Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.333 tác phẩm
2.747 tác giả
443
115.968.380
 
Vườn chanh miệt biển-1
Kiệt Tấn

Cõi người có bao nhiêu

Mà tình sầu vô lượng

Còn chi trong giả tướng

Hay một vết chim bay.

Phạm Thiên Thư

 

 

 

“Nghẹn ngào niềm nhớ nhau

Thương xót ai trăng sầu bên mái lầu…”

 

Trời ơi! Chắc người con gái đã chết. Ánh trăng còn đó mà khung cửa sổ đã tối đen. Tôi thấy, hình như tôi thấy… Mà rồi tôi không thấy gì hết.

 

Mái lầu cong vút, như một cung điện, hay là một gác nguyệt. Nàng ra đó chờ ai? Để cho ánh trăng đậu trên khuôn mặt liêu trai thành hai vầng nguyệt bạch, một trên mái lầu, một dưới mái lầu mà quyến rũ chết được. Sự chờ đợi quá đỗi khiến cho nhan sắc tan thành nỗi đìu hiu quạnh quẽ bụi trăng mỏng hòa tan theo cơn gió lụa cuốn bay đi mất hút. Nàng đã trở về gác nguyệt trong vầng ngọc thỏ từ đó nàng đã bước xuống trần một đêm trăng sáng- thời nào? thuở nào? Nàng là cung phi? Không! Nàng là cô láng giềng của tôi. Tôi còn đi học, nàng còn đi học. Tôi si tình ôm đàn đứng dưới khung cửa sổ nhà nàng mà hát. Tiếng ca nở thành những bông hoa lài thơm phức. Đêm ngầy ngật.

 

“ Thương xót ai trăng sầu bên mái lầu…”

 

Nàng ra đứng ở khung cửa sổ không phải để chờ tôi. Nàng xõa tóc. Tôi si tình. Trăng đậu trên những giọt nhạc tuyệt vọng. Vậy mà tôi thương xót nàng. Vì trăng sầu? Hay vì một mái lầu trơ vơ vút cong trên tóc nàng vọng nguyệt? Hình ảnh diễm kiều. Trời ơi! Chắc nàng đã chết vì quá chờ đợi. Sao nhẫn tâm đành để nàng chờ đợi? Và bây giờ nàng đã chết. Lầu trống trăng mỏi.

 

Dây đàn chợt đứt phựt! Tôi giựt mình tỉnh giấc. Nghe mùi hoa chanh thoang thoảng như hương gót chân của nàng còn để lại.

 

“Đâu dáng huyền thầm mơ lúc tuổi xanh?”…

 

Gió đưa hương chanh chín mùi luồn qua mành lưới đan khít gắn ở cửa sổ. Bên kia cửa sổ, vườn chanh đang khua lá giặt rửa dưới dòng trăng, rì rào suối nguyệt. Lẫn trong hương chanh còn có mùi biển mặn mà từ lòng vịnh dưới thấp ùa lên. Cánh cửa sổ bằng cây tôi quên cài móc đập vào khung cửa - là lúc dây đàn tôi đứt phựt? Cơn mơ “Vọng nguyệt” một lần nữa lại trở về. Ngày nào một giấc mơ, đâu những đêm trăng mờ ai ngóng chờ….

 

Tôi đã mơ giấc mơ đó năm năm về trước - hay lâu hơn nữa không biết chừng. Tôi thả thuyền lá trên dòng phù sa, nhẹ lướt trên khung cửa chiếc nhà sàn. Người con gái môi hồng mặt mũi trắng tinh, chiếc áo lụa đen càng làm nổi bật chiếc cổ thanh tú của loài thiên nga tha thướt về đậu ở ô cửa. Dưới trăng một cành mai vàng rực rỡ chi chít những bông la đà rũ xuống khung cửa nơi nàng xuất hiện. Thuyền nhẹ lượt tới. Và tôi ôm đàn cất tiếng hát: “Đêm qua mơ dáng em đang ôm đàn dạo muôn tiếng tơ. Không gian trầm lắng như âu yếm ru ai trong giấc mơ. Mái tóc nhẹ run, trăng vờn làn sóng. Yêu ai anh nắn cung đàn đầy vơi đôi mắt xa xôi…”

 

Nàng chải tóc có vẻ hờ hững. Tôi hát rất lâu. Thuyền tôi trở đi trở lại. Nàng vẫn chải tóc làm thinh. Bông mai vàng rụng xuống như mưa bấc mà trăng thì sáng vằng vặc. Khi tỉnh dậy tôi còn ngất ngây như say rượu. Và tôi ngã bịnh. Tôi tương tư người con gái trong giấc mơ. Cơn mộng đó đeo đuổi tôi cả tháng trời mới chịu buông thả. Từ ngày ở nhà thương điên ra đến giờ giấc mơ đó lại trở về, cùng với biết bao hoài niệm thương động khác. Như một người sắp lẫn lộ, chuyện gần tôi quên, chuyện xa tôi nhớ. Trong tiềm thức tôi mọc lên một vòng nguyệt bạch, một mái lầu và một người con gái trắng tinh ngồi ở cửa sổ ngóng đợi. Và tôi si tình chất ngất. Si tình ai? Ai đã ra ngồi bên cửa sổ của chiếc nhà sàn đậu trên hàng chân khẳng khiu của loài vạc ăn đêm. Tôi có một trái tim rung động, mà nàng ơi có biết? Chiếc nhà sàn! Phải rồi. Hoa bến đò, người yêu đầu tiên của tôi bên dòng sông Định Tường hiền hậu, hiền hậu như đôi mắt nàng mười lăm tuổi ngờ ngệch. Nhà của Hoa thuộc loại nhà sàn nửa trên bờ nửa dưới nước. Chẻ tre bện sáo cho dầy, ngăn ngang song Mỹ có ngày gặp em. Nhưng Hoa đã đáp lại tình tôi. Còn người con gái trong mơ thì hờ hững, mối tinh si chưa giải tỏa được khiến tôi còn nằm mơ thấy hoài. Thấu chăng Mị Nương?

 

Villefranche-sur-Mer

 

Chiến hạm Mỹ buông neo đậu sừng sững đồ sộ. Gigi lội ra xa về phía đó day lại ngoắc tôi. Cánh rada hình lòng chảo quay tít trên cột cao. Dàn đại pháo nhiều cỡ loe miệng ngó trừng trừng đất liền, họng sung bên kia trông ra biển rộng. Tôi vẫy tay. Ầm! ầm!...Mấy tiếng vụt nổ long trời lỡ đất. Rừng cao su bốc cháy trong trí tôi. Bà Gigi lặn xuống. Mấy tiếng nổ xé lòng vịnh vang dội. Thủy thủ Mỹ đang chào quốc kì trên chiến hạm. Chiếc cờ hoa có sọc phấp phới trên tòa đại sứ đồ sộ bên đại lộ Thống Nhất, nhiều chiếc trực thăng bốc lên, lao chao người đeo. Tôi vỗ trán. Ầm! ầm!....Người đàn bà trồi lên mặt biển. Buổi chào quốc kì của anh khổng lồ có đôi chân bằng đất sét chấm dứt. Một chiếc phản lực từ sân bay trên tàu vút ra phía biển khơi lấp lánh ánh bạc dưới mặt trời ban sáng. Chiếc phi cơ đảo một vòng, cất lên cao rồi bay về phía Saint Tropez.

 

Người con gái nằm phơi đôi vú nõn trên nền đá cục tròn xanh xám trên bãi biển. Vịnh Villefranche nằm giữa Nice và Cap Ferrat. Nước sâu, lòng rộng, khuất gió như vịnh Cam Ranh. Trong thời Đệ Nhị Thế Chiến, vịnh là nơi dưỡng quân và chuẩn bị hành quân cho hạm đội Mỹ. Từ đó quân đội Đồng minh đã kéo xuống đổ bộ ở Sicile, cầm chưn lực lượng Đức, Ý để giải bớt áp lực cho cuộc đổ bộ thực sự khai diễn ở Normandie. Chewing gum, sô-cô-la, thuốc lá, coca cola, bar, gái điếm… ở đâu có lính Mỹ đều như vậy hết. Cam Ranh, Villefranche hay Đà Nẵng cũng vậy, xêm xêm! Những năm sáu mươi, tướng De Gaulle đã nổi xung đuổi hạm đội Mỹ đi chỗ khác chơi. Kinh tế Villefranche suy sụp, dân chúng bất mãn, thanh niên thanh nữ kéo đi chỗ khác làm ăn, Villefranche già nua, hoạt động đánh cá lèo tèo, mùa hè du khách kéo tới bơm sức sống cho vịnh trong hai tháng Bảy và Tám. Những tên thủy thủ xâm mình và gái đĩ không mặc quần lót chỉ còn là một kỉ niệm. “Yankee go home” và Villefranche trở về với dân làng. Còn Cam Ranh thì lọt vào tay ngợm răng đen mã tấu.

 

Năm nay, năm thứ hai liên tiếp tôi trở lại Villefranche nghỉ hè theo lời mời của đôi vợ chồng già: ông Jacques và dì Gigi. Năm ngoái có tôi, vợ và hai con Phương, Thụy. Năm nay chỉ có tôi và Ánh.

