt những quyền lợi quá-con-người mà chủ yếu không có gì liên quan đến Thiên chúa. Tôn giáo ôn hòa là sản phẩm của kiến thức thế tục và sự ngu xuẩn kinh sách – và tôn giáo ôn hòa không có thiện ý, trong điều kiện tôn giáo, để đặt nó ngang hàng với trào lưu chính thống.[vii] Bản thân các văn tự không mang hai nghĩa: chúng hoàn hảo trong tất cả các phân đoạn. Từ ánh sáng của kinh sách, ôn hòa tôn giáo đã phô bày cho thấy chẳng khác gì hơn là một sự không tự nguyện quy phục hoàn toàn vào luật Thiên chúa. Chính từ thất bại trong việc sống theo từng nghĩa chữ của kinh sách, trong khi lại tha thứ cái phi lý của những người tuân phục kinh sách, ôn hòa tôn giáo đã phản bội cả đức tin lẫn lẽ phải. Trừ khi các giáo lý cốt tủy của đức tin được đem ra để xét hỏi – như, rằng chúng ta biết có một Thiên chúa, biết Người muốn gì nơi mình- còn thì ôn hòa tôn giáo sẽ chẳng làm gì để dẫn chúng ta ra khỏi chốn hoang dại.

 

Những việc làm tốt đẹp của hầu hết những người ôn hòa tôn giáo không hề  cho thấy đức tin tôn giáo là một điều gì tuyệt vời hơn cuộc hôn nhân tuyệt vọng giữa hy vọng và ngu dốt, cũng chẳng bảo đảm rằng sẽ không phải trả một giá đắt cho việc giới hạn phạm vi của lẽ phải trong cư xử với tha nhân của chúng ta. Ôn hòa tôn giáo, trong mức độ mà nó tiêu biểu cho một nỗ lực muốn bám chặt lấy cái vẫn có ích lợi trong tôn giáo chính thống, đóng lại cách cửa để các tiếp cận giả dối hơn đến tâm linh, luân lý và sự xây dựng những cộng đồng vững mạnh. Ôn hòa tôn giáo dường như tin rằng cái chúng ta cần không phải là sự thấu hiểu, cấp tiến và đổi mới trong những lãnh vực này mà chỉ là thuần một sự pha loãng của triết học thời đại đồ sắt. Thay vì mang lại tất cả năng lực sáng tạo và lý trí của chúng ta để chống đỡ giải quyết các vấn nạn của luân lý, liên kết xã hội và ngay cả các kinh nghiệm tâm linh, những người ôn hòa tôn giáo chỉ đơn thuần yêu cầu chúng ta nới lỏng các tiêu chuẩn liền lạc đối với các cấm kỵ và mê tín cổ đại, trong khi vẫn duy trì một hệ thống niềm tin vốn đã được truyền đến chúng ta từ những con người nam, nữ mà đời sống của họ đã chỉ đơn giản bị tàn phá bởi những ngu dốt căn bản của họ về thế giới. Những quỵ lụy với truyền thống như thế sẽ đuợc chấp thuận trong không gian nào của đời sống ? Trong Y học ?, Kỹ thuật ? Không chỉ riêng chính trị phải chịu đựng sự lỗi thời vốn đang thống trị suy nghĩ của chúng ta về giá trị luân lý và kinh nghiệm tâm linh.

 

Thử tưởng tượng nếu chúng ta có thể làm sống lại một người Kitô giáo học thức cao rộng của thế kỷ thứ mười bốn. Người ấy sẽ chứng tỏ cả một sự ngu dốt trên mọi lãnh vực, trừ lãnh vực của đức tin. Các niềm tin của kẻ ấy về địa lý, thiên văn và y học sẽ làm xấu hổ đến ngay cả đứa con nít, nhưng y sẽ hiểu biết không ít thì nhiều tất cả những điều gì cần biết về Thiên chúa. Dù y có thể bị coi như một kẻ khờ khạo vì tin rằng địa cầu là trung tâm của vũ trụ hay việc khoan sọ[1] là một sự can thiệp y học sáng suốt và các ý tưởng tôn giáo của y vẫn đứng ngoài mọi quở trách. Có hai cách giải thích cho sự việc này : hoặc là vào một ngàn năm trước – khi kiến thức chúng ta trên tất cả các mặt khác, vẫn còn phôi thai, chúng ta đã hoàn thiện được hiểu biết tôn giáo của mình về thế gian; hoặc tôn giáo vốn chỉ thuần tuý là sự cưu mang, duy trì một tín điều, là một lãnh vực bàn luận không cho phép đến sự tiến bộ. Chúng ta sẽ thấy có rất nhiều điều để nói đến về quan niệm sau.

Mỗi năm trôi qua, các niềm tin tôn giáo của chúng ta có duy trì bảo quản được nhiều hơn dữ liệu về kinh nghiệm của con người không ? Nếu tôn giáo nhắm đến một khu vực chân thực của hiểu biết và nhu cầu con người, thì tôn giáo có thể kham được sự tiến bộ, học thuyết của tôn giáo nên trở thành hữu ích hơn thay vì là kém đi. Tiến bộ trong tôn giáo, cũng như tiến bộ trong các lãnh vực khác, phải nên là một nội dung của sự tra vấn hiện tại, chứ không phải chỉ là sự lập lại của một học thuyết lỗi thời. Bất cứ cái gì đúng với hiện tại phải nên khám phá được trong hiện tại và diễn tả được trong các phạm trù không phải là sự sỉ nhục trực tiếp đến những gì chúng ta đang biết được về thế gian. Với tiêu chuẩn này, toàn bộ công trình tôn giáo tựa như thật sự thoái bộ. Tôn giáo không tồn tại được dưới những đổi thay đã đến với chúng ta - về văn hóa, khoa học kỹ thuật – và ngay cả về luân lý học. Nói cách khác, có ít lý do để tin rằng chúng ta có thể cứu sống được tôn giáo.

 

Những người ôn hòa không hề muốn giết hại ai nhân danh Thượng Đế, nhưng họ muốn chúng ta tiếp tục dùng từ “Thượng Đế” như thể chúng ta phải biết mình đang nói về ai. Và họ không muốn bất cứ những lời phê phán thái quá về những người thực sự tin vào Thiên chúa của tiền nhân mình, bởi vì có lẽ, lòng khoan dung, trên tất cả mọi điều khác,  là thiêng liêng bất khả xâm phạm. Để nói thẳng thắn và công khai về tình trạng của thế giới chúng ta – thí dụ như để nói rằng Kinh thánh và kinh Koran chứa đựng một núi những điều lắp bắp, vô nghĩa và hủy diệt đời sống – là một phản đề với lòng khoan dung như những người ôn hòa đang tưởng tượng. Nhưng chúng ta không thể kham nổi cái xa xỉ của sự phải đạo chính trị đó nữa. Chúng ta phải ý thức được cái giá cuối cùng phải trả để duy trì cái ảnh tượng ngu xuẩn của mình.

 

 

Bóng che của Quá khứ.

 

 

Tìm thấy mình trong một vũ trụ như đang cúi xuống để hủy diệt mình, chúng ta nhanh chóng nhận ra rằng, cả trong vị trí của cá nhân lẫn xã hội, thật là hữu ích để hiểu được những thế lực đang dàn trận ra trước chúng ta. Và vì như vậy mà mỗi con người chúng ta trở nên khao khát đến những kiến thức xác thực về thế gian. Ðiều này luôn luôn đặt ra các vấn nạn đặc biệt cho tôn giáo, bởi vì mọi tôn giáo đều rao giảng những sự thật của các xác nhận không có chứng cớ. Thực tế, mọi tôn giáo đang rao giảng những sự thực của các xác nhận mà ngay cả không một chứng cứ nào có thể tưởng tượng ra được. Ðiều này đã đặt một “sự đột biến” trong “bước đột biến của Kierkegaard" về đức tin.

 

Nếu đột nhiên tất cả mọi hiểu biết của chúng ta về thế gian bỗng biến mất thì sẽ ra sao ? Thử tưởng tượng sáu tỉ con người sáng mai thức dậy trong một tình trạng cực kỳ dốt nát và hoang mang. Sách vở, máy điện toán vẫn còn đấy, nhưng chúng ta không thể nối đầu thêm đuôi vào cái gì nữa. Chúng ta quên luôn đến cả cách chải răng và lái xe. Thế thì cái hiểu biết nào là cái chúng ta cần nhất ? À, chính các công việc trồng lương thực và xây dựng một mái che trên đầu là những thứ chúng ta muốn tìm lại trước nhất. Chúng ta cũng muốn học lại cách xử dụng và sửa chữa các thứ máy móc của mình. Học nói, học viết cũng sẽ là một ưu tiên hàng đầu, vì kỹ năng này cần thiết cho các công việc khác. Ðến khi nào trong quá trình tìm lại nhân tính này sẽ cần phải biết đến việc chúa Jesus sinh ra đồng trinh hay không ? Hay là sự việc người có người đã sống lại hay chăng ? Và chúng ta có sẽ học lại những sự thật này, nếu như chúng thật sự là đúng ? Bằng cách đọc Kinh Thánh ư ? Ði qua các kệ sách cũng chỉ mang lại các viên ngọc quen thuộc của các di tích xưa- như “sự kiện” Isis, vị nữ thần của sinh sản, trưng diện bằng một đôi sừng bò thật đẹp. Ðọc thêm nữa, thấy thần Thor mang một cái búa và thấy các thú vật thiêng liêng là ngựa,chó và con rồng có cái lưỡi chia ba. Loài nào là loài ta nên lên danh sách ưu tiên trong thế giới tái tạo của mình. Yaweh hay Shiva ? Và khi nào thì chúng ta muốn học lại rằng tính dục trước hôn nhân là tội lỗi ? Hoặc tội ngoại tình đáng bị ném đá cho chết ? Hoặc là có phải linh hồn đi vào hợp tử con người ngay lúc thụ thai ? Và chúng ta sẽ nghĩ thế nào về những người kỳ khôi kia đang bắt đầu tuyên bố rằng một trong các cuốn kinh sách vốn được viết nên bởi chính đấng tạo hoá của chúng ta thì khác biệt với tất cả các cuốn kinh sách khác ?

 

Chắc chắn sẽ có rất nhiều sự thật tâm linh mà chúng ta muốn học lại -  một khi chúng ta đã yên ổn chuyện ăn, chuyện mặc – và đấy chính là những sự thật mà chúng ta đã từng hiểu không trọn vẹn trong tình trạng hiện tại của mình. Chẳng hạn như, làm thế nào để con người vượt qua được nỗi sợ hãi và nội tâm mình để đơn giản thương yêu một kẻ khác ? Giả như, ngay vào lúc ấy, một tiến trình chuyển hóa nhân tính đã hiện hữu, và có một điều gì đáng để hiểu biết về sự việc ấy; nói một cách khác, có những năng khiếu, hoặc trui rèn, hoặc sự am hiểu có tính khái niệm, hoặc những kiêng cử phụ trợ nào đã cho phép một sự chuyển hóa đáng tin cậy để một kẻ đáng sợ, đáng oán ghét, hay một kẻ bàng quang trở thành người thân yêu. Nếu có, chúng ta nhất định phải biết đến các phương thức ấy. Thực cũng có một số chương đoạn Kinh thánh hữu ích trong ý nghĩa này – nhưng cả khối lý thuyết không thể kiểm chứng rõ ràng đã không có được một căn bản hợp lý  nào để có thể xử dụng lại. Kinh Koran và Kinh thánh có lẽ sẽ tự tìm được vị trí xứng đáng của mình bên cạnh cuốn Sự biến dạng của Ovid và cuốn Tử thư của người Ai cập.

 

Vấn đề ở chỗ là hầu hết những thứ mà chúng ta cho là thiêng liêng thì không còn lý lẽ gì để mà linh thiêng nữa ngoài việc nó đã từng được tưởng là linh thiêng trong quá khứ. Chắc chắn rằng, nếu như chúng ta có thể tái tạo lại thế giới, thì việc thực hiện các tỗ chức cuộc sống của chúng ta chung quanh các tuyên bố không thể nghiệm chứng của thời cổ đại – không nói gì đến sự giết chóc và chết vì các tuyên bố ấy - có lẽ không thể nào minh định được. Cái gì hiện nay đã ngăn chúng ta không nhận ra sự bất khả ấy ?

 

Nhiều người nhận xét rằng tôn giáo, bằng cách cho nhân loại vay mượn một ý nghĩa, cho phép các cộng đồng (tối thiểu là những cộng đồng hợp nhất dưới một đức tin) được nối kết lại với nhau. Căn cứ vào lịch sử thì điều này quả là đúng, và từ thành tích này mà tôn giáo đã được hưởng nhiều lòng tin cho cả các cuộc chiến tranh xâm lăng như những ngày hội hè và tình yêu huynh đệ. Nhưng trong các ảnh hưởng của tôn giáo trên một thế giới tân tiến - một thế giới đã hợp nhất , tối thiểu là có khả năng hợp nhất từ các nhu cầu về kinh tế, môi trường, chính trị và khoa dịch tễ học – thì lý thuyết tôn giáo là một suy thoái nguy hiểm. Quá khứ của chúng ta không phải là thiêng liêng bất khả xâm phạm vì là những việc đã qua, và có nhiều điều ở đàng sau lưng mình mà chúng ta phải đấu tranh để giữ chúng ở đàng sau lưng để có thể hy vọng rằng, chúng ta sẽ chẳng bao giờ có thể quay lại với một lương tâm trong sạch: đặc quyền thần thánh của vua chúa, phong kiến, hệ thống đẳng cấp, nô lệ, hành quyết chính trị, cưỡng ép thiến hoạn, mổ xẻ sống, trò thả chó săn trêu gấu, đấu kiếm vì danh dự, đai trinh tiết, xủ tội bằng thử thách (trial by ordeal), lao động trẻ con, tế sống người và thú vật, ném đá kẻ ngoại đạo, ăn thịt người, luật thú dâm, các loại cấm kỵ về sự tránh thụ thai, các thí nghiệm về bức xạ của con người- một danh sách gần như bất tận, như thể đã được tăng trưởng đến vô tận, tỷ lệ của những lạm dụng quấy nhiễu mà tôn giáo trực tiếp có trách nhiệm dường như vẫn còn chưa thuyên giảm. Thực tế, hầu như mỗi sỉ nhục vừa nêu ra ở đây có thể góp thêm được hương vị chưa chín mùi của chứng tích, cho một đức tin không thể bình phẩm trong một giáo lý này hoặc giáo lý khác. Do đó, cái ý tưởng rằng đức tin tôn giáo, bằng cách này hoặc cách khác, là một quy ước thiêng liêng của con người – thật là xuất sắc, như chính bản thân nó, cả trong sự nghèo nàn về bằng chứng lẫn sự ngông cuồng của các yêu sách – thì thực sự là một sự quái dị quá vĩ đại để có thể đánh giá trong tất cả ánh hào quang chói lọi của chúng. Ðức tin tôn giáo tiêu biểu cho một sự lạm dụng hết sức không thỏa hiệp về quyền lực tinh thần của chúng ta đến nỗi nó đã tạo nên một thứ lập dị văn hoá ngoan cố - một quan điểm triệt tiêu vượt ra ngoài cái giới hạn mà những bàn luận lý trí có thể minh chứng được. Mỗi khi lén lút đưa vào các thế hệ, nó khiến chúng ta mất đi khả năng nhận thức được bao nhiều phần của thế gian vốn bị nhường lại một cách vô ích cho một quá khứ đen tối và tàn ác.

