Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.333 tác phẩm
2.747 tác giả
527
115.970.814
 
Thơ xứ Huế 2009 - một năm nhìn lại
Lê Huỳnh Lâm

Thơ không thể tách rời đời sống con người. Điều đó đã được thời gian minh chứng. Từ rời hát ru của mẹ, những giọng hò trên miền sông nước,… đã đánh thức tình yêu thương trong mỗi chúng ta. Ngoài ý nghĩa đó, thơ còn là sự cứu rỗi để có những lúc nản lòng vịn câu thơ mà đứng dậy, đó là nỗi lòng của Phùng Quán khi sống trong một vòm trời đầy rẫy dã tâm, nghi kỵ. Hoặc trong cô đơn cùng tận, Hàn Mặc Tử đã tâm sự trong bài Cuối Thu:

 

Lụa trời ai dệt với ai căng,

Ai thả chim bay đến Quảng Hàn

Và ai gánh máu đi trên tuyết,

Mảnh áo da cừu ngắm nở nang

 

Ôi, hình ảnh người gánh máu trên tuyết cũng chính là hình ảnh cô độc của thi nhân giữa  trần gian. Khi những giá trị đích thực đã bị những thế lực đen cưỡng đoạt, thì thơ chính là hơi thở, là máu và nước mắt,… là niềm hy vọng cuối cùng của con người ở mọi thế kỷ. Khi mà mọi giá trị bị đảo ngược, trắng đen lẫn lộn,… thì thơ trở thành luồng sáng tinh khôi xoá nhoà những u tối cuộc đời. Nhưng để có được những vần thơ thần diệu, nhiều khi tác giả phải trải qua cơn đau mà thể xác không thể nào gánh vác nỗi. Điều đau đớn đó một Êxênhin ở nước Nga đã trải nghiệm, một Maia đã đi qua, một A.Camus đành hành xử như một điều phi lý, một Hemingway đã tan theo sóng biển,... và một Nhất Linh đã ra đi đầy thương tiếc,… đó là những con người thơ. Trong đời sống thường nhật của chúng ta đã có biết bao người phải đối diện cảnh chia lìa trong tận cùng nỗi đau, cho dù những con người đó không bao giờ làm thơ. Và trên xứ sở thơ mộng này, thi ca vẫn ngầm chảy trong lặng im, chảy về một chân trời diệu tưởng, nơi có cánh rừng của những giấc mơ. 

 

Trong dòng chảy của thi ca của xứ Huế, với cái nhìn cắt đoạn, tôi không có ý đánh giá hay tổng kết mà chỉ xin được điểm xuyết những tập thơ trên đất Huế trong năm vừa qua như một tản mạn, hay một sự nhìn lại, để góp thêm phần minh chứng cho đời sống thi ca ở xứ Thần Kinh.

 

Đầu năm 2009 xuất hiện tập “Đếm thời gian” của thầy giáo Lê Ngã Lễ với vần điệu lục bát quen thuộc, tập “Nhật thực” của tác giả Nhất Lâm, tập “Ta say vì nàng” của bác sĩ Phạm Xuân Phụng là hai tập thơ đã khiến người đọc nửa khóc nửa cười trước những hiện thực xã hội đầy rẫy những điều nhức nhối.

 

Với “Vị mặn hồi sinh” của tác giả Hải Trung đã gửi lại trong lòng người đọc ít nhiều trăn trở trước những nỗi đau của chiến tranh, của sự tàn ác, của âm mưu từ những kẻ vô nhân tính. Cho dù anh đã cảm nghiệm về cuộc đời như:

 

cốc rượu thừa tràn xuống vỉa hư vô

 

Để rồi có những lúc, chúng ta lầm tưởng và hy vọng điều gì mới mẻ, nhưng lại chỉ là:

 

những vệt mòn thành quen

đường lâu ngày không đi thành mới…

 

Vậy đó, những trăn trở trước vô biên, hay những ma lực đang hiện hữu khắp nơi trong xã hội và thời gian rồi sẽ cuốn trôi, sẽ trả lời cho chúng ta và cũng là niềm hy vọng của sự bất lực, điều đó được thể hiện trong bài “Thời gian”:

những ban mai này sẽ dày thêm những bình minh khác

những đứa trẻ này sẽ làm nên những người lớn khác

những bài thơ mới sẽ thành những vần điệu cũ

con chữ ngoằn nghèo hổn hển với tháng năm

thời gian tràn lên vỉa giấy

mực buông xuôi chảy như thác dòng dòng

 