 

Jacques và Gigi tuổi độ lục tuần, không có con cái. Hình như đã có một trai đã chết hồi nhỏ, vì lý do gì tôi không rõ, nhưng cũng không dám khêu gợi mối thương tâm. Hai vợ chồng già nua sống trong hiu quạnh, hầu hết tại căn nhà ở Manaco, mùa thu thì ngụ một tháng tại biệt thự ven biển Tây Ban Nha, mùa hè thì đóng đô tại biệt thự “Nikasa” nằm trên dốc cao ngó xuống vịnh Villefranche. Biệt thự gồm một tầng trệt tôi đang chiếm ngụ, giáp ranh với một vườn chanh, đằng cuối vườn có một gốc thông già nghiêng mình ra mé biển. Bên trên là tầng lầu hai vợ chồng ở, có bao lơn tròn rộng sắt uốn vân vi, từ đó ngó xuống nhìn thấy toàn diện cả vịnh và Cap Ferrat. Chiều tà nắng quái  trên cây cối um tùm ở Cap xa xa và nước biển nhiều lớp xanh xậm, xanh ngọc giao tiếp nhau lấp loáng ánh vàng, gây cảm giác xao xuyến bồi hồi, mơ ước vẩn vơ. Một cội bông giấy màu tím quấn quýt quanh cây cột chống bao lơn bò vươn lên cao, phóng ra những nhánh cần câu trĩu nặng bông tím nhụy vàng chùm chùm chi chít, làm nhớ giàn bông giấy nhà tôi hồi ở Hàng Xanh, nơi có bà Lượm Lon thường qua lại.

 

Tòa biệt thự xinh xắn và khu vườn chanh được ngăn cách  với hai ngôi biệt thự giáp ranh bằng hai dãy rào cây tươi, thỉnh thoảng tôi tiếp tay với ông bạn già để cắt xén. Ngôi biệt thự bên trái sơn màu trắng, ngói mới thay còn đỏ tươi, trưa trưa nghe có tiếng trẻ khóc, tiếng chó sủa, và chiều chiều thấp thoáng có dáng người tưới nước sau vườn. Ngôi biệt thự bên phải mảnh khảnh vươn lên chiều cao, sơn màu gạch nung cũ úa, có vẻ hoang phế dù bên trên cửa sổ mở toang, nhưng năm nay không thấy bóng người. Khi bắt thang lên xén rào, tôi ngó thấy bên đó cũng có khu vườn chanh nhưng đìu hiu xơ xác, lá rụng đầy, có cả những trái chanh chín vàng lớn nằm rải rác dưới gốc. Giữa vườn là một thân dừa kiểng vút lên cao, lá xòa ra hình rẻ quạt- hình như tôi đã thấy thân nhà cao và thân dừa xòe lá này ở đâu rồi, hồi còn thơ ấu, hay trong một giấc mộng trẻ con nào đó. Từ lúc rời nhà thương điên tôi thường có những hoài niệm, những ảnh hiện lóe chớp rồi mất hút. Như tiếng kêu giật thốt ở đầu song.

Chiều tàn…

 

“Ngày nào một giấc mơ

Đâu những đêm trăng mờ ai ngóng chờ

Khi ánh trăng thành thơ nhẹ gió đưa

Theo tiếng đàn thuyền mơ tìm bến xưa…”

 

Tôi trở lại vườn chanh đi thơ thẩn. Trăng nghiêng chênh chếch. Chân đạp trên lá khô mà tiếng động đâu mất. Chỉ còn lại ánh sáng xanh xao ngủ trên võng chanh giăng ở đầu ngọn đong đưa. Khung cửa sổ vẫn mở toang như chờ đợi (đợi ai?), im ỉm, không thấy bóng người. Chợt tiếng dương cầm tuôn ra, từng giọt buồn buồn “lá la lá la lá là lá la là…Pour Elise…là là la la…là lala lá…” như năm ngoái (hay kiếp trước?) Nàng đã trở lại, và đánh đàn như năm ngoái, cũng bản đó, thánh thót, trong leo lẻo. Tôi tưới nước ở vườn chanh ngó lên thấy mái tóc bạch kim phất phới ở khung cửa khi tiếng đàn đã đứt, chỉ còn lại tiếng mưa rơi rào rào trên vòm lá chanh dưới cơn mưa từ tay tôi tỏa ra. Nàng ngó ra hướng biển như chờ đợi (đợi ai?). Còn tôi thì ngầy ngật như sắp lên cơn sốt.

 

Tiếng dương cầm giờ đây như mưa xuống thân tôi ướt sũng trong vườn chanh đang trở giấc theo tiếng đàn của nương tử dục gọi... “là là la la, là lá la la”…Tiếng dương cầm dứt bặt đã lâu mà sao vẫn chưa  thấy nàng trở ra khung cửa ngóng biển như năm ngoái? Trăng dần dần xế. Tôi ôm thân dừa leo lên cao, định tới tầm cửa sổ ngóng cổ ngó vào. Càng leo lên, thân dừa càng mọc dài, ngôi biệt thự màu gạch nung cũ úa cũng vươn lên biệt vụt. Trăng mỏi, tay tôi rã rời. Tôi níu lấy tàu dừa thấp nhứt tính đu lên. Tàu dừa tét xuống, tôi rơi vào khoảng không, nhẹ hổng lao chao như hương hoa chanh chín mùi nguyệt bạch, trong bụng còn thấy ngùi thương cho người cung nữ đời kiếp nào đó, bên lầu son điện ngọc, nhìn trăng khuya dạo khúc tỳ bà mà ước mơ ân ái. Trải vách quế gió vàng hiu hắt, mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng…

 

Níu tàu dừa té xuống đất, tôi giật mình tỉnh giấc. Lơ mơ, lười biếng, tôi lăn mình quay lưng ra vườn chanh thiu thỉu ngủ lại. Mái lầu cong vút ngước lên, trăng cựa mình sắp mọc. Tôi sắp mơ lại giấc mơ năm năm về trước. Tôi bàng hoàng ngồi dậy, bước xuống giường rồi sang bếp cạnh bên tìm nước uống. Tôi mở hai cánh cửa lá sách lớn xô ra, trăng ngã xuống nền sỏi dưới chân, tưới lên thân thể tôi thoảng theo cơn gió mát rượi. Mùi chanh chín sực nức đã cùng tôi thức dậy. Lá mướt trò truyện rì rào. Tôi bước xuống nền sỏi lạo xạo, đến ngồi ở bàn ăn ngoài hè kê dưới bao lơn từng trên. Tôi vói tay cầm bao thuốc lá rút ra một điều định châm hút, nhưng thôi không đốt, sợ làm hư mất hương chanh. Ngoài vườn có tiếng ve kêu (hay tiếng vạt sành?) khàn đục. Con ve năm ngoái? Không lẽ, vì ve chỉ sống được có một mùa. Con ve mùa hạ trước đã hoàn tất khế ước của mình với trời đất, với mùa màng đã sinh ra nó. Sống và ca hát, một mùa, hồn nhiên, không tiếc thương, không ray rứt. Trong lúc chúng ta có biết bao nhiêu người bỏ cuộc dù chưa tới hạn kỳ và ân hận trong suốt thời gian đó. Thời gian ba trăm sau mươi lăm ngày. Tôi muốn nghĩ là con ve hạnh phúc. Hạnh phúc ở chỗ nó không biết mình hạnh phúc. Tôi vói tay nắm cổ chai rượu rose de Provence còn bỏ quên trên bàn ăn tu một ngụm, hậu vị lạnh mát ngọt ngọt.

 

Xuyên qua vườn chanh ngó xuống vịnh, những vệt đèn đỏ dài nối đuôi nhau lặng lẽ trôi về Nice, đánh vòng uốn theo vòng cung của Bãi Thiên Thần đang ngủ thiếp bên bờ Địa Trung Hải. Tôi nhớ, không biết nhớ gì, nhớ ai. Một cặp bướm đêm lớn bằng nửa bàn tay vụt xuất hiện, bay xập xòe phát ra tiếng cánh vỗ trên rào cây sát bàn ăn, thả vòi hút mật bông, đoạn cuốn xoắn lại di chuyển sang bông khác. Có phải là giấc mơ của Trang Tử đang dạo chơi, để khuya về nằm ngủ lại mơ thấy mình hóa thành chàng thư sinh ôm đàn mà gãy dưới ánh trăng sáng? Chợt có tiếng đàn vẳng từ phía bên mặt, tiếng đàn dương cầm từng giọt thánh thót, Pour Elise. Tưởng chừng là tiếng nhạc tỏa ra từ máy hát đâu đó. Nhưng tiếng đàn sinh động hơn nhiều, và có câu bất thần dạo lại như chưa ưng ý. Ai đó đang gõ lên phím ngà làm bật nẩy điệu trữ tình dìu dặt. Tôi vói tay tắt ngọn đèn dưới dạ bao lơn và ngồi nghe tiếng dương cầm trong bóng tối. Ngoài kia trăng sáng trên vườn chanh, ve khua điệu ca trầm trầm. Khi bản nhạc dứt, tôi còn ngồi nán lại chờ nghe tiếp. Năm phút, mười phút. Bằn bặt. Cơn mệt đường xa vạn dậm thấm vào người. Tôi đứng dậy vươn vai hít một hơi chanh đầy ứ rồi xô cửa bước vào nhà bỏ lại sau lưng ánh trăng ngã trên nền đá sỏi, những viên đá tròn trắng, xinh nhỏ như những viên kẹo tuổi thơ. Bóng trăng trắng ngà, có cây đa to, có thằng cuội già, ôm một mối mơ…

 

Buổi sáng dậy muộn, chúng tôi đang ngồi uống cà phê ở bàn ăn ngoài hè thì Jacques từ trên bao lơn bước theo những nấc đá xanh đi xuống. Ông bắt tay tôi, chào hết mọi người và xin lỗi vì buổi chiều hôm qua không có mặt khi chúng tôi đến. Tóc ông bạc trắng, hai vai rút lên, lưng hơi gù. Ông nói dì Gigi đã xuống biển từ sớm, ngày nào cũng vậy. Jacques có vẻ hấp tấp, nói mình đi sang Monaco có chút việc rồi kiếu từ, chúc chúng tôi ngày nay chơi vui, và dặn chúng tôi khóa cổng trước khi ra biển. Ông leo trở lên những bậc đá xanh, chập sau tôi nghe thấy tiếng máy xe nổ, bánh xe lăn rào rào trên đá vụn rồi tiếng động cơ từ từ vẳng xa. Mặt trời rực rỡ, báo hiệu một ngày nắng nóng.