 

Gánh nặng của Thiên đàng

 

Thế giới chúng ta đang nhanh chóng đầu hàng các hoạt động của các quý ông, quý bà đang sẵn sàng đánh đổi cả tương lai của bao sinh vật như chúng ta cho những niềm tin lẽ ra đã không thể tồn tại được trong hệ thống giáo dục của bậc tiểu học. Quá nhiều chúng ta vẫn phải chết vì những bí ẩn cổ đại vừa hoang đường vừa kinh hoàng và sự liên hệ của chính chúng ta với những bí ẩn này, dù từ những người ôn hòa hay cực đoan, đã cầm giữ chúng ta câm lặng trước dung mạo của những phát triển cuối cùng có thể hủy diệt chính mình. Thật thế, ngày nay, tôn giáo là căn nguyên sinh động của bạo lực như nó đã từng như thế trong bất cứ thời điểm nào của quá khứ. Xung khắc đương thời ở Palestine ( Giữa Do Thái giáo với Hồi giáo), vùng Balkans ( Giữa Chính thống giáo Serbians với Công giáo Croatian; Chính thống giáo Serbians với Hồi giáo Bosnian và Hồi giáo Albanian), vùng bắc Ái nhĩ Lan ( Giữa Tin lành với Công giáo), vùng Kashmir ( giữa Hồi giáo với Ấn độ giáo), vùng Sudan ( giữa Hồi giáo với Kitô giáo và vật linh giáo), ở Nigeria ( giữa Hồi giáo với Kitô giáo), ở Ethiopia và Eritera ( giữa Hồi giáo với Kitô giáo), ở Sri Lanka ( giữa Phật giáo Sinhalese với Ấn giáo Tamil), ở Indonesia ( giữa Hồi giáo với người Kitô giáo Timorese), vùng Caucasus ( giữa Chính thống giáo Nga với Hồi giáo Chechen; giữa Hồi giáo người Azerbaijan với Công giáo và Chính thống giáo Armenian) chỉ là một số trường hợp trong quan điểm này. Ở các khu vực vừa kể, tôn giáo đã là nguyên nhân rõ ràng của hàng triệu cái chết trong mười năm qua. Những biến cố này tấn công chúng ta như thể những thử nghiệm tâm lý đang chạy cuồng loạn, bởi vì chính chúng vốn là như thế. Mang đến cho con người các quan niệm phân rẽ, không thể dung hợp và không thể thử nghiệm được về những gì xảy ra sau khi chết, để cưỡng bách con người phải sống chung với những phương sách hạn hẹp. Kết quả đúng như chúng ta nhìn thấy: một vòng lập lại bất tận của sát nhân và ngưng chiến. Nếu lịch sử từng hé lộ một sự thực tuyệt đối, thì đó chính là sự thiếu hụt chứng tích thường chỉ mang lại sự tàn tệ nhất trong chúng ta. Chỉ cần thêm vào cỗ máy đồng hồ hiểm độc này các vũ khí hủy diệt hàng loạt, ta sẽ có ngay tấm biên nhận cho sự xụp đổ của nền văn minh.

 

Ta có thể nói gì về hiểm họa chiến tranh hạt nhân sắp bùng nổ giữa Ấn độ và Pakistan nếu mối phân rẽ về niềm tin  tôn giáo của họ phải được “tôn trọng” ? Sẽ chẳng có gì cho các nhà giáo sĩ bình phẩm ngoài chính sách ngoại giao nghèo nàn của mỗi nước – Trong khi, sự thật là toàn bộ mối xung khắc đã sản sinh ra từ sự ôm lấy các hoang dường một cách phi lý. Hơn triệu người đã chết từ cuộc liên hoan của giết chóc vì đạo giáo dẫn đến sự phân chia ra Ấn độ và Pakistan. Hai quốc gia từ đó đã chiến đấu ba cuộc chiến tranh, đau khổ vì máu đổ liên tục ở các khu vực chung biên giới và hiện đang kẻ tám lạng người nửa cân trong ý muốn tiêu diệt lẫn nhau bằng vũ khí hạt nhân chỉ vì họ bất đồng với nhau về “các sự kiện ” mà mỗi chi tiết đều hoang đường như thể các cái tên những con tuần lộc của ông già Noel. Và cuộc đàm  luận của họ cứ như thể họ có khả năng tập hợp được các nhiệt tình ở mức độ chết người cho các chủ đề này mà không cần chứng tích gì cả. Mối xung khắc của họ chính thức là chỉ vì lãnh thổ, bởi vì các yêu sách không tương thích của họ về vùng lãnh thổ Kashmir là hậu quả trực tiếp từ các khác biệt tôn giáo của họ. Thật ra, lý do chính khiến Ấn độ và Pakistan trở thành hai quốc gia riêng biệt là vì các niềm tin của Hồi giáo không thể hòa giải với các niềm tin của Ấn độ giáo. Theo quan điểm của đạo Hồi, sẽ khó có thể tưởng tượng được một phương cách xúc phạm đến Allah nào mà không bị vi phạm mỗi sáng bởi một số phong tục Ấn độ giáo. “Lãnh thổ” mà những dân tộc này thực đang tranh giành nhau thì không thể tìm thấy trên thế gian này. Ðến khi nào chúng ta mới nhận ra rằng sự nhượng bộ chúng ta dành cho đức tintrong các bàn luận chính trị của chúng ta đã ngăn chúng ta khỏi việc tiêu trừ, hay ngay cả việc chỉ nói lên, cái cội nguồn phong phú của bạo lực trong lịch sử của chúng ta ?

 

Các bà mẹ bị xiên từ những lưỡi gươm trong khi lũ con họ đang nhìn theo. Các phụ nữ trẻ bị lột truồng, bị hãm hiếp giữa thanh thiên bạch nhật, rồi …bị hỏa thiêu. Bụng một ngưòi phụ nữ có mang bị rạch toang, bào nhi của bà bị dương lên trời băng mũi kiếm sau đó bị ném bỏ vào một trong những ngọn lửa đang bùng cháy trên khắp thành phố. [viii]

 

Ðấy không phải là một tường thuật của thời trung cổ cũng không phải chuyện bịa đặt từ vùng Trung địa (Middle Earth) . Ðấy là thế giới của chúng ta. Nguyên nhân của các hành vi này không phải là vì kinh tế, chủng tộc hay lịch sử. Ðoạn văn trên mô tả một cảnh bạo lực nổ ra giữa Ấn độ giáo và Hồi giáo ở Ấn độ vào mùa đông năm 2002. Cái khác biệt duy nhất giữa hai nhóm tôn giáo này chứa đựng trong những gì họ tin về Thượng Ðế. Hơn một ngàn người đã chết trong suốt một tháng nổi loạn - gần bằng một nửa nhân số đã chết trong cuộc xung đột giữa Do Thái và người Palestine trong hơn một thập niên. Và đây chỉ là những con số nhỏ, nếu như nhìn vào các khả năng của cuộc xung đột. Cuộc chiến tranh hạch nhân giữa Ấn độ và Pakistan là khó tránh khỏi nếu như căn cứ vào những gì mọi người Ấn và Pakistan tin về đời sống sau khi chết. Arundhati Roy đã từng nói rằng sự quan tâm của Phương Tây đến tình hình này cũng chỉ giống như việc những người da trắng theo chủ nghĩa đế quốc tin rằng “ Không thể tin người da đen với những trái bom”.[ix] Ðây là một sự kết án kỳ cục. Có người có thể cãi rằng không có tập thể con người nào có thể tin được với những quả bom, nhưng lờ đi vai trò gây mất ổn định mà tôn giáo đang có trách nhiệm trên vùng tiểu lục địa là một sự tắc trách và không trung thực. Chúng ta chỉ có thể hy vọng rằng các thế lực của thế tục và ý thức sẽ giữ được các tên lửa nằm yên trên bệ phóng cho đến chừng nào những nguyên nhân sâu xa của các xung khắc này cuối cùng được giải tỏa.

 

Trong khi tôi không có ý lựa riêng học thuyết của Hồi giáo ra để đặc biệt nói xấu, thực sự, không còn nghi ngờ gì rằng, trong giai đoạn này của lịch sử, Hồi giáo đang tiêu biểu cho một mối nguy hiểm kỳ lạ nhất cho tất cả chúng ta, dù là người Hồi giáo hay không Hồi giáo cũng thế. Không cần phải nói, nhiều người Hồi giáo có căn bản ý thức và khoan dung với tha nhân. Tuy nhiên, như chúng ta nhìn thấy, các đức tính tân tiến này gần như không phải là sản phẩm từ đức tin của họ. Trong chương 4, tôi sẽ tranh luận rằng chừng nào một người còn tuân thủ học thuyết của Hồi giáo – có nghĩa là chừng nào người ấy còn thực sự tin vào học thuyết ấy, y sẽ vẫn còn là một vấn nạn đối với chúng ta. Thật thế, ngày càng rõ ràng hơn là các trách nhiệm từ đức tin của Hồi giáo thì tuyệt nhiên không hạn chế vào các niềm tin của người Hồi giáo “cực đoan”. Phản ứng với biến cố ngày 11 tháng 9 năm 2001 của thế giới Hồi giáo cho thấy không còn nghi ngờ gì rằng có một số lượng đáng kể nhân loại của thế kỷ hai mươi mốt đã tin vào khả năng của một cái chết tử đạo. Ðáp trả với sự kiện không chắc có thực này, chúng ta đã tuyên một cuộc chiến tranh chống “ chủ nghĩa khủng bố”. Ðiều này cũng giống như tuyên chiến với sự “sát nhân”; và đó chính là một phạm trù sai lầm khiến che dấu đi nguyên nhân thực của các vấn nạn của chúng ta. Chủ nghĩa khủng bố không phải là nguồn gốc của bạo hành nhân loại, mà chỉ là một biến thái của nó. Nếu Osama bin Laden là nguyên thủ một quốc gia, và Trung Tâm Thương mại quốc tế đã bị dội xập bởi hỏa tiễn, thì thảm họa ngày 11 tháng Chín đúng là một hành động gây chiến. Rõ ràng là chúng ta đã chống lại sự cám dỗ của việc tuyên chiến với một cuộc “chiến tranh” trong hành động đáp trả với biến cố này.

 

Ðể nhìn thấy vấn đề của chúng ta với chính bản thân Hồi giáo, và không chỉ riêng với  “ chính sách khủng bố”, chúng ta cần tự hỏi chính mình tại sao khủng bố Hồi giáo lại hành động những việc như họ đã làm. Tại sao một kẻ bất mãn cá nhân, trống rỗng hoặc bất bình thường về tâm lý như Osama bin Laden - một kẻ không nghèo khổ, không thiếu học, không ảo tưởng, cũng không phải là một nạn nhân hàng đầu của mối gây hấn Tây phương – lại đi hiến mình cho các mưu đồ chui rúc trong hang hầm với ý định sát hại vô số đàn ông, đàn bà, trẻ con mà y chưa từng gặp mặt ? Câu trả lời cho câu hỏi này thật là rõ ràng- nếu như chỉ vì đã từng được lập đi lập lại đến phát ngán bởi chính Bin Laden. Câu trả lời là những người như bin Laden thực sự tin tưởng vào những gì họ nói rằng họ tin. Họ tin vào cái chân lý nghĩa đen của kinh Koran. Tại sao mười chín con người thuộc thành phần trung lưu, có ăn học tử tế lại dám đánh đổi mạng sống trên thế gian này của mình cho cái đặc ân được giết hàng nghìn người láng giềng của chúng ta ? Bởi vì họ tin rằng hành động như thế sẽ giúp họ đi thẳng được đến cõi thiên đàng. Rất hiếm khi có những hành vi của con người được giải thích một cách thỏa đáng và đầy đủ như vậy. Tại sao chúng ta quá do dự để chấp nhận lời giải thích này ?

 

Như chúng ta đã nhìn thấy, thực là có một điều gì đấy mà hầu hết người Mỹ cùng chia xẻ chung với Osama bin Laden, với mười chín kẻ không tặc và phần lớn thế giới Hồi giáo. Chúng ta cũng ấp ủ cái ý tưởng có thể tin vào một số khẳng định vĩ đại mà không hề cần đến chứng tín. Những hành động anh hùng vì cả tin ấy đã không những được xem như chấp nhận được mà còn là một sự cứu rỗi khỏi tội lỗi, thậm chí còn được xem là cần thiết. Ðấy chính là vấn nạn hết sức sâu sắc và nguy hại hơn cả vấn đề chất độc anthrax tẩm trong thư tín. Sự nhượng bộ mà chúng ta dành cho đức tin tôn giáo – cho cái ý tưởng rằng niềm tin có thể được thần thánh hoá bởi cái gì khác hơn là chứng cứ - đã khiến chúng ta không thể định rõ, không thể xướng danh, môt trong những nguyên nhân phổ biến nhất của sự xung khắc trên thế giới của chúng ta.