Phải chăng, đó là những cảm nghiệm của tác giả hay là lời ta thán cho một mùa đau, để những hình ảnh trong nghị trường đọng thành câu chữ:

những cánh tay dong cao nhiều lúc chưa chắc đã cao hơn vài cánh tay không dong khác

ta nhiều lúc chẳng làm gì nên cháo nên cơm

thời gian nhiều lúc nung màu gạch đỏ

em bước ra sau những giận hờn

Tập thơ “Sến” của tác giả Vĩnh Nguyên với những trăn trở trước sự xâm thực văn hóa vào làng quê và hình ảnh thân thương ẩn hiện dưới lớp ngôn từ mộc mạc, như trong bài “Làng Vĩnh củ đậu”:

 

Trở về làng

Tôi buồn

Củ đậu đặc sản oai phong độc canh độc quyền không có

Lại thèm một miếng chửi “làng Vĩnh củ đậu” cũng không

Vĩnh Tuy yêu dấu ơi!

Tôi yêu làng!

Tôi muốn làng Vĩnh Tuy xưa tháng hai bắp non tháng tư đậu ngọt

Bây giờ sao không?

 

Tập “Những xưa và cũ” của tác giả Ngữ An là những hoài niệm đẹp và buồn đọng vào ký ức cũ xưa, tập “Điếu thuốc và que diêm” của nhà giáo Mai Văn Hoan với nhiều hình ảnh lãng mạng trữ tình khi về thăm lại khu vườn ngày cũ:

 

Tôi đứng lặng trước sân nhà vắng vẻ

Chiều âm u ảm đạm đến não lòng

Gốc mai già cứ thu mình lặng lẽ

Hoa trái mùa thưa thớt cuối trời đông

(Thăm lại vườn xưa)

 

Hay trong bài “Hoàng hôn trên cầu Bãi Dâu”:

 

Lẳng lặng lên cầu Bãi Dâu

Chếnh choáng vần thơ hái muộn

Mây chiều chập chờn sà xuống

Lập lòe đốm lửa ven sông

 

Và giữa những đổ nát hoang tàn của quá khứ và hiện tại, khi mà thang giá trị bị đảo lộn, những mảnh vỡ đang vung vải mọi nơi, lại có một Nguyên Quân tìm đến Hộ Thành Hào để nhìn ngắm cõi lòng đang hổn hênh mọi thứ, như chợt nhận ra niềm hy vọng mong manh, anh đã “Viết bên Hộ Thành Hào. Để rồi mỗi ngày anh phải đối diện với:

 

những gương mặt thất thần

mù tuổi – mù tên – mù những điều không thật.

 

Cả hai trạng tháng kia là đều diễn đạt sự thật của một tâm hồn, Chỉ e rằng, trong thời đại này những điều không thật lại được quá nhiều người nhào nặn qua lớp ngôn từ nguỵ trá để đánh lừa ngay chính mình và cả người đọc.

 

Và giữa những ngày mưa mịt mù, tác giả đã tâm sự cùng con búp bê đời rẻ rúng đã bị những thằng người bệnh hoạn, chơi ngông ném trong từng góc tối, ôi những thằng người nguỵ tín, xa rời với tổ tiên:

 

ơi con búp bê đời rẻ rúng ném trong từng góc tối

ngủ qua đêm ác mộng

vòng xoáy tâm thần

trần truồng vòng tay lạ lẫm

cổ thành dày cơn mưa

phủ rêu con đường lát đá tháng chạp

hãy giặt sạch từng mùa gió chướng

gột rửa bệnh hoạng của những thằng người

chơi ngông

như đốm pháo hoa bắn thẳng lên trời

chớp sáng những quyền năng hư ảo

 

Khi đã nhận ra những quyền năng hư ảo, tác giả đã

đặt bàn tay bỏng rát lên bệ thờ âm vật

và cảm nhận

quá khứ phất phơ trên từng bông phượng cúng

ta ôm chiếc bình ngũ sắc

bơi qua dòng nại hạ

hoá vàng tuổi đời cho từng bia mộ

 

Với tập “Như một nỗi đời riêng” của Từ Nguyễn và tập “Bất Ngờ” của tác giả Nguyên Hạnh là những niềm xúc cảm của hai tác giả nữ. Trong bài “Giọt đắng” Từ Nguyễn như cảm nghiệm được sự chơi vơi giữa nếp gấp cuộc đời:

 

Nét gấp khúc của cuộc đời,

Những mệnh số chơi vơi...