 

Chúng tôi xuống bãi quả nhiên thấy dì Gigi đang ngồi bẹp trên lớp đá cục xanh xám tán gẫu với mấy bà bạn. Dì giới thiệu chúng tôi với mọi người. Tôi rủ dì xuống biển, dì nói đã bơi lội xong từ sáng sớm. Sáng nào cũng lội khoảng năm cây số trong vịnh, thành thử người dì không có chút mỡ. Dì nói chuyện thẳng thắn. Không điệu điệu quanh co như mấy bà đầm già khác. Tôi cho biết ông Jacques có xuống chào chúng tôi và đã lái xe đi Monaco có chút việc. Dì nói:

- Việc gì mà việc! Ổng lại qua nhà bên đó sụp màn nằm trong bóng tối để rầu rĩ. Nằm bên này chán lại qua bên kia nằm, hết năm này đến năm nọ.

 

Tôi nghe thấy làm lạ, nhưng không tiện hỏi thêm. Tôi nhào xuống bơi lội bì bõm. Nước tương đối ấm, dù không ấm bằng nước Vũng Tàu, nhưng ấm hơn ở La Baule, bãi biển cát mịnh bên bờ Đại Tây Dương. Lần nào trở lại Côte d’Azur tôi đều liên tưởng tới Diane, Người em xóm học và Lộc anh tôi, giờ đã định cư tại Canada. Con gà quay xé chia cho ba đứa. Diane mút xương, bánh pan bania kẹp cá thu xà lách và nước ngọt uống ở vòi gương sen khi gội xả muối trên người. Một eo biển nào đó mà tôi và Diane đã trầm mình không nhớ rõ, ngót hai mươi năm về trước. Giờ trong ba đứa chỉ có mình tôi trở lại miệt biển này.

 

Thụy mang mặt na kiếng xách chỉa đi săn cá. Phương nằm phơi cá trên khăn lông trải rộng. Tôi lội xong lên ngồi ở mé nước vọc mấy hòn sỏi, lựa những hòn sỏi vân nhiều màu chất thành đống nhỏ. Sóng biển đập vào nửa người tôi rồi rút ra, tiếp theo đợt sóng khác. Ánh ngồi đó tán gẫu với Gigi. Dì lại than thở về tình trạng ông Jacques. Mười mấy năm ông không hề xuống biển. Mười mấy năm nay ông sụp màn xuống trốn nắng, nằm ngó trần nhà mà nhơi đi nhơi lại những chuyện khổ đau cũ rích của mình. Chuyện gì tôi không rõ. Sự khủng hoảng kinh niên của ông Jacques dần dần lây sang Gigi, dì cũng phải uống thuốc an thần từ nhiều năm nay để ngủ và để quên tình trạng lây lất của chồng mình. Dì hay bị những cơn chóng mặt xây xẩm bất chợt vì thuốc an thần. Những giây phút dì xuống biển bơi lội buổi sáng là những giây phút xả hơi duy nhứt để lấy lại nghị lực hầu trở về bên cạnh người chồng buồn thảm. Tôi rùng mình nhớ lại thời kỳ tôi nằm ngó trần nhà ở đường Pyrénées lúc thất nghiệp. Tôi nhặt hòn đá xanh lớn ném ùm xuống biển rồi phóng người theo, lặn trốn những ảnh hiện nhức nhối.

 

Buổi chiều Jacques mời chúng tôi lên bao lơn uống rượu khai vị nói chuyện chơi. Jacques có vẻ tươi tỉnh, niềm nở. lịch sự. Đàn bà con nít uống nước cam, Jacques uống martini, còn tôi cầm ly pastis đục  ngầu mùi anis của vùng Midi mà trong lòng ham sống háo hức. Tôi nhìn sang Jacques tò mò - sống ở vùng này mà buồn thảm được sao? - rồi ngó xuống vịnh dàn trải bên dưới. Sau một ngày nắng chói, hơi nước buổi chiều bốc lên mờ mờ như sương mù. Tôi đưa mắt sang ô cửa từ đó phát ra tiếng dương cầm thánh thót đêm qua, thấy thấp thoáng một mái tóc bạch kim, hình như là…

 

Kiệt này! Bạn có muốn lấy thêm đá không?

Tiếng Jacques hỏi làm tôi giật mình. Ông gọi tôi lúc chuyện trò là “mon cher ami” hoặc “mon vieux”. Tôi đưa ly hứng cục nước đá vuông từ chiếc muỗng lớn trong tay ông bạn già. Jacques nói:

 

Tôi hay nằm ngửa trong bóng tối vì khi ngồi ngó ra nắng một hồi tôi hay bị chóa lòa nổ đom đóm, lỗ tai lùng bùng như sắp ngất xỉu. Nhưng đó là chuyện riêng của tôi, bạn chớ khá bận tâm mà mất vui trong lúc nghỉ hè. Bạn và Anne (Ánh) rất xứng đáng được ngơi nghỉ. Tôi nói thiệt, bạn chớ bận tâm.

 

Tôi nâng ly

Cám ơn bạn… (Tôi dừng lại trầm ngâm), bạn có bao giờ thử ngồi tham thiền chưa? Tôi nghe nói tham thiền có thể trị được chứng chóng mặt chờ định tâm.

- Ờ tôi cũng nghe nói qua loa về hiệu quả của tham thiền và triết lý thâm sâu của thiền mà chưa có dịp tìm hiểu. Nhưng tôi e với đầu óc hình thành kiểu Tây phương, tôi khó lòng mà thấu đáo được cái tinh túy của Đông phương. Bạn có  thể giải thích sơ qua Thiền là gì cho tôi nghề được không?

 

Tôi mỉm cười hớp một ngụm pastis thơm tho. Tôi chỉ tay  về phía vịnh bên dưới hỏi Jacques có nhìn thấy gì không. Ông bạn già ngó một hồi:

- Tôi không thấy gì lạ.

- Bạn hãy ngó kĩ lại coi.

Jacques nhìn theo hướng ngón tay tôi chỉ

- À à… tôi nhìn thấy một vừng bông đỏ trên Cap Ferrat.

- Tôi cũng thấy như bạn vậy. Tôi đâu có giỏi gì hơn bạn.

Jacques ngần ngừ:

- Người Á Đông các bạn hay có lối nói úp mở thiệt khó hiểu.

- Bạn tưởng nó khó hiểu thành ra không hiểu được, chớ thật ra có gì đâu để mà hiểu. Tất cả đều sờ sờ ra đó, chỉ cần bạn hãy chú ý. Nếu bạn chú ý, bạn sẽ thấy và cảm nhận được.

Tôi xèo bàn tay khoa bao quát lên vươn chanh dưới bao lơn:

- Bạn có ngửi thấy mùi gì không?

Ông bạn  già hỉnh hỉnh mũi:

- Tôi ngửi thấy mùi chanh.

- Đó! Bạn thấy tôi có giấu bạn gì đâu mà lại hỏi tôi Thiền là gì?

Tôi mượn lời nói của một thiền sư khi đức vua đến hỏi sư “Thiền là gì?” và sư dắt vua đi dạo một vườn cam hoa đang nở rộ. Jacques mỉm cười:

- Người Á Châu các bạn thật bí hiểm!

- Ấy! bạn lại muốn hiểu (Tôi cười xòa). Ngày mai tôi sẽ cho bạn mượn quyển sách tôi có đem theo tựa đề “Con Đường Đoạn Luyến” Trong tinh thần Phật Giáo. Bạn nên đọc chơi vậy thôi chớ đừng cố gắng hiểu nếu bạn không hiểu. Vì tất cả đều có sẵn ở bạn, chẳng qua tại bạn không để ý nên không thấy đó thôi.