 

Chủ nghĩa cực đoan Hồi Giáo

 

Vạch ra các chiều kích cực đoan thực sự của “Chủ nghĩa Cực đoan Hồi giáo” là một việc quan trọng. Họ cực đoan trong đức tin của mình. Họ cực đoan trong các hiến dâng của họ cho từng ý từng chữ nguyên văn của kinh Koran và sử thánh (văn bản ghi chép lại các hành động và lời dạy của đấng tiên tri), và những thứ này đã dẫn đạo họ trở nên cực đoan đến mức độ tin rằng nền văn hoá tân tiến và thế tục không thể tương thích với sự lành mạnh của đạo đức và tâm linh. Chủ nghĩa cực đoan Hồi giáo khẳng định rằng các văn hóa tây phương xuất khẩu ra các nước khác đang lôi kéo vợ con họ khỏi Thượng đế. Họ cũng quan niệm sự không tin đạo của chúng ta là một thứ tội lỗi trầm trọng đến mức đáng phải chết ở bất cứ nơi nào sự bất tin đó cản ngăn đến sự truyền bá của Hồi giáo. Các mê say tạp nhạp này không thể giảm nhẹ thành “sự oán ghét” trong tất cả các ý nghĩa thông thường nhất. Hầu hết những người Hồi giáo cực đoan chưa từng đến nước Mỹ, hoăc ngay cả nhìn, gặp một người Mỹ. Và họ ít bất mãn với chủ nghĩa đế quốc Tây phương hơn là bất mãn các nơi khác trên toàn cầu. [x]Ðúng ra, họ khốn khổ vì nỗi sợ bị ô uế. Hơn thế nữa, họ cũng héo hon trong cảm giác bị “làm nhục”. Bị làm nhục từ cái thực tế phải chứng kiến, chấp nhận những con người không tin thần thánh, những con người tội lỗi, trở thành chủ nhân của mình khi nền văn minh của họ bị lụi tàn. Cảm giác này cũng là sản phẩm từ chính tôn giáo của họ mà ra.  Người Hồi Giáo không chỉ cảm thấy sự lăng nhục của những người nghèo đang bị cướp đoạt mất các cần yếu của sự sống. Họ còn cảm được nỗi nhục của một giống dân (được) chọn lọc bị chinh phục bở những kẻ man rợ. Osama bin Laden chẳng muốn gì cả. Thế thì, y thực muốn gì ? Y chẳng hề kêu gọi việc chia xẻ thịnh vượng đồng đều trên thế giới. Ngay cả việc đòi hỏi tư cách quốc gia cho người Palestine cũng chỉ là ý tưởng chỉ đến sau khi đã hành động, vốn phát nguồn phần lớn từ tư tưởng bài Do Thái cũng như từ bất kỳ tình cảm gắn bó nào y có được với người Palestine ( chẳng cần phải nói, loại tư tưởng bài Do Thái và tình cảm gắn bó với ngưòi Palestine đấy cũng là sản phẩm của đức tin của y). Dường như y đã hành động đa phần trên sự hiện hữu của những người không tin đạo ( Lính Mỹ và người Do Thái) trong thánh địa của Hồi giáo và trên sự tưởng tượng về một tham vọng đất đai của chủ nghĩa phục quốc Do Thái trong y. Ðây là những bất mãn hoàn toàn có tính lý thuyết. Nếu như mọi nguyên nhân chỉ vì y thù ghét chúng ta thì có lẽ đã dể hiểu hơn nhiều cho mọi đàng.

 

Thật ra mà nói, thù hận là một thứ tình cảm hết sức đặc biệt của nhân tính,và hiển nhiên là nhiều người Hồi giáo cực đoan cảm được lòng hận thù này. Nhưng ở đây, đức tin vẫn là mẹ đẻ ra thù hận, như nó vốn là như thế ở bất kỳ nơi đâu mà con người xác định cái đặc thù đạo đức trong phạm trù tôn giáo của mình. Cái khác biệt nổi bật duy nhất giữa người Hồi giáo và người không Hồi giáo là ở chỗ người không theo Hồi giáo không biểu lộ đức tin của mình vào đấng Allah, và Mohammed là tiên tri của Người. Ðạo Hồi là một tôn giáo có tính truyền giáo: không có vẻ gì là có một học thuyết cơ bản của sự kỳ thị chủng tộc, hoặc ngay cả một thứ chủ nghĩa dân tộc, cổ cũ cho thế giới của các chiến sĩ Hồi giáo. Dĩ nhiên những người Hồi giáo có thể vừa là kẻ kỳ thị chủng tộc vừa là kẻ theo chủ nghĩa dân tộc nhưng có thể là tất cả nhưng chắc chắn rằng nếu Tây phương tiến hành một cuộc cải đạo ồ ạt qua Hồi giáo- và, nếu cần thiết - chối bỏ luôn tất cả đặc quyền của người Do thái trong vùng thánh địa – thì căn bản của mối “thù hận” Hồi giáo chắc sẽ đơn giản biến mất.[xi]

 

Hầu hết những người Hồi Giáo phạm tội ác đều triệt để với ước vọng lên thiên đàng của mình. Một kẻ đánh bom tự sát người Palestine khi bị bắt đã diễn tả mình bị “thúc đẩy” tấn công ngưòi Do Thái từ “tình yêu cho việc tử đạo”. Y nói thêm rằng “ Tôi không muốn trả thù ai cả, tôi chỉ muốn được làm ngưòi tử vì đạo”. Ông Zaydan, người đáng lẽ tử vì đạo, thừa nhận những người Do Thái bắt giữ ông còn “tốt lành hơn rất nhiều người Ả Rập”. Khi nói đến những khổ đau mà sự tử đạo của ông có thể gây ra cho  gia đình mình, ông nhắc người phỏng vấn rằng một ngưòi tử vì đạo sẽ được chọn bảy mươi người theo mình lên thiên đàng. Chắc hẳn ông sẽ mời gia đình mình lên cùng.[xii]

 

NHƯ TÔI ÐÃ NÓI, con người của đức tin có khuynh hướng tranh cãi rằng không phải bản thân đức tin mà chính bản chất hèn hạ tự nhiên của con người đã xúi dục các bạo hành ấy. Nhưng tôi trả lời rõ ràng là một con người bình thường không thể bị kích thích để thiêu sống một lão học giả thiên tài vì tội phỉ báng kinh Koran, [xiii]hay ăn mừng những cái chết vì bạo hành của các con mình, trừ khi họ tin vào những điều không chắc có thực về bản chất của vũ trụ. Bởi lẽ hầu hết các tôn giáo đều không mang lại một cơ chế giá trị để qua đó các niềm tin cốt lõi của họ được thử thách và sửa chữa lại, mỗi thế hệ người mới tin theo bị cưỡng ép phải kế tục mối thù cũ có tính bộ tộc và mê tín từ các tiền nhân. Nếu chúng ta muốn đề cập đến tính thấp hèn của mình, sự sẵn lòng sống, giết người và chết vì các giá trị của những xác nhận mà chúng ta không hề có chứng cứ thì đấy chính là một trong những chủ đề đầu tiên để luận bàn.

 

Hầu hết những người ở vị trí lãnh đạo trên đất nước chúng ta sẽ tuyên bố rằng không hề có mối liên hệ trực tiếp nào giữa đức tin của Hồi giáo và “chủ nghĩa khủng bố”. Tuy vậy, rõ ràng là Hồi giáo thù ghét Tây phương từ ngay trong các phạm trù đức tin của họ và rõ ràng là kinh Koran đòi hỏi đến mối thù ghét ấy. Những người Hồi giáo “ôn hòa” đã tuyên bố ở mọi nơi là kinh Koran không hề yêu cầu đòi hỏi sự thù ghét như thế và đạo Hồi là một “tôn giáo của hòa bình”. Nhưng ta chỉ cần đọc chính từ kinh Koran để biết rằng những tuyên bố ấy thực là không đúng :

 

                  Hỡi Tiên tri, hãy khai chiến với bọn không tin đạo, bọn đạo đức giả,

                  và cư xử     khắc nghiệt với chúng nó. Ðịa ngục sẽ là nơi ở của chúng

                  : một nghiệp chướng xấu xa.

                  (Koran 9:73)

 

                  Hỡi những người tin đạo, hãy khai chiến với bọn chống đạo đang ở

                  chung quanh các ngươi. Hãy cứng rắn với chúng nó. Hãy hiểu rằng

                  Thượng đế ở về phía người thiện.

                  (Koran 9:123)

 

Những người Hồi giáo ngoan đạo không thể không khinh miệt văn hóa của chúng ta, ở tầm mức thế tục, là một thứ văn hoá phản đạo, ở tầm mức tôn giáo, là một loại khải huyền nửa vời (như kiểu Kitô giáo và Do thái giáo), thấp kém trong mọi khía cạnh so với sự khải huyền của Hồi giáo. Cái thực tế mà người Tây phương đang thụ hưởng được sự thịnh vượng vượt trội và một quyền lực thế tục hơn bất kỳ quốc gia Hồi giáo nào bị những người Hồi giáo sùng tín xem như là một sự éo le tai ác, và tình trạng này luôn có giá trị như một lời mời rộng mở cho các thánh chiến của người Hồi giáo. Tới mức độ hễ là một người Hồi giáo, nghĩa là tin rằng chỉ Hồi giáo mới hình thành được con đường duy nhất có thể đứng vững được để đến với Thượng đế, tin rằng kinh Koran là phương cách toàn hảo nhất để diễn đạt con đường đó - kẻ ấy sẽ cảm thấy xem khinh bất cứ người đàn ông đàn bà nào dám nghi ngờ đến lẽ phải cho niềm tin như thế của mình. Hơn cả thế, y còn cảm thấy rằng niềm hạnh phúc đời đời của con cái y đang ở trong gian nguy chỉ vì sự hiện hữu của những kẻ không tin đạo kia trên thế gian. Nếu những kẻ ấy chuẩn bị làm ra các chính sách luật lệ khiến y và con cái y phải tuân theo thì cái năng lực tiềm tàng của bạo hành tác động bởi niềm tin của y có lẽ không thể nguôi đi được. Ðây chính là nguyên nhân vì sao các lợi điểm kinh tế, giáo dục, tự bản thân, là các phương thuốc không đủ để chữa trị các bạo hành tôn giáo. Chả trách có nhiều người thuộc thành phần trung lưu, chính thống có ăn học cũng sẵn sàng giết người và xả thân vì Thượng đế. Như Samuel Huntington [xiv]và các học giả khác đã từng nhận xét, trào lưu bảo thủ tôn giáo trong các nước đang phát triển, trên nguyên tắc không phải là phong trào của người nghèo và thiếu học.

 

Ðể nhìn thấy vai trò của đức tin trong sự phát tán của bạo lực Hồi giáo, chúng ta chỉ cần hỏi tại sao có quá nhiều người Hồi giáo khao khát muốn biến mình thành bom nổ trong lúc này. Câu trả lời: bởi vì kinh Koran đã làm cho những hành vi này trở nên một thứ cơ hội của sự nghiệp. Không có nơi nào trong lịch sử chủ nghĩa thực dân Tây phương từng giải thích được hành vi này (dù chúng ta có thể thừa nhận chắc chắn rằng giai đoạn lịch sử này đã ban cho chúng ta đáng kể để chuộc lỗi cho hành vi ấy). Trừ đi niềm tin Hồi giáo trong các cuộc thánh chiến và tử đạo, trừ đi các hành động vốn trở thành không thể hiểu được của những kẻ đánh bom tự sát, cùng cảnh tượng vui mừng công khai luôn luôn theo sau những cái chết ấy, thêm vào đấy các niềm tin lạ thường, ngưòi ta sẽ chỉ không khỏi ngạc nhiên tại sao các vụ đánh bom tự sát lại không thể phát triển rộng rãi hơn. Bất cứ ai từng bảo rằng học thuyết của Hồi giáo“ không có gì liên quan đến chủ nghĩa khủng bố” – và các làn sóng phát thanh của chúng ta tràn ngập những kẻ biện hộ cho Hồi giáo để  khẳng định thêm về điều ấy – thì đúng chỉ là một trò chơi chữ.

 

                  Những người tin đạo ở trong nhà, cách biệt hẳn với những người

                  phải chịu     những ngăn trở nghiêm trọng – thì không được ngang

                  hàng với những kẻ dám chiến đấu vì lý tưởng của Thượng đế bằng

                  chính của cải và nhân lực của mình. Thượng đế đã ban cho những

                  ai dám chiến đấu bằng tài sản, nhân mạng mình một vị trí cao hơn

                  những kẻ chỉ ngồi ở nhà. Thượng đế đã hứa tưởng tưởng hậu hĩ ;

                  nhưng thật hậu hĩ hơn nhiều là sự biết ơn đến những ai đã dám

                  chiến đấu cho Người… Kẻ dám rời bỏ nơi ăn chốn ở của mình để

                  chiến đấu vì Thượng đế và các tùy tòng của Người và bị lấy đi

                  bởi cái chết sẽ được tưởng thưởng bởi Thượng đế… Bọn không tin   đạo chính là kẻ thù lâu đời của các ngươi.