Tung tẩy trên bàn tay trêu đùa của Thượng đế

Thôi nhé em

Đừng mắt hoen ngấn lệ

Giọt đắng chưa khô là chưa đến tận cùng!

 

Và trong cuộc đi “Tìm phiên bản” Nguyên Hạnh chợt nhận ra:

 

Tôi và em

Một trực giác tồn tại

Ta thả ký ức trở về

tìm phiên bản

Hồng hoang.

 

Tập “Đi qua cánh rừng” của Hạ Nguyên (Hồ Đăng Thanh Ngọc), dẫn dắt người đọc liên tưởng đến tác phẩm Lâm Đạo (Đường đi trong rừng) của Bùi Giáng, Bùi tiên sinh như muốn nhắc chúng ta rằng, trong khu rừng nghệ thuật không có sẵn một con đường nào cả, mà nhiệm vụ của một người nghệ sỹ phải khai phá cho mình một lối đi. Khi chúng ta lạc lối giữa đại ngàn thăm thẳm, chúng ta phải tự tìm một con đường, cho dù không biết nó sẽ dẫn dắt chúng ta về đâu? Trong  thi ca, mỗi người làm thơ phải chọn con đường cho chính mình, hay nói cách khác mỗi nhà thơ phải sống trong thế giới xúc cảm của riêng mình, rồi sử dụng vốn ngôn từ và tài năng diễn đạt để chia sẽ cảm xúc với người đọc. Có lẽ trong mỗi con người đều có một cánh rừng mà trước sau gì chúng ta phải vượt qua. Và tất cả những cánh rừng trong mỗi cá thế đã hình thành nên một đại ngàn thăm thẳm của xã hội. Chúng ta hãy nhìn Hạ Nguyên đi qua cánh rừng của chính anh:

 

Tôi đi qua cánh rừng bằng bước chân trẻ con

Và nỗi ám ảnh cổ tích cô bé quàng khăn đỏ

 

Đúng vậy, tất cả chúng ta thật nhỏ bé khi đối diện với núi rừng và chỉ có những tâm hồn thơ trẻ mới bước qua được, cũng như muốn đến với đấng toàn năng, không cách nào hơn là chúng ta đồng hóa với chính Người, mà cách đồng hóa nhanh nhất là trở thành con của Người.

Dù không có chiếc khăn quàng đỏ nào và chỉ với chiếc áo rách mỏng manh và đôi giầy bẩn thỉu nhưng cậu bé đã vâng lời mẹ dặn để đem cháo đến cho bà, cho dù cậu bé rất thích những trò chơi của trẻ thơ.

 

Tôi đã không rong chơi với cỏ cây - dẫu tôi thích thế

Tôi đã không hái hoa vờn bướm - dẫu tôi thích thế

Và cũng đã không nằm dưới bóng cây lắng nghe tiếng chim -

dẫu tôi thích thế

 

Ở đây, tác giả như muốn nhắn nhủ đến người đọc một định nghiệp của mỗi cá nhân, cũng chính là quán tính của xã hội đã xô đẩy tâm hồn của tuổi thơ vào những ngã rẻ đen tối. Điều thương tâm đó chính là sản phẩm của nền một giáo dục phi nhân kết hợp cùng sự bùng nổ của hệ thống thông tin và bản năng tham lam của con người đã tạo ra những hậu quả đó, để rồi những đứa trẻ không còn là trẻ thơ ngoan hiền mà Hạ Nguyên đã phần nào cảm nghiệm trong bài “Đi qua cánh rừng”:

 

Tôi bị xé ra từng mảnh và nhai ngấu nghiến bởi cái đói bản năng và sự tham lam tàn ác

Và tôi đã không kịp trở thành đứa trẻ ngoan dẫu tôi tha thiết thế…

 

Vậy đó, cho dù mỗi cá thể đều muốn trở thành người tốt nhưng sống trong cộng đồng đầy rẫy sự tham lam và vô trách nhiệm thì ngay chính cả lòng tốt cũng bị nghi ngờ. Điều này đã được nói đến trong tác phẩm L’engrenage (Guồng máy) của Jean Paul Sarte.