 

Chia tay nhau, chúng tôi trở xuống nhà dưới. Ánh làm cơm xong thì trời đã chạng vạng. Phương, Thụy dọn ra bàn ăn ngoài hè, tôi bật đèn, loài côn trùng có cánh bu tới. Mấy con thằn lằn cũng bò ra khỏi chỗ ẩn núp và đeo dưới dạ bao lơn rình mồi. Có cả một con cắc kè nhỏ có đốm nâu, xám, xanh, e dè đeo ở xa xa. Từ ngày qua Pháp tới giờ, tôi mới được thấy thằn lằn. Trông tụi nó thật ngờ nghệch và hiền hậu. Vậy mà tụi nó có bà con xa gần với loài khủng long thời khuyết sử dài cả hai ba chục thước mới kì lạ chớ!

 

Ăn uống dọn dẹp xong. Ánh và hai đứa nhỏ lui về phòng đọc sách. Mình tôi ngồi lại ngoài hè hóng mát và nghĩ ngợi vẩn vơ. Tôi lại thấy lòng mình bận bịu vì Jacques và Gigi- có cái gì không ổn sao đó, một nguồn cội thầm kín u uẩn sau nỗi buồn thảm của đôi vợ chồng già mà tôi chưa biết được. Con bướm Trang Tử lại xập xòe xuất hiện, nhưng chỉ có một mình. Phấn bướm bay ra làm tôi ho sặc. Tôi vói tay tắt ngọn đèn cho bướm bay đi nơi khác. Ngồi lại một mình trong bóng tối ngó ra vườn trăng đang rải bụi sáng xuống các ngọn chanh, tôi có ý chờ tiếng dương cầm tỏa ra từ khung cửa khuất tối bên kia rào dậu. Nhưng chỉ có những cơn gió hắt hiu luồn tay chải gỡ lào xào giữa tóc chanh rối lá và những cơn chớp xa xa lóe lại từ Cap Ferrat kèm theo giọng gầm gừ vẳng nhỏ. Từng cụm mây đen mỏng vội vàng lướt qua trăng khiến cho vườn chanh chợt tối chợt sáng chập chờn.

 

Tôi mở băng nhạc Việt vặn nhỏ để bầu bạn với mình cho bớt lẻ loi. Một bài, hai bài rồi một nhịp, tango chợt đánh lên dạo nhạc, người nữ ca sĩ  cất tiếng hát bài Mưa rơi của Ưng Lang - hình như Ưng Lang chỉ viết mỗi một bài nhạc này… “Mưa rơi! Đìu hiu dưới trời, đêm dài vắng ai, thương nhớ ai nào nguôi!..” dứt tiếng hát, đàn phong cầm dạo lại đoạn đầu rồi tiếp theo là đàn măng-đô-lin run khua ròn rã. Tim tôi chợt xúc động mãnh liệt, nước mắt tôi ứa ra. Trời ơi! Tiếng đàn thơ dại của tôi đây mà! Tôi mười một tuổi, tập đánh Măng-đô-lin, đêm tối tôi ra ngồi trên bực của sổ của căn gác lót ván và run miếng vảy đồi mồi trê-ma-lô lẳng tẳng trên dây đờn sợi kép. Bên dưới, nhà cô láng giềng cách đó một căn đóng cửa im ỉm. Tay đàn tôi vụng về mà lòng tôi thuở đó ôi thành thật xiết bao! Thành thật như ánh trăng trần truồng, múm mím vụng dại nằm ngây thơ trên mái ngói nâu đỏ ấm áp khít bên cửa sổ chỗ tôi ngồi. Nước mắt tôi lăn ròng ròng xuống má.

 

Mưa rơi! Chiều nay vắng người

Bên thềm lá rơi, mơ bóng ngàn khơi…

 

Ngón đàn khờ khạo của tôi chợt nhận ra thì cũng chợt tan tành như chén ngọc gọt từ trái tim của chàng đa tình bạc phước. Cửa nhà hàng vẫn đóng im ỉm. Ánh trăng còn đó mà con tim ấu thời tự lúc nào đã vỗ cánh và bay đi biệt tích. Có phải tiếng đàn măng- đô-lin vụng khờ mười một tuổi thuở đó đã hòa tan vào tiềm thức tôi thành giấc mơ Vọng Nguyệt bây giờ.

Trời chớp, sét nổ.

 

Mưa bắt đầu lắc rắc rơi từng chấm mịn nhỏ xuống vườn chanh. Ngón đàn khờ khạo của tôi đã mất thiệt rồi! Tiếng dương cầm cũng im bằn bặt bên kia rào dậu. Đêm nay chỉ còn có mưa cường toan xoi lủng trí nhớ dột lên phím ngà hiu quạnh. Và có tôi lẻ loi ngồi khóc ngậm nghùi tuổi ấu thơ của mình bên vườn chanh miệt biển.

 

Mưa rơi!

Màn đêm xuống rồi.

Bên thềm lá rơi…

 

Buổi chiều mát mẻ. Một buổi chiều ở biển, sau khi lặn hụp cả ngày trong nước mặn, nắng rát, da căng đỏ. Buổi chiều hiu hiu mát như muốn lãng quên suốt ngày nắng nóng. Như tôi muốn lãng quên ngón đờn khờ dại sực bừng nhớ dưới cơn mưa  lắc rắc  trên vườn chanh đêm qua. Ngồi ở bàn ăn đón cơn gió muộn, tôi rút điếu thuốc định châm hút. Không có bật  lửa, tôi đặt điếu thuốc trên bàn, bước vào bếp tìm hộp diêm quẹt. Có tiếng ai tắm dưới  vòi sen đối diện bếp, còn Ánh thì đang rửa rau và cà-tô-mát ở chậu nước. Tôi bẹo má Ánh một cái. Ánh rụt cổ mỉm cười, tôi cầm hộp diêm bước ra ngoài, trở lại bàn ngồi lại ở ghế. Cơn gió chiều đã thổi điếu thuốc lăn rớt xuống nền sỏi vụn. Tôi cúi xuống lượm, phát hiện một con bướm đen to lớn nằm cạnh gốc cây ở chân rào. Như nằm ngủ - nhưng có lẽ đã chết. Chỉ còn lại một cánh bướm lẻ loi xập xòe đêm trước. Không chừng bướm đêm đã hít nhằm thuốc xịt muỗi, và đang hóa kiếp. Nhưng biết đâu chừng bướm đang mơ thấy mình hóa thành Trang Sinh chống gậy tre đi dạo chơi các nước chư hầu? Hay bướm đang mơ thấy mình là gã đàn ông đang ngồi hút thuốc ở ghế và gã này lại đang ao ước mình hóa thành con Bướm Trang Sinh để cùng con bướm lẻ loi kia xập xòe chấp cánh đi hút mật đêm nay. Tôi nhả một hơi thuốc dày xanh vân cuộn uốn éo, gió lùa ạt ra ngọn chanh ngoài vườn. Nhớ nhà châm điều thuốc, khói huyền bay lên cây. Trên đường về nhớ đầy…

 

Monte-Carlo

 

Jacques hướng dẫn chúng tôi đi quanh co trong thành phố rồi vòng xa ra mé biển ngoạn cảnh. Thành phố đã được tu bổ và xây cất thêm, với một nhà đánh bạc tân tiến thứ hai kiểu Las Vegas, khác xa với cái thời Người em Xóm Học, lúc tôi và Lộc còn là sinh viên ở trọ Institut Franco-Vietnamien (số 269 đường Saint Jacques, Paris) dắt nhau xuống đây chụp hình , để Diane một mình ở lại Nice.

 

Nàng đã thừa cơ hy sinh con gà quay của hai ông Tây vàng để mua một khúc vải bán sôn may cho mình một cái áo kiểu sơn nữ Phà Ca đi dự lễ rước cộ hoa. Tôi hụt ăn gà quay bèn gây lộn kịch liệt với người sơn nữ mà tôi từng cắn vú nàng bầm tím một trưa trong rừng vắng để thề nguyện “yêu em suốt đời” ở Chantilly.

 

Hết rồi! Chẳng còn Lộc, chẳng còn áo sọc to bảng vắt vai, chẳng còn sơn nữ Phà Ca, chẳng còn ca sĩ mầm non Ngọc Ễnh “em ơi! Kót đi em! kót đi em!...”, chẳng còn dấu bầm bên vú trái, cũng chẳng còn lời nguyện yêu em suốt đời. Chỉ còn lại gà quay (rất nhiều gà quay!) và còn lại tôi cộng thêm một số tuổi trời (rất nhiều tuổi trời!) Không biết Diane có biết tôi vẫn còn sống sót  sau ba chục năm binh lửa chó chết ở Việt Nam. Còn Diane, ngoại trừ trường hợp bất trắc, tôi tin rằng nàng hãy còn sống đâu đó trên đất Pháp. Vì chẳng lẽ “nhưng không chết người trai chiến sĩ mà chết người…sơn nữ Phà Ca”. Và tôi cũng hy vọng rằng nàng vẫn còn giữ trên nụ cười sơn cước của mình chiếc răng gãy tội nghiệp của Fantine ngày xưa. Nếu không anh biết làm cách nào để nhận ra em, hở Diane? Diane Giaconmini!.