                 

                  (Koran 4:95-101)

 

Trò tung hứng công khai với những bài báo về đức tin thường sản xuất ra các phát biểu đại loại như : “ Hồi giáo là một tôn giáo của hòa bình. Ngay chính từ ngữ Islam vốn đã có nghĩa là hòa bình. Tự sát là việc bị nghiêm cấm trong kinh Koran. Do đó, không hề có một căn cứ nào từ kinh sách cho các hành động của những kẻ khủng bố”. Ðối với lời ba hoa xảo thuật ấy, chúng ta chắc phải thêm rằng cụm từ “bom bẩn” cũng không hề xuất hiện bất cứ đâu trong kinh Koran. Vâng, kinh Koran dường như có công bố điều gì khiến có thể phân giải trở thành một điều cấm cho sự tự sát – “Ðừng tự tiêu hủy chính mình” (4:29)- nhưng chính kinh Koran đã để lại quá nhiều kẽ hở rộng đủ cho một chiếc Boeing 767 bay lọt qua :

 

                  Hãy để những kẻ đánh đổi mạng sống của thế gian này cho đời

                  sau, chiến đấu cho chính nghĩa của thượng đế; Chúng ta sẽ tưởng

                  thưởng cho bất cứ ai dám chiến đấu vì chính nghĩa của Thượng đế

                  dù thắng lợi hay phải chết đi…Chỉ ngưòi thực tin vào đạo chiến đấu

                  vì chính nghĩa của Thượng đế, còn bọn chống đạo chỉ chiến đấu cho

                  quỷ dữ. Chiến đấu như thế nghĩa là chiến đấu chống lại bọn bạn bè

                  của quỷ Satan…Hãy xướng rằng “ Vui thú trần gian chỉ là chuyện

                  tầm thường. Ðời sống sau này mới thực tốt đẹp hơn cho những ai

                  muốn tránh xa quỷ dữ…”

                 

                  (Koran 4:74-78)

 

Khi những lời mời gọi cho tử đạo trên được soi nhìn dưới ánh sáng của thực tại là đạo Islam không hề phân biệt giữa thẩm quyền dân sự và tôn giáo,[xv] những khiếp đảm song sinh của lối giải thích Koran sát nghĩa nhảy ra ngay trước mắt : Trong tầm mức nhà nước, khát vọng muốn Hồi giáo trở thành thống trị trên thế giới dứt khoát có được Thượng đế tham dự ; trong mức độ cá nhân, cái ảo tưởng tử đạo mang lại căn bản hợp lý cho sự quên mình đến tận cùng. Như Bernard Lewis nhận xét, kể từ thời đại của nhà Tiên tri, đạo Hồi đã “liên kết với sự xử dụng đến quyền lực quân sự và chính trị trong tâm tư và ký ức của những người Hồi giáo ” [xvi]Ảo tưởng của Hồi giáo đặc biệt đã chỉ đặc biệt không may ở những nơi nào mà sự khoan dung và chia rẽ tôn giáo được quan tâm đến, bởi vì tử đạo là phương cách duy nhất mà người Hồi giáo có thể đánh vòng qua khỏi các kiện cáo đau đớn của Ngày Phán xét cuối cùng đang chờ tất cả chúng ta để đi thẳng vào cõi thiên đàng. Thay vì phải chờ cả hàng trăm năm khiến mục nát trong cát bụi rồi lại phải chờ đợi được sống lại để các thánh thần dữ tợn tra khảo, kẻ tử đạo được thăng chuyển một cách trực tiếp đến Vườn cảnh của đấng Allah nơi có một bầy trinh nữ mắt nâu đang chờ sẵn.

 

Bởi vì họ tin tuyệt đối vào vào từng lời từng chữ theo nghĩa đen bản chép các phát biểu nguyên văn từ Thượng đế, các kinh bản như Koran và Kinh thánh phải được đánh giá, và phê phán, cho bất cứ giải thích khả thi nào đến những điều mà sự phiên giải này có thể chịu được - và đến những điều mà sự phiên giải này sẽ bị khuất phục, với những các biến đổi nhấn mạnh và đọc thoáng khác nhau, trên khắp thế giới của đạo giáo. Vấn đề không phải ở chỗ một số người Hồi giáo bất cẩn không lưu ý đến một số hướng dẫn về tính không gây hấn có thể tìm thấy trong kinh Koran, và từ đó dẫn họ đến những hành động kinh hoàng lên những người không theo đạo, vấn đề chính ở chỗ là hầu hết người Hồi giáo tin kinh Koran là lời thật nguyên văn của Thượng đế. Việc điều chỉnh cho phù hợp với thế giới quan của Osama bin Laden là không vạch ra một dòng nào trong kinh Koran chỉ trích việc tự sát, bởi vì lời khẳng định mơ hồ này được sắp đặt trong một bụi cây của những chương đoạn khác vốn chỉ có thể đọc ra như một lời kêu gọi trực tiếp đến cuộc chiến chống lại “bè lũ đồng đảng của Satan”. Câu đáp trả chính đáng cho các bin Laden của thế gian là trừng phạt việc đọc những kinh bản này của mọi người bằng cách tạo ra những yêu sách có chứng cớ tương tự về các vấn đề tôn giáo mà chúng ta đã yêu sách với tất cả các tôn giáo khác. Nếu chúng ta không tìm được phương cách của mình cho đến lúc tất cả chúng ta đều phải sẵn lòng thừa nhận điều ấy, thì tối thiểu, chúng ta không biết chắc có phải Thượng đế đã từng soạn ra một số kinh sách của chúng ta hay không, rồi chúng ta chỉ cần đếm ngày dẫn chúng ta đến Trận chiến cuối cùng - bởi vì Thượng đế đã ban cho chúng ta quá nhiều lý lẽ để giết hết người này đến kẻ khác hơn là chìa má bên kia ra cho tha nhân.

 

Chúng ta sống trong một thời đại mà hầu như mọi người tin rằng chỉ những từ - “Jesus”, “Allah”, “Ram” đã đủ nói đến sự khác biệt giữa thống khổ đời đời và niềm hạnh phúc bất tận. Hãy suy nghĩ đến sự nguy hiểm ở đây,quả là không ngạc nhiên khi nhiều người trong chúng ta đôi lúc thấy cần phải giết một kẻ khác bởi họ đã dùng sai các từ ma lực, hoặc dùng đúng từ nhưng sai chỗ. Làm sao mà một người nào có thể cả gan nghĩ mình biết rằng đấy chính là cách thức mà thế gian này vận hành ? Bởi vì đã được bảo như thế trong các sách thánh của chúng ta. Làm sao chúng ta biết được rằng các sách thánh không bị sai ? Bởi vì các chính bản thân sách thách đã dạy như thế. Những lỗ đen ngòm của nhận thức luận về các thứ này đang vắt kiệt ánh sáng từ thế gian của chúng ta.

 

Dĩ nhiên, có nhiều phần trong các sách thánh ấy thông thái, đẹp đẽ và an ủi. Nhưng các từ chữ về sự thông thái và giải khuây cũng nhan nhản trong các trang sách của Shakespear, Virgil và Hormer nữa, và chưa có ai từng giết hại hàng ngàn người không quen biết vì những gợi ý mà họ có thể tìm được trong những sách thánh này. Niềm tin rằng một số kinh sách đã thực sự được viết bởi chính Thượng đế (kẻ mà, vì những nguyên nhân khó có thể tìm hiểu được, đã trước tác dở hơn Shakespear rất xa) đã khiến chúng ta bất lực trong việc chú tâm đến các cội nguồn mạnh nhất của các xung khắc nhân loại, trong quá khứ cũng như hiện tại. [xvii]Làm sao mà sự ngu xuẩn của ý niệm này không từng giờ từng phút bắt chúng ta phải quỳ gối xuống đầu hàng ? Có thể nói một cách chắc chắn ít người trong chúng ta từng nghĩ rằng quá nhiều người đã có thể tin vào những sự việc nếu như họ không thực sự tin vào những điều ấy ? Hãy thử tưởng tượng trong một thế giới mà nhiều thế hệ nhân loại đã đi đến chỗ tin rằng có một số phim nhựa được Thượng đế tạo ra hoặc tin rằng một phần mềm đặc biệt nào đó đã được giải mã từ chính Người. Hãy thử tưởng tượng đến một tương lai mà hàng triệu con cháu hậu duệ của chúng ta giết nhau vì những lời giải thích cạnh tranh lẫn nhau của Windows 98 hay Star Wars ? Có thế có điều gì - bất kỳ điều gì - kỳ quặc hơn thế được không ? Thế mà, những điều này đã không hề kỳ khôi hơn chính cái thế gian chúng ta đang hằng sống.

 

Sự chết : Nguồn sống của các Ảo tưởng

 

Chúng ta sống trong một thế gian mà tất cả mọi điều tốt cũng như xấu cuối cùng cũng bị triệt tiêu bởi sự đổi thay. Trông như thể thế gian này tồn tại chúng ta, như chỉ để hủy diệt chúng ta cho vui. Các cha mẹ mất con cái và con cái mất cha mẹ mình. Những vợ chồng chia lìa nhau không bao giờ gặp lại nữa trong khoảnh khắc. Những người bạn vội vã rời sở làm, không hề biết đấy là lần cuối. Ðời sống này, khi quan sát bằng một cái nhìn thoáng quát, biểu hiện chẳng kém gì hơn là một quang cảnh bạt ngàn của sự mất mát.

 

Nhưng dường như có thuốc chữa trị cho tất cả những điều này. Nếu như chúng ta sống một cách đúng đắn – không cần thiết phải hợp đạo lý, nhưng chỉ cần ở trong khuôn khổ của một số niềm tin cổ đại và các thứ hạnh kiểm rập khuôn – thì chúng ta sẽ đạt được mọi điều mong muốn sau khi chết đi. Khi thể xác cuối cùng bỏ đi, ta chỉ cần rũ bỏ lớp bao bì hữu hình của mình và du hành đến một miền đất có thể đoàn tụ với tất cả những người ta từng yêu thương khi còn sống. Dĩ nhiên, những người hay lý sự thái quá và những tiện dân hèn mọn sẽ phải bị ở ngoài chốn hạnh phúc này, và những kẻ ngay lúc sống đã dám buông bỏ sự không tin đạo của mình sẽ tha hồ được tận hưởng mọi đời sau.

 

Chúng ta đang sống trong một thế giới của những điều ngạc nhiên không thể tưởng tượng nổi - từ những năng lượng nóng chảy có thể thắp sáng mặt trời đến ngành di truyền học và các hệ quả tiến hóa của các điệu khiêu vũ từ ánh sáng hàng nhiều thiên kỷ trên địa cầu – còn cả cõi thiên đàng được làm cho phù hợp với các quan tâm mê tín nhất của chúng ta bằng tất cả sự trung thực của một chuyến hải du vùng Caribbean. Ðây là sự khác thường diệu kỳ. Nếu ai không biết rõ hơn, kẻ ấy có thể nghĩ rằng người nào đó, trong nỗi sợ hãi bị mất đi tất cả những gì y thương yêu, đã sáng tạo nên thiên đàng, cùng Thượng đế giữ cổng, bằng chính hình ảnh của y.

 

 

Hãy tưởng tượng bạn đi bác sĩ để khám định kỳ, và vị bác sĩ báo cho bạn một tin kinh hoàng : bạn đã bị lây một loại vi khuẩn có thể giết chết 100 phần trăm những ai nhiễm phải. Giống vi khuẩn này biến hóa quá nhanh đến độ không ai có thể tiên liệu được quy trình của chúng. Chúng có thể ngủ yên nhiều năm, ngay cả đến hàng chục năm nhưng chúng cũng có thể giết bạn chết tức thì chỉ trong một giờ đồng hồ. Chúng có thể dẫn đến các chứng suy tim, đột trụy, vô số loại ung thư khác nhau, chứng lãng trí và ngay cả sự tự sát; tóm lại, có lẽ không có một chế ngự nào cho giai đoạn phát triển cuối cùng của loại vi khuẩn này. Không có gì trong tầm tay cho các biện pháp tránh bệnh, từ các chế độ ăn uống kiêng khem hoặc cách ly trên giường bệnh. Bạn sẻ cầm chắc rằng ngay cả bạn phải sống trong hoàn cảnh không còn mục đích sống nào ngoài việc luôn kiểm tra tiến độ hủy hoại của loài vi khuẩn này, bạn sẽ chết, bởi vì không có phương cách chữa trị nào, và sự sụp đổ của cơ thể bạn đã thực sự bắt đầu.

 

Chắc chắn rằng mọi người đều xem đây thực sự là một tin kinh hoàng – nhưng thực ra có mới lạ không ? Chẳng phải cái chết không thể tránh khỏi chỉ là một dự đoán thôi sao ? Chẳng phải tự bản thân sự sống đã sẵn có tất cả các tính chất của vi khuẩn giả định của chúng ta hay sao ?

 

Bạn có thể chết bất cứ lúc nào. Bạn có thể chết không đọc kịp hết dòng chữ này. Không chỉ thế, bạn chắc chắn sẽ phải chết vào khoảnh khắc nào đó trong tương lai. Nếu sự chuẩn bị cái chết là bao gồm việc hiểu trước được khi nào vào nơi nào cái chết sẽ đến, cái may mắn là bạn không hề được phép chuẩn bị ; bạn phải rời khỏi cõi đời này trong một cách hấp tấp đến nỗi hiện tại không hề báo trước được một dấu hiệu gì - các mối liên hệ của bạn, các dự tính tương lai, các thú vui, của cải - sẽ trở nên hoàn toàn là hư ảo. Trong khi tất cả những điều đó, khi được đối chiếu qua một tương lai vô định, trông có vẻ như những cái được của mình, thì sự chết lại chứng tỏ rằng tất cả vốn thực chẳng phải là những thứ ấy. Vào điểm cuối cùng của sự sống, khi cái nút ngừng đã được nhấn bởi một bàn tay vô hình, sẽ thực chẳng còn cái được gì cả.