 

Với “Lời của lá”, tác giả Lê Viết Xuân bằng câu chữ chân chất mà có lần nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng đã nhận định: “Người làm thơ vì cái chí, thơ thường ở trên núi cao. Người làm thơ bằng cái tâm, thơ thường ở giữa mọi người. Lê Viết Xuân làm thơ chính vì cái tâm của anh, một cái tâm lành không thể đôn hậu hơn”. Trong bài “Trở về” tác giả như muốn gửi tâm sự cùng người đọc về thói hư danh đang tràn ngập khắp nơi:

Chót vót đỉnh cao danh vọng

Nhìn xuống chân mình, có ngợp không

Núi cao kề bên vực thẳm

Bước lối nào cũng thấy chênh vênh...

Ánh hào quang của hư danh

Đưa ta đến bên bờ ảo vọng

Con cá vàng mất tăm cùng sóng

Lại trở về với túp lều tranh.

 

Tập thơ “Giấc mơ chữ” của tác giả Nguyễn Thiền Nghi, tập “Ta và bóng” của Triệu Nguyên Phong và tập “Truồi” của Ngô Công Tấn góp phần làm phong phú đóa hoa thơ xứ Huế trong năm nay.

 

Ở Huế, trong năm 2009 đã có hơn 10 tập thơ ra mắt bạn đọc, là một con số tuy không lớn nhưng với thơ đó là con số đang nói. Các tập thơ xuất hiện với những hình thức và phong cách đa dạng: cổ điển, lãng mạng, hiện thực phê phán, siêu thực, tân hình thức,... Tác giả của các tập thơ có người là giáo viên, người bác sĩ, người công chức ngành văn hóa, người lao động tự do,... Trong vòm trời xứ Huế, mỗi người làm thơ có một góc nhìn riêng, tuy chất lượng các tập thơ có khác biệt nhưng chung quy mọi tác phẩm đều biểu hiện sự trăn trở của tác giả trước cuộc sống đầy rẫy biến động, bất thường,... điều đó đã nói lên được nguồn mạch thi ca của mảnh đất được mệnh danh là bài thơ đô thị. Ngoài ra, các tạp chí Sông Hương, Văn Hoá Huế, báo Thừa Thiên, các trang mạng, blog,… đã góp phần giới thiệu những tác giả mới đến với người đọc để tiếp nối vào dòng chảy thi ca của quá khứ.

 

Như chúng ta đã biết, hầu hết mọi người đều lớn lên qua lời ru của mẹ, đó chính là âm hưởng để bước đầu cảm nhận thơ. Vậy mà, không ít người lại có cái nhìn lệch lạc về thơ. Xin được nhắc lại: Thơ không thể tách rời đời sống con người và chúng ta không nên góp phần tập thể hoá thơ và biến thơ thành món hàng thời mậu dịch quốc doanh. Đặc biệt, ở vùng đất được mệnh danh là xứ sở thi ca này, công việc tôn vinh thơ là một điều rất cần thiết. Nhưng vấn đề là tôn vinh như thế nào để đừng xúc phạm Thơ./.

                                                                                                           

Huế, 11/2009

Lê Huỳnh Lâm
Số lần đọc: 2478
Ngày đăng: 18.12.2009
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Lê Đạt với những đối thoại về thơ - Trần Hoài Anh
Inrasara trong Hành Trình Cách Tân Thơ Việt - Lê Thị Việt Hà
Mảnh hồn làng trong thơ Tế Hanh - Trần Hoài Anh
Hành trình khám phá mékong : Mô hình du lỊch cho Đồng bằng sông cửu long - Đinh Văn Hạnh
Charter for Compassion: Hiến chương Nhân ái - Nhiều Tác Giả
Quá trình tiếp nhận EDGAR ALLAN POE - Nhìn từ bức tranh dịch thuật - Hoàng Kim Oanh
Tận cùng của Ðức tin: Tôn giáo, Nạn khủng bố và Tương lai của Lẽ phải -Phần 7. - Sam Harris
Tận cùng của Ðức tin: Tôn giáo, Nạn khủng bố và Tương lai của Lẽ phải : Lời bạt - Sam Harris
Tận cùng của Ðức tin: Tôn giáo, Nạn khủng bố và Tương lai của Lẽ phải- Phần 5. - Sam Harris
Tận cùng của Ðức tin: Tôn giáo, Nạn khủng bố và Tương lai của Lẽ phải- Phần 6. - Sam Harris
Cùng một tác giả
Đêm (thơ)
Chết (thơ)
Huế (thơ)
Đông ngàn (tạp văn)
Thu Xưa (tạp văn)
Tùy bút cho H. (tạp văn)
Online (thơ)