 

Buổi dạo phố chấm dứt, Jacques đề nghị đưa chúng tôi đi ăn trưa ở Biot, một nơi chuyên nặn những vật dụng và những đồ trang trí mỹ thuật bằng thủy tinh. Ánh tinh thoái thác, nhưng Gigi làm hiệu “chớp đèn” kín đáo nên tôi gật đầu ô-kê liền. Không mấy khi Jacques tự nguyện đi ra ngoài và rủ rê người khác ăn nhà hàng. Bữa nay Jacques hứng chí, một triệu chứng tâm lý tốt. Tự nhiên tôi nghĩ Gigi và Ánh là hai thiện nữ có dồi dào tâm Phật, còn tôi và Jacques là hai cái nợ đời - mỗi người một cách. Vào nhà hàng, Jacques chỉ gọi một món dăm-bông giản dị, nhưng cứ giục tôi và Ánh gọi thức ăn thả giàn. Tôi thì khoái uống hơn ăn. Uống vào có hứng mới có nhiều chuyện ba láp và pha trò giỡn mặt cho… dễ làm việc. Thấy đời sống  vui thú và dễ ợt. Phần nhiều đời sống trở nên rắc rối vì ta nghĩ nó rắc rối. Với thú vật, mỗi lần ăn là mỗi lần hạnh phúc, con thì cục tác, con thì ủn ỉn, con thì líu lo, con thì ngoắc đuôi… Còn tôi - và rất nhiều người - lắm khi có cảm tưởng phải cố nuốt để mà sống, dù là ngồi trước những món ngon vật lạ. Ăn đứng đầu hàng từ khoái. Ăn không thấy khoái là đời hết vui!

 

Ăn xong đi lanh quanh ngắm đồ thủy tinh chưng trong tiệm hoặc bày bán hai bên lề đường. Món nào cũng làm bằng tay, đủ loại màu sắc, xanh biếc, vàng tươi, đỏ cẩm chướng, lục non, thếp vàng rực rỡ, đẹp tuyệt. Vật đẹp, tôi thích ngắm nhìn chớ  không thích chiếm hữu. Tài vật, kỉ niệm và kinh nghiệm tôi chỉ muốn quăng bớt mà nhiều khi còn không được! Ôm một hồi nó lôi mình chìm ngấm. Sau đó Jacques lại hướng dẫn chúng tôi đi thăm một nơi làm nước hoa và xà bông thơm. Tôi mua một con sóc búp bê lớn bằng ngón tay cái, lông màu nâu óng mượt, đuôi cong lên xèo ra sờ thiệt êm tay. Sau đó, Jacques lại hướng dẫn chúng tôi thăm Saint Paul de Vence. Tôi thích nơi này nhất. Một ngôi làng nhỏ mọc trên đồi, nhà cửa xưa cũ được tu bổ lại rất mỹ thuật. Không lấy làm lạ, vì lẽ rất nhiều họa sĩ trứ danh hoăc vô danh đã cư ngụ và đang cư ngụ ở đây. Dài dài phòng tranh, tủ kiếng, kệ hàng chưng bày tượng, lọ, đồ gốm, nến sáp, lụa mềm tô vẽ mỹ thuật. Đường mòn nhỏ hẹp lót đá cục vuông vức chỉ vừa hai người đi bò ngang dọc quanh co khắp làng. Hương thơm thoang thoảng trùm lên ngôi làng nhỏ, các cô bán hàng xinh xắn, ăn mặc thanh tú mỹ miều. Tôi mua một cái tô đất nung tráng men có bốn cẳng, phía trước tháp một cái đầu bò có cặp sừng cong không đồng thanh đồng thủ và đôi mắt lé. Ở đầu hẻm làng rì rào một phông-tên nước hình mặt trăng, giữa hồ khỏa thân một bình tròn lớn kiểu La Mã tháp nhiều vòi, nước tuôn róc rách, có thể ném xu vào hồ mà ao ước một vài điều.

 

Mỏi chân, chúng tôi chui vào một quán nước cất trên dốc cao xòe ra thung lũng. Trên trần quán, đà cây lớn xù xì tẩm thuốc màu nâu đen nứt nẻ bắt chéo nhau, từ đó thông xuống những nồi đất treo trong rổ mây, bông trộn lẫn màu vàng hường đỏ tươi thắm tràn ra mép nồi rũ xuống cùng những lá xanh láng mướt khỏe mạnh ham sống. Chúng tôi ngồi uống nước thêm chỗ quán phình ra, ngó xuống một thung lũng tươi mát lá xanh rậm rạp bên dưới, dợn uốn lên xa xa giao tiếp mạn đồi đất đỏ sâm sẩm đặc biệt vùng Provence. Vườn nho mọc lên chi chít trên dốc đồi, cống hiến mỗi năm loại rượu cho màu hồng đặc biệt, rosé de Provence, uống lạnh vừa với thức ăn Việt càng làm tăng thêm khẩu vị. Nắng rạng rỡ trùm lên thung lũng hơ nóng lưng đồi, tưới ấm những gốc nho, và rosé ngon nhiều hay ít là tùy ở phẩm chất của nắng – dân nhậu còn chờ gì nữa mà không lạy tạ mặt trời?

Những chàng nhạc sĩ ẩn núp dưới thung lũng, một chàng, mười chàng, một trăm, một ngàn, mười ngàn nhạc sĩ tấu lên rền rền hoan lạc trong nắng vàng tươi tốt. Một mùa. Chỉ một mùa. Rồi tất cả những chàng nghệ sĩ yêu dấu của chúng ta đều giã từ cuộc đời. Để rồi năm sau một thế hệ nhạc sĩ khác lại trở về thung lũng mà so dây nắn phím. Nhạc sĩ ve ve. Những chàng ve ve. Không phải ve sầu. Mà là những con ve hạnh phúc.

 

...hãy nằm im

và đừng hỏi

tại sao?

đừng hỏi tại sao con ve ca hát và con kiến tha mồi

vì giả sử tất cả những con ve đều im tiếng tha mồi

và tất cả những con kiến vẫn không chịu ca hát?

 

Bài thơ đó, tôi đã viết tặng Diane, những ngày xa xưa bơi lội trong nước biển xanh mặn màu ngọc bích và tắm nắng trên Bãi Thiên Thần ở Nice.  Le Vieux Nice! Và chúng tôi làm tình trong bóng hoàng hôn chập choạng, bên ngoài cửa sổ mở toang bồi hồi vọng lại :

 

lời tây ban cầm tự mình bên khung cửa sổ khuất

đôi môi mặn rên khẽ

mê sảng gọi tình

bừng bừng sứa lửa

trong đêm...

 

Diane đã dắt tôi đi tắm biển nhiều nơi khác lạ dọc theo Côte d’Azur. Ở một nơi hình như có nước trong leo lẻo, mát rượi, bờ cát sụp sâu tôi bị hụt chấn uống nước mặn chới với. Một nơi hình như có núi xanh um bên phải hay bên trái gì đó, tôi không nhớ rõ, và từng chập vang vọng một tiếng động rần rật lạ kỳ, tôi cố gắng nhớ mà nhớ không ra. Có lẽ vì tôi không để ý. Thuở đó tôi chỉ bị thu hút bởi có mỗi một mình Diane. Và thân thể mỹ miều của nàng, và hương vị muối mặn trên đỉnh vú, sau vành tai, trong hồ rún. Và mặt trời nóng rát. Và tôi mê mẩn dục tình.

 

...hãy nằm im

và đừng hỏi

tại sao?

đừng hỏi tại sao những con ruồi say nắng

rụng cánh

nằm chết

trên bàn tay ấm áp của mùa hè...

Ôi! biết bao giờ! Phải, Biết bao giờ? Đó là bài thơ mà tôi viết tặng Người em Xóm Học.

 

Villefranche. Sau khi bơi lội rã rời, tôi lên bãi đá nằm phơi nắng. Nước mặn và lửa trời riu riu một hồi khiến tôi khát nước. Tôi cầm tiền lẻ chống hai tay nhẩy lên lề đường cao hơn bờ biển độ chừng một thước và đi tới một quán nhỏ làm cơ mua lon bia, hộp súc miệng. Đứng trước tôi là một cô gái tóc uốn màu nâu vàng óng ánh xòa xuống tới cổ, áo tắm nho nhỏ xinh xinh vân vi lá xanh trộn lẫn bông hường màu sắc nghịch chói, suối lưng mủm mỉm hủng khuyết một dòng sâu ở giữa rồi dợn lên đồi mông mới lớn bầu bĩnh tươi chắc, hai cánh tay tròn lẳng buông thỏng dịu dàng như đón đợi, lông tơ vàng óng mơn mởn mướt mịn còn đọng bọt muối trắng khô lấm tấm – ôi! Nếu đặt đầu lưỡi lên đó mà... nếm thử  thương đau! Em tôi mua một cái pan bania – loại xăng-uých bánh mì tròn kẹp xà lách, tô mát, ô-liu, trứng xắt và cá thu – đoạn em tôi tung tăng băng qua bên kia đường, em tôi dựa vào vách tường sơn vôi vàng sẫm của một ngôi chòi nhỏ, em tôi hớn hở cắn vào cái xăng-uých rồi thủng thẳng nhâm nhi mà vu vơ ngó trời cao ửng biếc trong đôi hồ ngọc biếc...Em tôi ưa đứng nhìn trời xanh xanh, mang theo đôi mắt buồn vương giấc mơ...