 

Và nếu như điều này chưa đủ tổn thương, thì hầu hết chúng ta, ngay lúc này, đều chịu khổ đau, nếu không phải vì một nỗi bất hạnh cụ thể thì cũng vì một sự mất bình tĩnh lặng lẽ. Chúng ta yêu thương gia đình, bạn bè và khiếp sợ khi phải mất họ, nhưng lại không có được cái tự do tối thiểu chỉ đơn thuần thương yêu họ trong lúc đời sống ngắn ngủi của mình xảy ra. Cuối cùng, chúng ta còn có chính bản thân mình để mà âu lo. Như Freud và những con cháu ông đã không ngừng mệt mỏi để chỉ ra, mỗi một chúng ta luôn bị kéo vào và đẩy ra bởi những thôi thúc cực kỳ đối nghịch: hòa nhập vào thế gian và tan biến đi, hay co rút trong thành lũy riêng biệt hiển nhiên của mình. Cả hai thúc đẩy đó, đến cực điểm của chúng, đều có vẻ trừng phạt chúng ta vào nỗi bất hạnh. Chúng ta kinh hoàng với sự vô nghĩa của mình, và hầu hết những gì ta đã làm trong cuộc đời mình chỉ đúng là một nỗ lực rõ ràng hầu giữ cho nỗi sợ ở một khoảng cách an toàn đối với mình. Trong khi chúng ta cố không nghĩ đến, hầu như chỉ một điều duy nhất chúng ta biết chắc trong đời này đó là có một ngày chúng ta phải bỏ lại sau lưng mọi điều, và rồi, một cách đầy nghịch lý, là hầu như chúng ta không thể tin được rằng mọi chuyện phải là như thế. Cái ý thức đúc kết lại của mình về những gì có thực dường như không hề chứa đựng sự chết của chính mình. Chúng ta nghi hoặc chính cái điều vốn không mở ra bất cứ sự nghi hoặc nào nữa.

 

Điều gì người ta tin sẽ xảy ra sau khi chết chỉ đạo tất cả những gì kẻ ấy tin về cuộc sống, và đây chính là lý do vì sao mà tôn-giáo-căn cứ-vào-đức tin, trong kiêu hãnh muốn lấp đầy các khoảng trống trong kiến thức của chúng ta về thế giới bên kia, đã mạnh mẽ nâng dậy những kẻ ngã vào quyền lực của mình. Chỉ một công bố - Ngươi sẽ không chết - một khi đã tin, sẽ định đoạt câu trả lời đến đời sống khiến không thể nghĩ bàn được một cách nào khác nữa.

 

Hãy thử tưởng tượng bạn sẽ cảm giác ra sao khi đứa con duy nhất của mình phải chết vì chứng viêm phổi. Phản ứng của bạn đối với thảm kịch này sẽ bi chi phối phần lớn bởi những gì bạn tin vào những gì sẽ xảy ra cho con người sau khi chết đi. Chắc chắn mình sẽ được an ủi để tin mhững điều đại loại như, “ Cháu là một thiên thần nhỏ bé của Thượng đế, Người đã mang cháu về bên Người sớm bởi vì Người muốn cháu được gần bên chúa Jesus. Cháu sẽ chờ chúng ta khi chúng ta đến được nước thiên đường”. Nếu  niềm tin của bạn là những niềm tin của một khoa học gia Kitô giáo, bắt buộc bạn phải từ bỏ mọi can thiệp của y học, bạn có thể ngay cả hợp tác với Chúa bằng cách từ chối không cho con mình dùng thuốc trụ sinh.

 

Hoặc là thử tưởng tượng xem bạn sẽ cảm thấy thế nào khi biết được cuộc chiến tranh hạch nhân vừa nổ ra giữa Do Thái và nước láng giềng vì tranh nhau chủ quyền của Ðền thờ trên núi. Nếu là một người Kitô giáo có tinh thần của thiên niên kỷ, chắc bạn sẽ không mảy may nghi ngờ gì đây chính là dấu hiệu sắp trở lại trần gian của Thiên chúa. Dù có phải chết chóc sinh mạng đến bao nhiêu, cũng là điềm tốt lành chứ không là điều gì khác. Do đó, không thể chối bỏ một điều là ý niệm của một con người về đời sống bên kia thế giới đã có hậu quả trực tiếp đến cái nhìn của y về chính thế gian này.

 

Dĩ nhiên, ôn hòa tôn giáo bao gồm việc không chắc chắn về những gì xảy ra sau cái chết. Ðây là một thái độ biết điều, khi tính đến những bằng chứng quá ít cho chủ đề này. Nhưng ôn hoà tôn giáo vẫn đại biểu cho một thất bại trong việc phê bình những khẳng định vô lý và nguy hiểm khác. Sự im lặng của chúng ta trong sự việc này đưa đến hậu quả là, chúng ta đang sống trong một đất nước mà một người không thể được bầu làm tổng thống nếu y công khai nghi hoặc sự hiện hữu của thiên đàng hay địa ngục. Ðây là một điều thực lạ thường, khi không có một bộ phận nào khác của “kiến thức” mà chúng ta yêu cầu các lãnh tụ chính trị của chúng ta phải thông thạo. Ở Mỹ, ngay người làm tóc cũng phải đậu kỳ thi sát hạch để hành nghề, nhưng những kẻ được ban cho quyền lực, để tuyên chiến hay làm nên các chính sách quốc gia - những kẻ mà quyết định của họ sẽ không khỏi ảnh hưởng đến đời sống của nhiều thế hệ - thì không cần thiết phải hiểu biết một điều gì cụ thể trước khi bắt tay vào việc. Họ không cần phải là những khoa học gia về chính trị, là kinh tế gia, ngay cả không cần phải là các luật sư; họ không cần phải từng nghiên cứu về quan hệ quốc tế, lịch sử quân sự, quản lý nhân lực, kỹ thuật dân sự hay bất kỳ lãnh vực kiến thức nào có thể phải xử dụng đến trong việc cai quản một siêu quyền lực hiện đại; họ chỉ cần là những nhà vận động ngân quỹ giỏi, chững chạc trên màn ảnh truyền hình, và biết nuông chiều về một số điều thần bí. Trong cuộc bầu cử tổng thống sắp tới của chúng ta, một diễn viên từng đọc Thánh kinh chắc chắn sẽ đánh bại một nhà khoa học về hỏa tiễn chưa từng đọc Thánh kinh. Liệu có thể có một chỉ dấu nào rõ ràng hơn về việc chúng ta đang cho phép những phi lý và những tính thời thượng khác lên chi phối đến đời sống của chính chúng ta không ?

 

Không có cái chết, sự ảnh hưởng của các tôn giáo có căn bản trên đức tin có lẽ không thể có được. Rõ ràng, thực tế của cái chết quá sức chịu đựng đối với chúng ta, và đức tin thực không khác gì hơn cái bóng mát dựng lên bởi hy vọng của chúng ta cho một tương lai tốt đẹp hơn ở một nơi cao khỏi huyệt mộ mình.

 

Một thế giới không còn lẽ phải

 

Như chúng ta sẽ thấy trong phần cuối của cuốn sách này, có một chút hoài nghi rằng một số phạm vi của kinh nghiệm nhân loại có thể diễn tả một cách thích hợp là “ tâm linh” hay “ huyền bí” - những kinh nghiệm về sự hợp lý, tính vị tha, và các xúc cảm nâng cao khiến vượt lên khỏi những cái riêng của chúng ta như “những cái tôi” và thoát khỏi được tầm hiểu biết của tâm trí và não bộ hiện thời của chúng ta. Nhưng không có gì về những kinh nghiệm này minh giải được các khẳng định độc quyền và ngang ngạnh về sự thiêng liêng bất khả xâm phạm lạ thường của bất kỳ kinh bản nào. Không có lý do gì mà năng lực tự chế mình một cách tình cảm và tâm linh của chúng ta không thể tiến triển cùng kỹ thuật, chính trị và các phần còn lại của văn hóa. Thực ra, nó phải tiến triển, nếu không chúng ta chẳng còn tương lai gì nữa.

 

Nền tảng tâm linh của chúng ta chắc chắn chứa đựng trong nội dung này: phạm vi của kinh nghiệm có thể xảy ra được của con người vượt quá xa khỏi những giới hạn chủ quan thông thường. Rõ ràng, một số kinh nghiệm có thể hoàn toàn chuyển hóa được quan điểm một con người về thế giới chung quanh mình. Các truyền thống tâm linh đều dựa vào các thấu hiểu về việc chúng ta xử dụng các quan tâm của mình như thế nào, từ khoảnh khắc này đến khoảnh khắc khác vốn phần lớn định đoạt đến đời sống của chúng ta. Rất nhiều những kết quả của tu tập tâm linh đáng khao khát một cách chân thật, và chúng ta có trách nhiệm phải tìm ra các kết quả đó. Thật quan trọng để lưu ý rằng những thay đổi này không chỉ thuần là cảm tính mà còn có tính kinh nghiệm thuộc về nhận thức nữa. Đúng hệt như chúng ta có năng lực có được những thấu hiểu trong các lãnh vực toán học hay sinh học, chúng ta cũng có được năng lực có được các thấu hiểu về chính bản chất tính chủ quan của chúng ta. Hàng loạt những kỹ năng, từ việc hành thiền đến sự xử dụng ma tuý, đã làm chứng cho giới hạn và sự mềm dẻo của kinh nghiệm con người. Trong cả nghìn năm, các bậc tu hành đã hiểu được rằng những con người bình thường có thể gạt bỏ chính mình ra khỏi cái cảm giác khi họ nói “tôi” để từ đó buông bỏ được cái ý thức rằng họ đang cách biệt mình khỏi phần còn lại của vũ trụ. Hiện tượng này, đã từng được thuật lại bởi nhiều bậc tu hành trong các truyền thống tâm linh, đã được hỗ trợ bởi rất nhiều bằng chứng - về nội tâm, thần kinh học và triết học. Những kinh nghiệm ấy là kinh nghiệm “tâm linh” hay kinh nghiệm“huyền bí ”, vì muốn xử dụng các từ tốt hơn, mà từ đó chúng tương đối hiếm (thực không cần thiết phải như thế), đáng chú ý ( trong ý nghĩa mà họ khám phá ra các thực tại chân thực của thế gian) và có tính chuyển hóa cá nhân. Chúng cũng hé lộ được mối liên hệ sâu xa hơn giữa chúng ta và phần thế giới còn lại hơn là những gì đã có từ giới hạn bình thường của chủ quan của chúng ta. Không nghi ngờ gì rằng những kinh nghiệm như thế này rất đáng để tìm kiếm và cũng như không nghi ngờ gì rằng các tư tưởng tôn giáo phổ biến đã phát triển quanh đấy, đặc biệt là ở phương Tây, đều nguy hiểm vì chúng không thể tin được. Một lối tiếp cận hữu lý đến các chiều kích này của đời sống sẽ cho phép chúng ta thám hiểm được các chiều cao sự chủ quan của chúng ta bằng một tâm thức cởi mở, trong khi từ bỏ tính địa phương, giáo điều của truyền thống tôn giáo chúng ta để nhường ưu tiên cho một sự truy tìm tự do và nghiêm túc.

 

Ðồng thời dường như cũng có một cơ phận của các dữ liệu chứng thực cho thực tại của hiện tượng đồng bóng, mà phần lớn hiện tượng này đã không đến xỉa gì đến xu thế của khoa học. [xviii] Châm ngôn “những khẳng định khác thường cần đến những chứng cứ khác thường” vẫn còn là một hướng đạo hợp lý trong các lãnh vực này, nhưng điều này không có nghĩa là vũ trụ không hề quá lạ thường hơn là chúng ta tưởng. Thật quan trọng để ý thực được rằng một chủ nghĩa hoài nghi khoa học đúng đắn tương thích được với một tâm thức có căn bản cởi mở.

 

Các khẳng định của thần bí khá láu lỉnh một cách tâm lý. Không một con người nào có thể kinh nghiệm một thế giới khách quan, ngay cả đến chỉ một thế giới thôi. Ngay thời điểm này, quý vị đang có một chứng nghiệm thị giác. Thế giới mà quý vị đang nhìn thấy, nghe được không là gì hơn sự biến thể của ý thức mình, mà thể trạng vật chất của thế giới vẫn còn là một bí ẩn. Hệ thống thần kinh của quý vị phân loại các tiếng âm u vô định của vũ trụ ra thành từng làn sóng riêng biệt của thị giác, âm thanh, mùi, vị và cảm xúc cũng như các giác quan khác ít được biết đến - nhận cảm cơ thể, hoặc ngay cả sự định vị bằng tiếng vang [xix]– các thị giác, âm thanh và xung động mình chứng nghiệm vào khoảnh khắc này tựa như các quang phổ tung tóe ra từ lăng kính của não bộ. Chúng ta thực sự chính là những thể loại ấy như những giấc mơ được hình thành từ đó vậy. Não bộ tỉnh thức và mơ màng của chúng ta vận chuyển một cách căn bản trong những hành vi tương tự; chỉ khi nằm mơ, não bộ chúng ta ít bị cưỡng chế bởi các thông tin thuộc giác quan hay bởi một kẻ-kiểm-tra- thực tại sống đâu đó trong não thùy trước của chúng ta. Ðiều này không có ý muốn nói rằng kinh nghiệm giác quan phần lớn không mang lại một ám chỉ đến thực tại nào, nó chỉ muốn nói, như một chứng nghiệm thực tế, rằng không có gì xảy ra trong ý thức mà không được cấu tạo, sửa chữa, hoặc phóng đại trước bởi hệ thống thần kinh. Trong khi điều này mang lại sự gợi ý cho một số vấn nạn triết học về các nền tảng căn bản của kiến thức chúng ta, nó cũng mang đến một cơ hội để thay đổi một cách đáng kể cái đặc điểm của kinh nghiệm chúng ta.

 

Trong khi mỗi tế bào thần kinh tiếp nhận các tác động từ thế giới bên ngoài có đến hàng hàng chục, hàng trăm tế bào khác không hề tiếp nhận gì cả. Do đó não bộ gần như tự nói chuyện với chính mình và không có một thông tin nào từ thế giới (trừ các thông tin từ khứu giác) chạy thẳng được từ bộ phận cảm giác tiếp nhận đến phần vỏ não, nơi tích lượng của ý thức đang nằm ẩn khuất. Luôn luôn chỉ có một hoặc hai cách quãng trong một mạch chuyển - tế bào tiếp hợp- nhượng bộ cho tế bào thần kinh sự tra hỏi cái cơ hội hợp nhất các thông tin đáp trả, hoặc các thông tin từ những khu vực não khác. Kiểu hợp nhất/nhiễm độc tín hiệu này giải thích được cách thức mà một số dược liệu,tình trạng cảm xúc hay ngay cả sự thấu hiễu nhận thức có thể biến đổi một cách căn bản đặc tính của kinh nghiệm chúng ta. Não bộ của quý vị được điều chỉnh để mình mang lại được cái cảnh tượng thế giới mà chúng ta có được ngay trong khoảnh khắc hiện tại này. Ngay tâm điểm của hầu hết các truyền thống tôn giáo ẩn náu một khẳng định hoàn toàn có giá trị rằng não bộ có thể bị điều chỉnh hoàn toàn khác đi.

 

Tuy nhiên, cũng đúng là con người thỉnh thoảng có những kinh ngiệm có tính cách đúng là một sự rối loạn tinh thần. Như kết quả từ loại kinh nghiệm này, có nhiều phương cách để hủy hoại một cá thể, để rút tỉa được (rõ ràng) sự có nghĩa từ những phán quyết của ý thức một ai đó, và để tin rằng người ấy hiểu biết được thế giới như thế nào. Không phải tất cả các kinh nghiệm hão huyền đều được tạo nên ngang bằng nhau, để không nói lên một điều gì từ những thế giới quan rút tỉa được từ các kinh nghiệm ấy. Như trong tất cả mọi sự vật, một số khác biệt ở đây tạo nên tất cả khác biệt, vả lại, những khác biệt này, có thể được thảo luận một cách hợp lý.

 

Như chúng ta sẽ nhìn thấy, có một mối liên quan sâu sắc giữa tính tâm linh, đạo lý và các xúc cảm tích cực. Mặc dù một tiếp cận khoa học đến những chủ để này vẫn còn đang phải vất vả để được ra đời, có lẽ không còn sự bí ẩn nào về việc chúng ta thích yêu thương hơn là sợ hãi, hoặc xem những việc tàn ác là sai trái hơn những điều chúng ta đồng thuận trong những đánh giá của chúng ta về những tầm cỡ tương đối của các đối tượng hay về giống tính của những khuôn mặt. Ở tầm mức của não bộ, các định luật bảo đảm cho hạnh phúc con người thì không khác nhau nhiều lắm giữa người này và người khác. Trong một phần sau của tác phẩm này, chúng ta sẽ nhìn ra rằng có nhiều thứ đã tạo nên được từ sự thực này rất lâu trước khi các chi tiết khoa học từng trở nên sẵn sàng cho chúng ta.

 

MỘT KHI chúng ta đã xem xét các vấn nạn gắn liền với đức tin, và các nguy cơ khiến phải “ôn hòa” đức tin tôn giáo, tuy không hề cố ý, giờ đang đặt ra trước sự tồn tại của chúng ta, chúng ta có thể bắt đầu định vị trí cho trực giác đạo đức của mình và năng lực chúng ta cho những kinh nghiệm tâm linh trong khuôn khổ của một thế giới quan hợp lý. Ðiều này sẽ yêu cầu chúng ta sắp xếp lại các nhận thức từ mối kiến thức đang tăng trưởng về não bộ con người, sự liên tục có tính di truyền của chúng ta với phần còn lại của đời sống, và lịch sử các tư tưởng tôn giáo của chúng ta. Trong phần tiếp theo, tôi sẽ cố gắng hòa giải vị trí kề cận kề hoang mang của hai sự kiện:(1) các truyền thống tôn giáo của chúng ta minh chứng cho một loạt những kinh nghiệm tâm linh có thật, có ý nghĩa và hoàn toàn đáng để chúng ta điều tra, cả về phương diện cá nhân lẫn khoa học; (2) nhiều niềm tin đã phát triển quanh các kinh nghiệm này giờ đang đe dọa hủy diệt chúng ta.

 

Chúng ta không thể sống chỉ bằng lý lẽ. Ðấy là lý do vì sao không hề có một khối lượng lý lẽ, ứng dụng được như thuốc khử trùng, có thể cạnh tranh được với niềm an ủi của đức tin, một khi nạn khủng bố của thế giới khởi sự xâm nhập vào đời sống của chúng ta.[xx] Con cái bạn đã chết đi, hay vợ bạn đã nhiễm một cơn bệnh hiểm nghèo mà không hề có vị bác sĩ nào có thễ chữa trị, hay chính cơ thể bạn bỗng nhiên sải bước nhanh đến mộ huyệt – và lý lẽ, bất kể là nắm rõ được rộng rãi đến đâu, sẽ bắt đầu sặc mùi hoá chất foóc môn. Ðiều này đã đưa rất nhiều chúng ta đến kết luận, một cách sai lầm, rằng con người cần đến những nhu cầu mà chỉ đức tin trong một số những tư tưởng quái dị ấy có thể thỏa mãn được. Tuy nhiên, không có đâu từng viết rằng nhân loại cần phải phi lý, hay phải sống chung thân trong vây hãm, để tận hưởng ý nghĩa dài lâu của sự linh thiêng. Ngược lại, tôi hy vọng trình bày rằng tâm linh có thể - thực ra, cần phải – là một sự hợp lý sâu sắc, ngay cả như khi nó giải thích những giới hạn của lý lẽ. Nhìn thấy điều này, chúng ta có thể bắt đầu loại khỏi chính mình rất nhiều những lý lẽ chúng ta đang có để mà giết hại lẫn nhau.

 

Khoa học sẽ không mãi im tiếng trước các câu hỏi về tâm linh và đạo đức lâu hơn nữa. Ngay cả lúc này, chúng ta có thể nhìn thấy các khuấy động đầu tiên giữa tâm lý học và thần kinh học về những cái mà một ngay nào đó sẽ trở nên một tiếp cận hợp lý và chân thật đến các lãnh vực này- một lối tiếp cận mà sẽ mang đến ngay cả một kinh nghiệm thần bí tế nhị nhất trong khuôn khổ một truy tìm khoa học cởi mở. Ðã đến lúc để chúng ta nhận thức được rằng mình không cần phải phi lý mới có thể đẫm ướt đời mình trong yêu thương, bác ái, mê mẫn và sợ hãi, chúng ta cũng không cần phải từ bỏ tất cả các hình thái tâm linh hay đạo giáo thần bí để đạt được những lý đúng của lý lẽ. Trong phần sau, tôi sẽ cố gắng làm cho cả hai căn bản nhận thức và kinh nghiệm của khẳng định này trở nên rõ ràng.

 

 

Đi đến những Giới hạn của Niềm tin

 

Ðến lúc để chúng ta nhận thức được rằng niềm tin không phải là một vấn đề riêng tư; niềm tin chưa từng bao giờ chỉ thuần là một sự riêng tư. Thực tế, các niềm tin chắc chắn là không riêng tư hơn các hành động, bởi vì mỗi niềm tin là là thác nguồn của hành động trong tiềm năng. Niềm tin rằng trời sẽ mưa khiến quý ông quý bà có dù che sẽ mang dù trên tay ngay. Cũng dễ để nhìn thấy loại niềm tin ấy trong hiệu quả đầy đủ của lời cầu nguyện, thí dụ như, trở nên một mối quan tâm công khai mạnh mẽ ngay cái khoảnh khắc mà nó được thực sự đặt để vào trong sự thực hiện: khoảnh khắc mà người bác sĩ giải phẫu bỏ một bên những công cụ phàm trần của ông để nỗ lực chữa trị bệnh nhân bằng cầu nguyện, hay một viên phi công tìm cách hạ cánh chiếc phi cơ phản lực không bằng một kỹ thuật hàng không nào ngoài lời tung hô “ Hallelujah”,thì ngay lập tức chúng ta sẽ được mang ra toà án hình sự ở các tỉnh thành của đức tin riêng tư.

 

Con người tin thế nào thì hành động như thế ấy. Tin rằng mình là phần tử của một chủng loại được chọn, phải trôi nổi trong các xuất khẩu dâm ô tục tĩu của một văn hoá ma quỷ vốn đang lôi kéo con cái mình ra khỏi Thượng đế, tin rằng mình sẽ được tưởng thưởng đời đời bởi những vui sướng không thể tưởng tượng nổi bằng cách giết chết những kẻ rối đạo – và đâm thẳng máy bay vào tòa cao ốc chắc chắn là không hơn gì sự thể là được kêu gọi để hành động như thế. Một số niềm tin thực sự nguy hiểm tự bản chất. Chúng ta đều biết rằng nhân loại có khả năng về những sự tàn ác không thể tưởng tượng được, nhưng chắc chúng ta phải tự hỏi, loại ý thức hệ nào đã khiến chúng ta có hết sức có năng lực về những việc tàn ác ấy? Và làm sao chúng ta có thể đạt các niềm tin này vượt ra ngoài các ma sát của những bàn luận thông thường, đến nỗi các niềm tin ấy đã tồn tại được hàng ngàn năm, không hề bị xáo trộn bởi tiến trình của lịch sử hay bởi các chinh phục của lẽ phải ? Ðây là vấn nạn của cả guồng máy văn hoá lẫn tâm lý. Ðã quá hiển nhiên từ lâu rằng giáo điều của đức tin - đặc biệt trong một mưu đồ mà những kẻ tin được hứa hẹn giải thoát đời đời còn kẻ nghi hoặc bị nguyền rủa – thì đúng là một cách giải quyết tuyệt hảo.

 

Ðến lúc để chúng ta từ các nhà vua đến tổng thống trở xuống, phải nhận hiểu được rằng rằng không hề có một bằng chứng nào cho thấy bất cứ cuốn kinh sách nào của chúng ta đã từng được soạn thảo bởi Ðấng tạo Hóa. Thánh kinh, có vẻ chắc chắn như là công trình của những cày xới trên cát bởi những người đàn ông đàn bà tưởng quả địa cầu là một mặt phẳng và đối với họ, chiếc xe cút kít cũng đã là một biểu trưng dễ nể của khoa học kỹ thuật. Dựa vào những tư liệu kinh bản đó như một căn bản cho thế giới quan chúng ta – dù ngưòi biên tập có can đảm đến đâu – cũng là sự cự tuyệt đến nhận thức của hai ngàn năm văn minh rằng trí tuệ con ngưòi chỉ mới bắt đầu biết tự chạm khắc thông qua một nền văn hóa khoa học và chính trị thế tục. Chúng ta sẽ nhìn thấy cái cản ngăn lớn nhất cho văn minh không phải chỉ thuần từ chủ nghĩa cực đoan tôn giáo: hơn cả như thế mà chính là từ một tổng thể lớn hơn của sự điều tiết trí thức và văn hóa chúng ta tạo nên cho chính đức tin. Ôn hòa tôn giáo chịu trách nhiệm phần lớn cho các xung khắc tôn giáo trong thế giới chúng ta, bởi vì các niềm tin của họ mang lại một khung cảnh mà ở đó chủ nghĩa kinh sách nghĩa đen và bạo lực tôn giáo chưa bao giờ được đối nghịch nhau một cách tương xứng.

 

 

MỖI một không gian luận bàn chân thật cần phải, ở mức tối thiểu, chấp nhận sự đối thoại qua lại – và từ đấy cái khả năng mà những đối thoại đang đứng ở vòng ngoài có thể đến được sự am hiểu các sự thực vốn đang nỗ lực để nối kết lại. Ðây là lý do vì sao bất cứ sự thực hành nào chấp nhận được của lý lẽ phải vượt qua giới hạn của quốc gia, tôn giáo và đạo đức một cách cần thiết. Xét cho cùng, không có những thứ đại loại như ngành vật lý học thuộc Hoa Kỳ (hay Kitô giáo, hay Caucasian). [xxi]Ngay cả các luân thường đạo lý và tâm linh đạt được tiêu chuẩn này của vũ trụ bởi vì con người, bất luận thuộc về quá khứ nào, dường như cũng hội tụ về những kinh nghiệm tâm linh tương tự và những thông hiểu đạo lý khi có cùng những phương pháp tra cứu. Tuy nhiên, đấy không phải là trường hợp của “những chân lý ” tôn giáo. Không có điều gì mà một người Kitô giáo và Hồi giáo có thể nói với nhau khiến niềm tin của họ cùng tổn thương đến cuộc bàn luận, bởi vì ngay chính các tín điều của đức tin họ đã miễn nhiễm họ khỏi sức mạnh của đối thoại. Tin tưởng một cách mãnh liệt, không cần gì đến chứng cứ, họ đã tự sa thải mình khỏi thế gian. Dó đó, chính từ trong bản chất tự nhiên nhất của đức tin để phục vụ như một cản ngăn cho các truy cứu xa hơn. Và do đó, cái thực tế của việc  phương Tây chúng ta không còn giết người vì dị giáo nữa cho thấy rằng tư tưởng tồi bại đó, tuy linh thiêng, không thể tồn tại đồng hành với các điều tốt lành khác mãi mãi.