 

Cạnh bên chòi, hai đứa nhỏ nghịch ngợm đang tắm nước ngọt tỏa ra từ vòi tắm công cộng và cào cấu tóc nhau trửng giỡn. Giọng cười cẩm thạch mát mẻ thanh khiết va chạm nhau bất ngờ bể thành muôn ngàn mảnh vụn ròn rã ngây thơ lấp lánh. Em tôi...người con gái tóc nâu vàng óng, bánh mì tròn kẹp cá thu, vòi nước công cộng... quen quá, như thể… trời trong xanh nắng nóng rát… phải chăng? Quen quá... áo tắm hai mảnh bông vẽ vân vi...sầm sập sầm sập... em tôi nhâm nhi...sầm sập sầm sập... em tôi ngó lén rồi cúi mắt xuống có lẽ thấy tôi nhìn kỳ dị... sầm sập sầm sập… thôi! Đúng rồi!... em mỉm cười, chiếc răng gẫy ở khóe môi… sầm sập sầm sập… tiếng động rần rật kỳ lạ... chuyến xe lửa... đúng rồi! nước trong leo lẻo mát rượi, bờ cát sụp hẫm...sầm sập sầm sập... chuyến xe lửa, đúng rồi! chuyến xe lửa chậm chạp nối liền Cannes và Menton... sầm sập sầm sập… chuyến xe lửa băng qua bờ biển này rà thắng chậm lại rồi xịt ngừng ở trạm Villefranche-sur-Mer, Diane nắm lấy tay tôi nói đã tới, tôi xốc túi vải lên vai theo nàng bước xuống xe lửa tiến ra cổng, rời nhà ga rồi lửng thửng thả bộ ra bờ biển nước trong leo lẻo nơi nầy đây, bên kia là núi đá vươn lên bày cây cỏ xanh um trên Cap Ferrat trong trí tôi bữa trước không nhớ rõ bên mặt hay bên trái, bây giờ đã nhớ ra... sầm sập sầm sập… chuyến xe lửa đang rà thắng chậm lại rít kêu trên đường sắt khi đoàn xe lượn qua ven biển này và chuẩn bị ngừng lại trạm phía trước.

 

Em của tôi... Diane của tôi vẫn đứng tựa vách tường vôi nhâm nhi cái bánh pan-bania chợt ngước mắt lên dốc cao ngó chuyến xe lửa đang chậm chạp vặn mình...sầm sập sầm sập...bám theo triền núi Petite Corniche. Diane của tôi ngước đôi hồ xanh phản dọi nền trời biêng biếc vu vơ đắm đuối theo ngàn áng mây, bao đêm thầm đếm trên trời đầy sao sáng...

Em ngó tôi mỉm cười, nụ cười không có chiếc răng gẫy tội nghiệp của Fantine! Diana vụt chớp cánh vù bay qua phía bên kia núi, chỉ còn lại mình tôi đứng bàng hoàng ngơ ngẩn ngó theo.

 

Thuyền tình lung linh trong khói sương lam

ngày về xa quá

người ơi! …

 

Ánh nói từ ngày xuống đây nàng chỉ biết có mỗi biệt thự Nikasa và vịnh Villefranche. Nàng vòi vĩnh tôi dắt nàng đi dạo trong thành phố Nice cho biết. Bắt đầu, chúng tôi từ bến tàu thả dọc theo bờ biển nhấp nhô đá tảng tiến ra bãi.

 

Rời Bãi Thiên Thần băng qua đại lộ và chợ Hoa, chúng tôi đi vào Vieux Nice. Nhà cửa vẫn xiêu vẹo như xưa nhưng được thu vén gọn gàng hơn và sơn vôi nhiều màu xanh lục, nâu đỏ, vàng sẩm chồng lên những lớp khói ám lâu năm. Gió mặn từ mạn biển thốc lên chạy lòng vòng trong những hẻm quanh co hẹp sát lùng bùng. Tôi ngước lên cao cố gắng nhận ra khung cửa sổ quen thuộc năm nào đã mở ra để bóng hoàng hôn chập choạng tò mò bước vào ngó tôi và Diane tay chưn rối beng mê ngất. Một cửa sổ, hai cửa sổ ngờ ngợ, năm cửa sổ, mười cửa sổ lạ hoắc. Khăn tắm, nắp bàn, quần áo, đăng ten, đồ lót lẳng lơ thân mật, vải vóc sặc sỡ giăng mắc trên các giây phơi phất phơ vẫy gọi. Vẫn giò buộc trong túi lưới, vẫn dăm bông hấp khói, vẫn xúc xích treo buông lỏng thỏng, vẫn ô liu xanh xám đen trắng nhồi ớt đỏ đủ loại, vẫn mì sợi dẹp cuốn thành từng vắt, vẫn mì xoắn đủ màu bày trong những hộc nhôm mời mọc, vẫn bông bí nhồi thịt vàng lườm trộn lẫn mùi dầu ô liu chiên khét sực nức.

 

Nhưng đâu rồi chiếc lò nướng gà quay sơn đen dày long lở có sợi sên sắt mắc trên trái khế dẹp bằng thép lôi những con gà giò hấp dẫn lăn tròn quanh những ống lửa hực nóng, da vàng nức, mỡ tươm ra bốc cháy mù mịt, thơm ngậy? Tôi, Lộc và Diane đứng hỉnh mũi ngó thèm, trên tay còn cầm khúc bánh mì không có xịt chút xì dầu đang gặm dang dở... Hãy nằm im, và lắng nghe những vũng nước xanh lơ xôn xao trong đầu! Hãy nằm im, và lắng nghe đêm rì rào mãi không thôi… Diane sửa lại bằng vải áo sọc tuột trên bờ vai bóng lưởng tròn trĩnh ngó tôi mỉm cười, nụ cười tội nghiệp. Lộc nắm tay lôi kéo, thúc giục “ Thôi đi chớ! Bộ đứng đây hoài sao?” Nhưng Fantine ơi! Cho dù đang cử động trong bốn bề thời gian đặc cứng, cũng sẽ dừng lại một bước và nói thầm đó là mùa hè! Có biết không? Có biết không đó là mùa hè,  hãy nằm im và đừng hỏi tại sao?Fantine! Cái quán ăn đó tên gì? Cái quán mà trên cửa sổ mình ngó xuống nó nằm phía bên kia đường, xéo xéo về phía bên phải (hay bên trái?). Là “ Hà Nội” ? hay “ Sài Gòn”, hoặc “ Le Tonkin” ? Cái quán mà mỗi bận ở biển đi về ngang, em thường kéo anh chậm bước lại, để ngó cái thực đơn dán sau mặt kiếng trong suốt và ao ước món sường heo ram mặn, hoặc món gà sào hạnh nhơn với một chai rosé de Provence ngâm lạnh, miam!miam! Anh chắc lưỡi, nắm tay em kéo đi, em còn nắm nuối trì ghịt hãy dừng lại một bước và nói thầm đó là mùa hè! Có biết không? Hãy nằm im và lắng nghe lời tây ban cầm tự tình bên khung cửa sổ khuất, loài hóa thạch sao bám riết hoài ghềnh đá trơn? Và chiếc khăn choàng bỏ quên trên bãi muộn, không bao giờ tìm thấy nữa!

 

Chim bay về núi tối rồi, không nơi chim đậu không mồi chim ăn. Tôi một mình gọi nhỏ : “Chim ơi biết đâu tìm?”

 

Boong… boong... boong... boong... boong! Ngôi giáo đường trong tường thành cũ bỗng gióng lên năm tiếng vang rền. “Nếu bước chân ngà có mỏi”. Và bước chân ngà đã mỏi. Ánh kéo tôi ngồi xuống bờ cẩm thạch trắng của hồ nước tròn trước nhà thờ. Vòi nước giữa hồ tuôn rỉ rả từ tốn. Nàng vốc nước xoa lên cổ và hai cánh tay tròn lẳn. Đừng!  Đừng rửa lông mày chết cá áo anh! Tôi cúi người bụm nước trong hai bàn tay hốt sự mát mẻ úp lên mặt. Người clochard ngồi xổm trước nhà thờ đứng dậy chếnh choáng bước tới xin tiền, nụ cười xiêu vẹo. Tôi cho một đồng rồi dắt Ánh rời Vieux Nice.

 

Tuy chân đã rã rời, hai đứa ráng lết tới vườn cây Albert 1 er ngó ra Bãi Thiên Thần. Ngồi trên ghế cây thở dốc một hồi cho đỡ mệt, lấy lại sinh khí.

 

Tôi luồn tay mân mê vòng eo nàng yên lặng. Nàng cũng nín thinh, Vòm lá nhãn tỏa rộng trên đầu la đà rì rào không ngớt theo cơn gió xô lại từ bên kia Bãi Thiên Thần... hãy nằm im và lắng nghe đêm rì rào mãi không thôi, lời tây ban cầm tự tình bên khung cửa khuất... tôi cúi xuống hôn Diane, những lông tơ xoắn tít như lông cừu óng ánh. Hôn em hôn mái tóc vàng, miệng thơm chợt nhớ đêm tàn ngày xưa...