 

Nhìn vào mối liên kết giữa niềm tin và hành động, rõ ràng chúng ta không thể chịu đựng được sự đa dạng của các niềm tin tôn giáo hơn là chịu đựng sự đa dạng của môn dịch tễ học hoặc vệ sinh căn bản. Vẫn còn một số văn hóa mà ở đó một lý thuyết mầm mống về bệnh tật hoàn toàn chưa thể có mặt, khiến con người phải đau khổ vì sự ngu dốt làm suy nhược hầu hết các sự cố liên quan đến sức khỏe cơ thể của họ. Chúng ta có thể “chịu đựng” được những niềm tin này không ? Chắc là không, nếu như những niềm tin này trói buộc sức khỏe của chúng ta lại.[xxii]

 

Ngay cả các niềm tin vô thưởng vô phạt, khi không được thẩm định đúng, có thể dẫn đến những hậu quả không thể chịu đựng được. Thí dụ như nhiều người Hồi giáo tin rằng Thượng đế có mối quan tâm tích cực đến y phục của phụ nữ. Sự quan tâm này trông cũng đủ tổn hại, số người phải đau khổ vì những gì ý tưởng kỳ khôi này gây ra thật là đáng ngạc nhiên. Cuộc bạo loạn ở Nigeria vì kỳ thi Hoa Hậu Thế giới năm 2002 gây ra cái chết cho hơn 200 con người. Ðàn bà, đàn ông vô tội đã bị chém giết hoặc thiêu sống đơn giản chỉ vì họ muốn giữ cho khu vực đau khổ ấy không được phép có những phụ nữ mặc áo tắm hai mảnh. Ðầu năm nay, các cảnh sát tôn giáo ở Mecca đã ngăn chặn những cứu thương viên và lính cứu hỏa không được cứu một số thiếu nữ bị kẹt trong tòa nhà đang cháy. Tại sao ? Bởi vì các thiếu nữ đang chết kẹt trong tòa nhà ấy không mang khăn choàng che mặt truyền thống mà luật đạo bắt buộc.[xxiii] Mười bốn thiếu nữ chết cháy trong hỏa hoạn; năm mươi em khác bị thương tật. Ngưòi Hồi giáo có nên được tự do tin rằng Ðấng tạo nên vũ trụ này quan tâm đến gấu váy như thế không ?

 

 

Dành lại trí tuệ của chúng ta

 

 

Các biến cố gần đây đã tệ hại hơn là việc phô bày sự dễ tổn thương của chúng ta cho những bất hòa quân sự của thế giới: những biến cố ấy đã hé mở một luồng tăm tối của sự phi lý trong các luận bàn cấp quốc gia của chúng ta. Để nhìn thấy văn hóa chúng ta đang xẻ chia bao nhiều phần vào sự phi lý của kẻ thù, cứ thử thay cái tên thần Olympic được ưa thích của chúng ta bằng danh xưng “Thượng đế” ở bất cứ chỗ nào từ này xuất hiện trong những bàn luận của công chúng. Thử tưởng tượng tổng thống Bush nói chuyện với National Prayer Breakfast bằng những thuật ngữ này:“Đằng sau tất cả đời sống và lịch sử, có một cống hiến và mục đích đã được đặt để bởi bàn tay của một đấng Zeus công bình và chân thật.” Hãy tưởng tượng diễn văn của ông đọc trước quốc hội (20,Tháng Chín năm 2001) chứa đựng nguyên văn như sau:“Tự do và lo sợ, công lý và bạo tàn luôn luôn đối chọi với nhau, và chúng ta hiểu rằng Thần Apollo không đứng trung lập giữa những điều đó.” Thật rõ ràng, những thứ cũ kỹ tầm thường của ngôn từ đã dấu diếm đi sự trống rỗng và lạ thường của biết bao niềm tin của chúng ta. Tổng thống của chúng ta thường phát biểu những câu chữ thích hợp với thế kỷ mười bốn, và dường như không một ai có khuynh hướng muốn tìm hiểu những từ như “Thượng đế” , “viễn chinh thập tự giá ” và “quyền lực làm việc- phi thường” có ý nghĩa gì đối với chính ông. Không phải chúng ta chỉ vẫn còn đang ăn những rác rưởi của thời thượng cổ; mà chúng ta thực đang hợm hĩnh về những từ ấy. Garry Wills đã nhận xét rằng Toà nhà Trắng của Bush “đang lỗ chỗ tổ ong với những nhóm cầu nguyện và các tổ nghiên cứu Thánh kinh, tựa như một tu viện bị nhuộm trắng toát”.[xxiv] Điều này lẽ ra phải gây khó khăn cho chúng ta như đã gây khó khăn cho những kẻ hoang tưởng của thế giới Hồi giáo. Chúng ta nên khiêm tốn, có lẽ ở mức độ tức khắc quỳ gối xuống, trước những kiến thức mà người Hy lạp cổ đại đã đặt các câu chuyên thần thoại Olympic của họ vào yên nghỉ vài trăm năm trước khi Thiên chúa sinh ra đời, trong khi chúng ta có các vị như Bill Moyers triệu tập một hội nghị các học giả trong mục đích cao cả của việc minh xác xem làm thế nào để các sách kinh Sáng thế hòa hợp được với đời sống của thế giới hiện đại. Khi chúng ta đang vững chãi thụt lùi về thời trung cổ, dường như vẫn còn đủ chỗ để băn khoăn xem các huyền thoại vốn đang bão hòa các luận bàn của chúng ta có thể sẽ bốc lên giết chết tất cả chúng ta, như các huyền thoại của các tôn giáo khác đã và đang giết hại chúng ta hay không.

 

Hai trăm năm nữa kể từ hôm nay, khi chúng ta là một nền văn minh toàn cầu mạnh mẽ khởi sự công cuộc định cư trên không gian, một điều gì đó về chúng ta sẽ thay đổi: phải thay đổi, nếu không, chúng ta sẽ giết hại lẫn nhau mươi lần nữa trước khi ngày tháng ấy có thể hé rạng. Chúng ta đang đi nhanh đến một thời đại mà các vũ khí hủy diệt hàng loạt sẽ trở thành những sự việc tầm thường không đáng kể; giờ đây sự cần thiết của thông tin khoa học kỹ thuật có thể nhìn thấy được trên mọi ngõ ngách của thế giới. Như nhà vật lý học Martin Rees vạch ra,“Chúng ta đang tiến vào một kỷ nguyên mà chỉ cần một con người đơn độc, bằng một hành động bí mật, có thể gây ra hàng triệu cái chết hoặc biến cả một thành phố thành nơi hoang địa không thể sinh sống được trong nhiều năm …”[xxv] Với sức mạnh của khoa học kỹ thuật chúng ta có thể nhìn thoáng qua để thấy những kẻ tử đạo đang phát triển kia sẽ không thể là người láng giềng hiền lành trong tương lai. Chúng ta đơn giản đã làm mất đi lẽ phải về những huyền thoại và cả bản sắc những huyền thoại của mình.

 

Ðến lúc để chúng ta phải nhận ra rằng điều duy nhất có thể cho phép con người hợp tác được với nhau trong một phương cách thực sự cởi mở là sự sẵn lòng để cho các niềm tin của mình được kiểm chứng bởi các sự thực mới. Chỉ có sự rộng mở ra với chứng cứ và tranh biện mới bảo đảm được cho một thế giới chung cho chúng ta. Dĩ nhiên, không có gì bảo đảm là những người hiểu biết sẽ đồng thuận với nhau về mọi thứ nhưng những điều không hợp lý chắc chắn sẽ được chia nhỏ ra từ các chủ thuyết của họ. Tinh thần truy tìm song phương này là cái phản đề chính của đức tin tôn giáo.

 

Trong khi chúng ta có thể không bao giờ đạt được sự kết thúc trong quan niệm của chúng ta về thế giới, lạ thường là dường như các hậu bối của chúng ta đang nhìn nhiều niềm tin của chúng ta vừa như một sự kỳ quặc bất khả vừa là một thứ ngu xuẩn tự sát. Nhiệm vụ quan trọng trong luận bàn của chúng ta với nhau nên là việc nhận dạng những niềm tin tối thiểu có thể tồn tại hàng ngàn năm nữa trong sự thẩm tra của nhân loại, hoặc để ngăn chặn những niềm tin ấy, và khuất phục chúng dưới những phê phán liên tục. Những thói quen hiện tại nào của chúng ta sẽ trở nên kỳ cục nhất trong quan niệm của các thế hệ tương lai nhưng vẫn sống sót như sự điên rồ của hiện tại ? Thật khó có thể tưởng tượng được rằng mối bận tâm về tôn giáo của chúng ta sẽ không đứng đầu được danh sách bận tâm ấy.[xxvi] Hy vọng hậu bối nhìn lại chúng ta với sự biết ơn là một điều tự nhiên. Nhưng chúng ta cũng hy vọng rằng chúng sẽ nhìn lại chúng ta bằng sự thương hại và ghê tởm, như chúng ta đã nhìn lại những kẻ nuôi giữ nô lệ của một quá-khứ-không-xa-lắm của chúng ta. Thay vì tự chúc mừng mình về tình trạng hiện tại của nền văn minh của chúng ta, hãy cân nhắc tại sao, trong một thời gian đủ chín mùi nhất, chúng ta có lẽ tụt hậu một cách tuyệt vọng, và phấn đấu để đặt lại nền tảng cho cái tế nhị đó của hiện tại. Chúng ta phải tìm được phương cách của mình cho đến một thời đại mà đức tin, không có chứng cứ, sẽ chỉ làm hổ thẹn những ai muốn yêu cầu đến. Với tình trạng hiện tại của thế giới chúng ta, trông như không hề có một tưong lai nào khác hơn đáng để ước muốn.

 

Bắt đầu sự công khai huỵch toẹt những ngu xuẩn của hầu hết những niềm tin tôn giáo của chúng ta là một điều cấp bách. Tuy nhiên, tôi e rằng, thời đại ấy vẫn chưa đến được. Trong ý nghĩa này, những trang theo sau đây đã được viết trong một tình thần cầu nguyện nhiều hơn. Tôi cầu xin rằng chúng ta sẽ có một ngày suy nghĩ rõ ràng được về những sự việc này để con cái chúng ta khỏi giết nhau vì những cuốn kinh sách nữa. Nếu chẳng phải là vì con cái chúng ta, thì tôi ngờ rằng  chúng ta có thể đã quá trể rồi, bởi vì, trong lúc còn quá khó để gặp được Người tạo ra quý bạn thì trong năm mươi năm nữa, sẽ vô cùng dễ dàng để kéo lê thêm một kẻ nào đó theo mình mà cùng đến gặp Người.[xxvii]

 

 

 

 



[1] Khoan sọ (hay khoan bằng trephine) là sự thực hiện những lỗ khoan vào trong sọ người. Những chứng tích Khảo cổ đã cho thấy rằng đây là một trong những phương cách giải phẫu cổ đại nhất. Phương pháp này có lẽ đã được thực hiện cho chứng bệnh động kinh và các chứng thần kinh như một cố gắng để trừ tà ma. Mặc dù hiện nay vẫn còn nhiều nguyên nhân để mở hộp sọ của một con người ra, nhưng niềm tin rằng hồn ma quỷ dữ sẽ cần đến một cái lỗ để chui ra thì không nằm trong các nguyên nhân ấy.



[i]  Như chúng ta sẽ thấy trong phần 4, các đoán biết cho thấy đa phần là y không thuộc về một thành phần thấp kém trong xã hội.

 

[ii]  Một số độc giả có thể phản đối vì cho rằng người đánh bom này nhiều khả năng là một phần tử của Phong trào giải phóng Tigers của Tamil Eelam - Tổ chức ly khai Sri Lanka đã gây ra nhiều hành vi khủng bố tự sát hơn tất cả các nhóm khác. Quả thực, tổ chức “Tamil Tigers” thường được dùng như một thí dụ phản lại tất cả những tố cáo nào cho rằng những kẻ khủng bố tự sát là sản phẩm của tôn giáo. Nhưng để mô tả nhóm Tamil Tigers như một tổ chức thế tục – như R. A. Pape, “The Strategic Logic of Suicide Terrorism” trong American Political Science Review 97, số 3 (2003): trang 20-32, và những học giả khác- chính là một sự đánh lừa. Dù động cơ của Tigers không rõ ràng vì tôn giáo nhưng  họ là những người Ấn độ giáo vốn tin tưởng mù quáng vào nhiều điều không đúng đắn về bản chất của đời sống và sự chết. Sự sùng bái tử đạo mà họ đã nuôi dưỡng trong nhiều thập niên mang nhiều đặc tính tôn giáo rằng người ta có thể tin vào việc con người sẵn lòng hy sinh dễ dàng mạng sống của mình cho một lý tưởng. Những người thế tục Tây phương thường đánh giá thấp đến một số nền văn hóa ở mức độ họ mê mải như thể  ở trong một thế giới khác, nhìn về cái chết với ít sợ hãi hơn là có vẻ hoàn toàn lý trí. Một lần tôi đi du lịch qua Ấn độ khi chính phủ sở tại đã sửa lịch thi cử cho các học sinh muốn thi vào ngành phục vụ dân sự: Cái mà đối với tôi đúng là những chuyện nhỏ nhặt của bất tiện hành chánh đã xô đẩy cả làn sóng thanh thiếu niên phải quên mình mà phản đối. Những người theo Ấn giáo Hindu, ngay cả những người vốn có thiên kiến như một người căn bản trần tục, thường nuôi dấu những niềm tin tôn giáo mạnh mẽ.

 

[iii] Ở đây tôi đang nói đến về “Thuật giả kim” như một thành phần của các kỹ thuật luyện kim, hóa kim hoang đường thời thượng cổ với mục đích chuyển hóa các kim loại sắt thép thường thành vàng ròng và các vật chất trần tục thành ra một loại “thuốc  tiên”. Cũng đúng khi có người cho rằng các tài liệu về thuật giả kim đã tiên tri được các sự thực hiện đại nhất của các ngành vật lý thể rắn, ngành dược lý học, và một số nguyên lý khác. Tuy nhiên tôi không hứng cảm lắm từ những kết quả như tài liệu của Rorsach. Tuy nhiên, hãy đọc T. McKenna, The Archaic Revival ([San Francisco]: Harper San Francisco, 1991), Food of the Gods: The Search for the Orginal Tree of Knowledge ( New York: Battam book, 1992), và True Hallucinations ([San Francisco]: Harper San Francisco, 1993) để tìm thấy một minh chứng của một tâm thức sáng sủa và đẹp đẽ đã từng nghiêm túc với việc đánh giá lại môn Thuật giả kim.

 

[iv] Theo S. J. Gould, trong “Nonoverlapping Magisteria”. Natural History, số tháng Ba 1997.

 

[v]  Theo G. H. Gallup Jr., Religion in America 1996 ( Princeton: Princeton Religion Research Center, 1996)

 

[vi]  Ðiều này không phải để chối bỏ việc có những vấn nạn đối với nền dân chủ, đặc biệt khi dân chủ được mang ứng dụng quá sớm vào các xã hội vốn đang có tỉ lệ trẻ em tử vong cao, kém dân trí, có tư tưởng bè phái, chủng tộc sâu sắc và kinh tế kém ổn định. Rõ ràng có những thứ đại loại như một thể chuyên quyền rộng lượng, và thể loại này có thể là một giai đoạn trung gian trong sự phát triển về chính trị của nhiều xã hội. Xin đọc R. D. Kaplan, “Was Democracy Just a Moment ?”, Atlantic Monthly, tháng 12. 1997, trang 55-80, và đọc F. Zakaria, The Future of Freedom: Illiberal Democracy at Home and Abroad (New York: W.W. Norton, 2003).

 

[vii]  Theo Bernard Lewis, trong “The Revolt of Islam” New Yorker, 19 Tháng 11, 2001, tr. 50-63, và theo The Crisis of Islam: Holy War and Unholy Terror ( New York: Modern Liberary, 2003), đã vạch rõ rằng thuật ngữ  “Chủ nghĩa chính thống” đã được đặt ra bởi những người theo Thệ Phản giáo Mỹ và có thể trở nên sai lạc khi dùng với các đức tin khác. Ðối với tôi tuy rằng dường như thuật ngữ này đã thoát vào trong các xữ dụng rộng rãi, hiện thời nó vẫn  biểu thị cho bất cứ thứ loại nào của chủ nghĩa kinh thánh nghĩa đen. Tôi xử dụng thuật ngữ ấy trong chính ý nghĩa này. Các vấn nạn của việc xử dụng các nhóm chữ ấy đặc biệt trong Hồi giáo sẽ được nhắc đến trong chương 4.

 

[viii]  Theo C. G. Dugger, “Religious Riots Loom over Indian Politics” Thời báo Nữu Ước 27 tháng bảy 2002. Cũng xin đọc P. Mishra, “The Other face of Fanaticism”, tạp chí Thời báo Nữu Ước, tháng Hai 2004, trang 42-46.

 

[ix]  Theo A. Roy, War Talk (Cambridge, Mass.: South End Press, 2003), 1.

 

[x]  Theo Lewis, Crisis of Islam, 57-58, các ghi chú, chúng ta đã gây ra quá nhiều xáo trộn trong vùng trung tâm Châu phi, vùng Ðông Nam châu Á, và vùng nam Phi. Những quốc gia Hồi giáo này vốn bị chiếm đóng bởi các lực lượng ngoại bang (như Ai Cập) thì trong nhiều phương diện lại khá hơn nhiều so với các quốc gia (như Saudi Arabia) không từng bị ngoại bang chiếm đóng. Lấy Saudi Arabia làm ví dụ, bất chấp sự thịnh vượng của mình - vốn không có nguyên nhân nào hơn ngoài sự ưu đãi của thiên nhiên - quốc gia này đã bị bỏ rơi sau các láng giềng mình trong nhiều lãnh vực. Người Saudi chỉ có tám trường đại học để phục vụ 21 triệu dân số, và mãi đến năm 1962 họ mới chấm dứt được nạn nô lệ. Trong tác phẩm Terror and Liberalism của P. Berman  (New York: W.W Norton, 2003), trang 16, cũng chỉ cho thấy rằng hầu hết các xung khắc của chúng ta trong những năm gần đây đã từng là những chiến đấu để tự vệ từ nhiều dân tộc Hồi giáo: Cuộc chiến tranh vùng Vịnh đầu tiên là cuộc chiến tranh để tự vệ đối với Kuwait và Saudi Arabia, và đã phải tiếp tục bằng cả một thập niên  bảo vệ vùng trời cho dân Kurd người Iraq ở phương bắc và dân Shia người Iraq ở phương nam; cuộc can thiệp vào Somalia đã hình thành để giải cứu nạn đói kém ở đấy; và sự can thiệp của chúng ta ở vùng Balkan là vì mục đích bảo vệ người Bosnia và Kosovar khỏi sự cướp phá của người Kitô giáo Serb. Các hỗ trợ ban đầu của chúng ta cho quân thánh chiến phiến loạn (Mujahideen) ở Afghanistan cũng nằm trong các ý nghĩa này. Như Berman đã công bố “Trong tất cả lịch sử cận đại, không có một quốc gia nào từng chiến đấu cật lực và kiên trì cho dân cư Hồi giáo như nước Hoa Kỳ”. Ðiều này thật đúng. Thế nhưng thế giới quan của người Hồi giáo lại nhìn sự kiện này thường như một sự bất mãn khác đối với chúng ta; lại thêm một nguồn gốc khác cho sự “khinh miệt” Hồi Giáo.

 

[xi]  Dĩ nhiên, người Sunnis vẫn thù ghét người Shiites, nhưng đây cũng là một biểu hiện đức tin của họ.

 

[xii]  Theo J. Bennet, “In Isareli Hospital, Bomber Tells of Trying to Kill Israelis” Thời báo Nữu Ước ngày 8 tháng Sáu, 2002.

 

[xiii]  “Năm 1994, tại một làng phía nam Islamabad, cảnh sát kết tội một bác sĩ vì dám đốt cuốn kinh Koran thiêng liêng, một tội phỉ báng đáng bị xử tử hình. Trước khi ông được đem ra tòa, một đám đông giận dữ đã kéo lê ông ra khỏi trạm cảnh sát, đổ xăng vào ông và thiêu sống ông ta”. Theo J.A. Haught, Holly Hatred: Religious Conflicts of the 90’s (Amherst, Mass.:Prometheous Books, 1995). Trang 179.

 

[xiv]  Theo S. P. Huntington, The Clash of Civilization and the Remaking of World Order (New York: Simon and Schuster, 1996)

 

[xv]  Như nhiều nhà bình luận đã nhận xét, không hề có một câu tương đương trong kinh Koran như câu “cái gì của Caesar hãy trả lại cho Caesar, và sự gì của Thiên Chúa hãy trả về Thiên Chúa” như trong kinh Tân Ước. (Matt 22:21). Kết quả là, hầu như không hề có một căn bản thuộc Hồi giáo cho sự phân biệt giữa quyền lực của nhà thờ và nhà nước. Khỏi cần phải nói thêm, điều này quả là một vấn nạn thực sự.

 

[xvi]  Theo Lewis, Crisis of Islam, trang 20.

 

[xvii]  Hãy thử nghĩ, cái gì sẽ lấp đầy các trang báo của chúng ta nếu như không có các đối kháng giữa Do Thái với người Palestine, giữa người Ấn độ và người Pakistan, giữa người Nga với người Chechens, giữa các lực lượng quân đội Hồi giáo với các nước Tây phương v.v… Các vấn nạn giữa phương Tây với các quốc gia như Trung Hoa và Bắc Triều Tiên vẫn còn đó, nhưng chúng cũng thường là các kết quả của sự chấp nhận không phê phán một mớ những chủ thuyết khác nhau. Thí dụ như dù những khác biệt giữa chúng ta và bắc Triều Tiên không phải là thuần tuý tôn giáo, nhưng là hậu quả trực tiếp từ sự phát triển cực kỳ loạn trí của ý thức hệ chính trị của bắc Triều Tiên, sự tôn thờ lãnh tụ một cách hèn hạ và sự thiếu thông tin từ thế giới bên ngoài của họ. Bắc Triều Tiên hiện như một giáo phái có trang bị vũ khí hạt nhân. Nếu như 29 triệu cư dân ở bắc Triều Tiên hiểu được mình đang là một cái gì lạ thường giữa thế gian, có lẽ họ đã cư xử khác đi. Vấn nạn của bắc Triều Tiên trên hết và trước hết chính là vấn nạn của những niềm tin không hề được minh chứng (và không thể minh chứng) của những người bắc Triều Tiên. Ðọc P. Gourevich, “Letter from Korea: Alone in the Dark”, New Yorker, ngày 8 tháng 9, 2003, trang 55-75.

 

[xviii]  Ðọc D. Radin, The conscious Universe: The Scientific Truth of Psychic Phenomena (New York: HarperCollins, 1007), R. Sheldrake, The Sense of Being Stared  At: And Another Aspects of the Extended Mind (New York: Crown, 2003) và R. S. Bobrow, “Paranormal Phenomena in the Medical Literature Sufficient Smoke to Warrant a Search for Fire”, Medical Hypotheses 60 (20030: 864-68. Còn có cả những bằng chứng hết sức đáng tin cho sự đầu thai. Xin đọc I. Stevenson, Twenty Cases Suggestive of Reincarnation (Charlottesville: Univ. Press of Virginia, 1974), Unlearned Language: New Stufies in Xenoglossy (Charlottville: Univ. Press of Virginia. 1984) và Where Reincarnation and Biology Intersect (Westport, Conn,: Praeger, 1997).

 

[xix]  Vâng, con người có thể định vị được từ tiếng vang. Chúng ta chỉ không giỏi lắm với khả năng này. Ðể chứng minh cho năng lực này, chi cần đơn giản nhắm mắt lại, ngân nga một âm thật lớn, xong quơ bàn tay tới lui trước mắt mình. Chính âm thanh phản hồi từ bàn tay sẽ xác định được vị trí của nó.

 

[xx]  Nhân chứng John Von Neumann- một nhà toán học, lý một thyết gia về các trò chơi, nhà bác học về quốc phòng và một người theo trường phái triết học bất khả tri- đã cải đạo sang Công giáo trong khi bị đau đớn bởi bệnh ung thư. Ðọc W. Poundstone, Prisoner’s Dilemma (New York: Doubleday, 1992).

 

[xxi]  Những kẻ bài Do Thái đã chế diễu cái “Vật lý học Do Thái” của Einstein, và những người cộng sản chối bỏ cái “Sinh học tư bản” của Mendel và Darwin. Nhưng những điều này không phải là những phê bình dựa trên lý trí – như đã được làm chứng bởi sự thật là các nhà khoa học bất đồng chính kiến đều bị bỏ tù và giết hại cả.

 

Bất chấp những thực tế này, K. Peng và R. E. Nisbett, trong “Culture, Dialetics, and Reasoning about Contradiction”, American Psychologist 54 (1999):tr. 751-54, đã tranh cãi rằng những khác biệt đáng kể hiện hữu trong các loại tranh luận thông qua các nền văn hóa. Ðối với tôi, những chứng liệu không có tính thuyết phục mặc dù ngay cả các tư tưởng Ðông và Tây phương có đề cập đến các vấn đề ấy một cách khác biệt, vẫn không có lý do nào cho thấy tại sao, trên nguyên tắc, chúng ta không thể đồng ý về cái gì là hợp lý nhất để có thể tin được.

 

[xxii]  Sự xuất hiện trong năm 2003 của hội chứng SARS ở phía nam Trung quốc là một minh chứng mới nhất cho sự ảnh hưởng của toàn cầu hậu quả từ việc thực hành y tế ở các địa phương. Việc xử lý sai về căn bệnh dịch này của Trung quốc đã sinh ra không phải từ các niềm tin y học phi lý mà chính ở các niềm tin chính trị phi lý-và các hậu quả đã xảy đến, vào thời điểm cuốn sách này đăng được viết không đến nỗi thê thảm. Nhưng thật khó để tưởng tượng một nền văn hóa có các niềm tin liên quan đến dịch bệnh đã có thể gây ra một cách hệ thống những hiểm nguy không thể chấp nhận được đến những người chung quanh. Chẳng có gì cho thấy là chúng ta có thể cô lập, xâm chiếm hay chinh phục được các xã hội như thế.

 

[xxiii]  Theo Thời báo Los Angeles, ngày 18 tháng 3, 2002

 

[xxiv]  Theo G. Wills, “With God on His Side” Tạp chí New York Times , ngày 30 tháng 3, 2003.

 

[xxv]  Theo M. Rees, Our Final Hour (New York:Basic Books, 2003) trang 61.

 

[xxvi]  Tách riêng các câu hỏi về sự có vẻ hợp lý của chúng ra, tính không tương thích lẫn nhau của các niềm tin tôn giáo của chúng ta khiến chúng bị hoài nghi trên nguyên tắc. Như Bertrand Russell đã nhận xét rằng ngay cả khi chúng ta có thể cho phép điều ấy thì một trong những tôn giáo của chúng ta phải tự mình sửa chữa lại trong từng chi tiết, dựa trên số lượng của các quan điểm xung khắc, từng người tin theo đáng bị nguyền rủa chỉ trên căn bản  thống kê những chi tiết có thể sai lầm.

 

[xxvii]  Rees, trong Our Final hour, đã cho các sinh loài chúng ta không hơn 50 % cơ hội sống còn đến cuối thế kỷ này. Dù rằng những lời cảnh báo trước này của ông chỉ có ý nghĩa như một tiên đoán mang tính giáo dục, chúng cũng đáng để suy nghĩ nghiêm túc. Tác giả không phải là một người lập dị.

Sam Harris
Số lần đọc: 1844
Ngày đăng: 30.11.2009
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Thời kỳ Bảo Bình- 1 - Hamvas Béla
Thời kỳ Bảo Bình- 2 - Hamvas Béla
Nhà thơ trong quan niệm của Chế Lan Viên - Trần Hoài Anh
Bàn luận về thơ Tân hình thức - Đỗ Quyên
Từ thầy đến Quân sư - Trần Hạ Tháp
Claude Lévi-Strauss (1908-2009) Với thuyết cơ cấu - Khổng Ðức
Hiến chương Nhân Bản 2000 : Lời Kêu Gọi Một Chủ Nghĩa Nhân Bản Toàn Cầu Mới -1 - Nguyễn Ước
Hiến chương Nhân Bản 2000 : Lời Kêu Gọi Một Chủ Nghĩa Nhân Bản Toàn Cầu Mới -2 - Nguyễn Ước
Hiến chương Nhân Bản 2000 : Lời Kêu Gọi Một Chủ Nghĩa Nhân Bản Toàn Cầu Mới -3 - Nguyễn Ước
Lyotard với chủ nghĩa Hậu Hiện Đại - Khổng Ðức