 

Từ phía sau lùm bông ngãi vàng hực chợt một một mái tóc nâu vàng óng ánh xuất hiện. Người con gái từ từ đi vào công viên, trên tay cầm trái táo xanh. Em tôi bước vào vườn cây lững thững đi vòng quanh chòi nhạc rồi hững hờ tiến về phía tôi và Ánh  đang ngồi ôm nhau yên lặng. Tới trước mặt,tôi bỗng em vụt khoan bước thật chậm ( tưởng chừng như dừng lại), em liếc ngó tôi có vẻ sững sờ (hay tôi mường tượng em sững sờ?), một giây, hai giây, ba giây ( hay một thiên thu trọn?), đoạn em cúi mắt xuống và tiếp tục đi vòng qua phía bên kia chòi nhạc, nơi từ  đó khi nãy em xuất hiện. Em tôi cúi xuống đưa bàn tay ngà phủi lên những thanh gỗ hình chữ nhựt sơn xanh bóng lót trên ghế xếp. Em khoan thai ngồi xuống nhu mì, em đưa răng ngọc cắn vào trái táo xanh rồi ngửng đôi hồ ngọc biếc mà ngó lên trời cao vu vơ đắm đuối...

 

Tình cờ  như núi gặp mây

như sương đậu cánh hoa gầy tiêu dao

tỉnh ra thì giấc chiêm bao

chuyện mười năm cũ lại nao nao lòng!

 

Biệt thự Nikasa

Đứng ngoài bao lơn, Jacques vỗ vai tôi :

- Tôi đã đọc vài chương trong Con Đườn Đoạn Luyến bạn cho tôi mượn. Lối lý luận kiểu Á Đông của các bạn thật lạ kỳ, tôi không thể tiếp nhận được hết. Tuy nhiên, có một câu thật ngắn nhưng đã đánh thật mạnh vào trí tôi, đó là “ khi già đi, ta phải chấp nhận sự mất mát”. Từ lâu, tôi vẫn chống cự sự mất mát, chống cự một cách tuyệt vọng trộn lẫn sự sợ hãi.

Tôi mỉm cười :

- Thay vì sợ hãi, lẽ ra bạn nên vui mừng vì được mất mát, có thể bạn đang bắt gặp lại mình thời nguyên thủy, như người ta tìm thấy lại chiếc lọ quý sau khi đã cạy gỡ lớp vôi cáu bẩn đóng xung quanh.

- Bạn nói nghe dễ, nhưng đối với một người đã quen thành công như tôi thì quả thiệt là một chiến đấu cam go với chính mình. Hồi đó, hồi còn trẻ, hồi còn hăng say hoạt động, bất cứ việc gì tôi bắt tay vào thực hiện cũng đều thành công hết. Rồi...rồi...bỗng đùng một cái!..

Jacques bỏ lửng câu nói. Tôi cũng không gạn hỏi thêm. Ông bạn già nói tiếp :

- Tôi làm ăn thất bại, bị lường gạt, bị quịt, bị mất mát và thua lỗ rất nhiều. Dĩ nhiên không đến nỗi mất hết, nhưng mất đi phần lớn bất động sản. Rồi mất con. Rồi mất cả con chim sẻ nhỏ tôi lượm được trên máng xối ( Jacques chỉ lên mái nhà) và nuôi để làm bạn. Tôi đi đâu cũng mang nó theo, lên phi cơ nó cũng ngoan ngoãn đậu trên vai cùng du lịch khiến hành khách ai nấy cũng tò mò ngạc nhiên. Được hai năm, nó già rồi chết đi. Nó không đau khổ, nhưng còn tôi, tôi đau khổ.

Jacques trầm ngâm một hồi, đoạn vỗ vai tôi :

- Bạn thiệt là một người can đảm ! ( Biết rồi, khổ quá nói mãi !) Bạn đã mất hết ở Việt Nam, khởi sự lại từ con số không nơi xứ người mà không chùn chân chút nào.

 

Jacque vừa nói vừa vòng hai ngón tay lại tròn vo. Tôi mỉm cười lắc đầu :

- Bạn tưởng vậy chớ tôi cũng nhiều phen ngó cái lỗ rún mình mà than khóc triền miên, tới mức phát khùng phải đi nằm nhà thương. Nhưng khóc chán tôi thấy rún mình không tròn hơn một chút nào ( ngập ngừng)... ờ ờ... có chăng nó càng lúc càng méo thêm đi là đằng khác.

Tôi phá ra cười. Jacques cũng cười theo :

- Vậy mà bạn vẫn giữ được tính cười cợt và sự khôi hài cố hữu, giỏi thiệt !

- Ối bạn ơi ! Bạn thử nghĩ nếu không giữ được cái khôi hài và sự giễu cợt thì làm sao mà tôi có thể sống sót được trong cuộc chiến tranh ba mươi năm dai dẳng ở Việt Nam ? Bạn để ý mà coi, thế giới chúng ta hiện nay sống trong buồn rầu, nghi kỵ và đạo đức giả. Mà một khi con người thấy cái gì cũng buồn rầu, cái gì cũng nghi kỵ, cái gì cũng rắc rối, cái gì cũng nghiêm chỉnh hết thì giặc giã còn hoài hoài. Giặc trong lòng ta mà ra...

 

Jacques ngắt lời :

- Bạn muốn nói sự nghiêm chỉnh sanh ra giặc giã ?

- Không đâu ! Tôi không có ý chứng minh như vậy hay chứng minh một cái gì hết ráo. Nhưng nếu để ý, bạn sẽ thấy cũng như tôi là khi giết người, bọn đồ tể rất nghiêm chỉnh. Chẳng có ai vừa cười ngất vừa đâm vừa chém vừa bắn vừa giết hết. Khi nướng sáu triệu Do Thái, Hitler không cười một tiếng, trừ khi cười khoái trá. Khi đày ải hai chục triệu dân Nga, Stalin cũng không cười một tiếng, trừ khi cười nham hiểm. Tôn giáo cũng rất nghiêm chỉnh. Tôi không hình dung nổi người ta vừa gặp gỡ Thượng Đế vừa cười cợt. Chỉ có vừa khiếp đảm vửa run lẩy bẩy như cái đuôi thằn lằn.

- Nhưng nếu không nghiêm chỉnh thì làm sao mà giải quyết các khó khăn cho được, nhứt là trước những vấn đề trọng đại ?

- Chính vì nhiều lúc đối đầu với vấn đề và cho rằng nó quá sức trọng đại mà thành ra không giải quyết được gì hết. Càng giải quyết chỉ càng làm cho nó rắc rối thêm, hoặc giả chỉ thay thế sự khó khăn này bằng sự khó khăn khác còn lớn hơn thập bội. Đồng ý với bạn là không thể thủ tiêu cộng sản bằng sự khôi hài và cợt nhả thôi mà được. Bởi lẽ chính sự nghiêm chỉnh của người khác bắt buộc mình phải nghiêm chỉnh, sự rắc rối của người khác bắt buộc mình phải rắc rối, rồi tới phiên sự nghiêm chỉnh và rắc rối của mình lại truyền nhiễm sang người khác, rồi cứ thế, vân vân... Không phải chỉ một mình mình mà Hitler có thể tạo ra cuộc Đệ nhị thế chiến đẫm máu chết hằng chục triệu người khắp hoàn cầu vừa qua. Có rất nhiều, rất nhiều đồng lõa, đếm không kể hết, và cũng không phải dân Do Thái hoàn toàn vô tội và bỗng dưng bị thù ghét, săn đuổi, ruồng bắt trên khắp lục địa Âu Châu. Dân Việt Nam chúng tôi cũng vậy. Chẳng phải khi không từ trên trời rớt xuống mà dân tộc chúng tôi lãnh đủ định mệnh thảm khốc suốt hậu bán thế kỷ hai mươi này, cho tới bây giờ vẫn còn trôi sông lạc biển, và tiếp tục bị thảm sát, bị cướp bóc, bị hãm hiếp. Dĩ nhiên ngó thấy ai mà chẳng phẫn uất, thương tâm. Hơn nữa, tôi lại là một người Việt. Nhưng hãy bình tâm nhìn lại lịch sử và nghĩ lại mà coi. Tôi không có ý chứng đúng điều gì. Dù sao đi nữa cũng không thể nào chứng đúng được sự bạo ngược. Giải thích hoặc biện chứng thế nào thì bạo ngược vẫn là bạo ngược, và chiến tranh vẫn là một cuộc tàn sát xuẩn ngốc qui mô có tổ chức. Tôi chỉ muốn nói phải cố gắng nhận định cho rõ cội nguồn và ý thức. Không riêng ai, mà là mỗi người chúng ta. May ra nhờ vậy mà con người bớt bạo ngược chăng ? Vẫn biết rằng kêu gọi mỗi người ý thức quả thiệt là một điều không tưởng !

 

Jacques có vẻ nghĩ ngợi, tôi hỏi tiếp :

- Trong cuộc Đệ nhị thế chiến vừa qua, bạn có biết ai đã đẻ ra bom nguyên tử hay chăng ?

- Là Einstein, nếu tôi không lầm.

- Trên bình diện khoa học, bạn không lầm. Einstein quả là cha đẻ trực tiếp của Thuyết Tương Đối và bom nguyên tử. Nhưng nếu truy nguyên ra thì chính lòng sân hận của toàn thể nhân loại đã đẻ ra bom nguyên tử. Nếu không oán hận nhau thì chẳng ai khi không đi chế tạo bom nguyên tử làm gì cho hao tiền và mệt xác. Và cũng chẳng phải khi không trái bom nguyên tử đầu tiên rớt xuống Hiroshima mà lại không rớt xuống một thành phố nào đó ở Phi Châu chẳng hạn. Chính cái bản tánh của dân tộc Phù tang đã hút chặt trái bom nguyên tử đầu tiên xuống đầu mình như một khối nam châm đồ sộ. Như một cộng nghiệp bất kham !

 

Jacques thở dài :

- Và bây giờ bom nguyên tử, hỏa tiễn, vũ khí nguyên tử tràn lan khắp thế giới, bên khối tư bản cũng như bên khối cộng sản...

...và tràn qua luôn cả các quốc gia cho rằng mình không thuộc khối nào. Lòng sân hận của con người bộc tràn tới đâu thì cầu sập, tuyết chảy, rừng rú bốc cháy, núi đồi trở thành bình địa, con nít bị đập đầu, đàn bà bị hiếp dâm, chẳng những con người không có chỗ dung thân mà đến muông thú cũng bị vạ lây, lá rừng rụng sạch, cây cối tàn héo, cỏ hoa cũng không làm sao mọc nổi. Sân hận bộc tràn thì vũ khí nguyên tử tràn theo.

- Tôi vẫn hằng tưởng Đông Phương thấm nhuần Phật Giáo lẽ ra ít bạo động hơn Tây Phương vốn được nuôi nấng trong tình thần Công Giáo chủ động, muốn lôi kéo người khác xáp nhập vào đạo mình bằng thuyết phục hoặc dùng bạo lực cưỡng bách và phía sau âm ỉ một tham vọng chính trị, đất đai.

- Nhưng nghịch lý thay ! những dân tộc hiếu hòa, lấy Phật Giáo bất bạo động làm quốc giáo như Lào, Cao Miên cũng đã lãnh đủ định mệnh khốc liệt không kém Việt Nam chút nào. Nhưng nước Lào thi đỡ hơn, cũng do cái bản tánh hiền hòa của xứ đó. Còn Cao Miên thì lãnh đủ Pol Pot với những cánh đồng tràn ngập xương máu và hàng triệu người bị thảm sát. Phần dân tộc Việt Nam chúng tôi cũng kì cục lắm ! Cứ chê các nước láng giềng là ngu xuẩn mà rốt cuộc suốt lịch sử vùng Đông Nam Á các nước này đều hưởng thái bình an lạc nhiều hơn Việt Nam hết thảy. Vậy thì ai khôn, ai dại ? Cũng vì lẽ đó mà cho rằng dân Do Thái thông minh tôi cũng không dám chắc. Tôi muốn nói cái  thông minh thực sự. Người ta thường nhầm lẫn hiền triết và thông minh thực sự với cái khôn vặt.

 

Ở mức tiến hóa hiện tại, con người vẫn còn quanh quẩn với cái khôn vặt, cái khôn nhằm khai thác muôn vật muôn loài để phục vụ mình, chỉ mình và cho mình. Còn nếu như nói « ngu si hưởng thái bình » thì hưởng thái bình chưa chắc đã là ngu si. Còn hơn được tiếng thông minh ( thông minh?) mà bị nướng rụi.

Jacques đăm chiêu nhìn tôi thở dài :

- Ngu cũng chết, khôn cũng chết, hiền cũng chết, dữ cũng chết. Chết ráo ! Vậy biết làm sao bây giờ ?

- Tôi cũng không biết ( gật gù)...tuy nhiên tôi cũng có cảm tưởng là nếu bây giờ toàn thể nhân loại ai nấy đều « ăn, ngủ, đ..,ỉa » một cách lương thiện và kiếm chuyện vui mà làm thì có lẽ thế giới này sẽ hết giặc  (vỗ vai). Tôi dám cam đoan với bạn như vậy.

Jacques phá ra cười :

- Bạn lại khôi hài !... Nhưng biết đâu? Cái ý kiến của bạn cũng thiệt là ngộ nghĩnh !

- Thôi thôi ông bạn già ơi ! Tôi xin can ông bạn. Bạn mà lôi cái ý kiến đó ra để lập thuyết hòa bình thì chắc chắn sẽ loạn lạc càng dữ hơn nữa, riết rồi hết biết đường đâu mà rờ. Thuyết càng lờn thì loạn càng to, loạn càng to thì giặc càng dữ, giặc càng dữ thì chết càng nhiều. Nói cho cùng, chính vì sống là chuyện hết sức nghiêm chỉnh nên ta phải...cười mà sống. Không có thái độ nào cà chớn cho bằng thái độ nghiêm chỉnh kinh niên. Nếu chơi chữ thì nghiêm chỉnh quả là một thái độ không nghiêm chỉnh một chút nào hết. Một thái độ vọng chấp tột bực. Chắc bạn khó lòng mà đồng ý với tôi.

Jacques đưa tay vỗ lên trán :

- Thiệt là bể cái đầu !

Tôi vỗ vai Jacques :

- Allez, ne vous cassez pas la tête ! Bạn chỉ có một cái đầu, chớ nên làm bể nó vì kẻ khác. Thôi bỏ đi tám, laissez tomber, rien d’important tout ca !

Rồi cứ vậy, cứ vậy. Ngoài những giờ chơi chọi banh sắt hào hứng vô tư lự, Jacques và tôi đâm đầu đều đều vào ngõ cụt của lý luận mong tìm một giải pháp cứu rỗi khả dĩ làm hài lòng hết mọi người. Lý luận lật sấp, lý luận lật ngửa, lý luận dài dài cho tới hết mùa hè. Và mùa hè nóng bức năm đó đã hết, cuộc tìm kiếm vô vọng, tịt ngòi.

 

Mùa hè năm sau, tôi và Ánh đã trở lại Villefranche-sur-Mer, chỉ có hai đứa. Phương và Thụy đã xé lẻ đi nghỉ hè riêng ở Corse với một cô bạn người Pháp.

 

Những lúc Ánh lui cui làm bếp, tôi nhấm nháp pastis ngó ra vườn chanh xanh lá, nhớ đất nhớ trời, nhớ người yêu cũ, nhớ con bướm Trang Sinh năm ngoái.

 

Gió chiều xòe bàn tay ẩm đục hơi nước xoa dịu cơn say nắng mê sốt cả ngày trong lòng Vịnh rồi ùa lên luồn ngón vào tóc chanh chải gỡ gào gội hong thổi. Những trái chanh chín vàng lườm chưa kịp hái đong đưa như những bóng đèn tròn căng tràn sinh lực ở công viên trong dịp lễ có tiếng phong cầm và nhịp trống háo hức. Những trái chanh no nắng, những bóng đèn no sáng, những váy xòe no nhạc, những cặp đùi no muốt dục tình. Nhạc sĩ ve ve so dây, lũ ruồi lớn rã cánh té xuống mặt đất. Và tôi sắp mê sảng rớt lật vào cơn điên chưa dứt. Cơn điên thường trực, đỏ lòm...

 

Buổi sáng tắm biển trong lòng vịnh với Gigi và Ánh. Buổi chiều nhâm nhi với Jacques ngoài bao lơn, bàn tiếp chuyện đời, chuyện ngắn, chuyện dài tẩm mùi pastis thơm ngọt.

Jacques đưa ly rượu lên môi hớp một ngụm rồi lại đề cập lần nữa về mấy cuốn sách tôi gởi biếu :

- Khi chọn gởi cho tôi quyển Trở lại tôi nghĩ chắc là bạn tin ở thuyết luân hồi, phải vậy chăng ?

- Tôi không rõ, vì quyển sách đó đến tay tôi hết sức tình cờ, thú thiệt với bạn là tôi chưa đọc.

- Điều đó không quan trọng. Tôi chỉ muốn hỏi là bạn tin hay không tin có luân hồi ?

- Tôi lại nghĩ điều tôi tin hay không tin chẳng có gì quan trọng. Tin hay không tin thì luân hồi, nếu có, nó vẫn có. Tôi chẳng muốn nhức đầu về chuyện đó làm gì.

Jacques nghiêng người tới trước :

- Dĩ nhiên, nhưng chắc là bạn cũng đã có ý kiến, bạn cũng đã có nghiền ngẫm về vấn đề này chớ làm gì không ?

Tôi lắc lắc viên đá cục khua long cong trên vách ly pastis :

- Hồi ba tôi lâm bịnh nặng, ông có viết thơ nói với tôi rằng ba già thì ba chết, người ta chết là hết, con chớ khá rầu buồn, ba không tin có luân hồi. Trong thơ tôi đáp lại, tôi nó là tôi cũng không tin có luân hồi theo cái nghĩa có một ông Lê Minh Châu ( tức là ba tôi) bất biến cứ trở đi trở lại trên dương thế này hoặc trong trời đất này, dù là bất cứ dưới hình dạng nào. Tuy nhiên tôi tin có luân hồi theo cái nghĩa vũ trụ tuần hoàn, tuy có trở đi trở lại nhưng cứ biến dịch hoài hoài, mới thì không mới hẳn, mà cũ thì cũng không cũ hẳn. Như trên mặt đại dương những đợt sóng này vừa lắng xuống thì đã có những đợt sóng khác dấy lên liền tức thì. Đại dương tuy không khác mà các đợt sóng không hề giống nhau bao giờ. Nhưng chính vì các đợt sóng không hề giống nhau bao giờ mà bộ mặt đại dương cứ hoài hoài đổi khác, không bao giờ ngừng nghỉ. Vẫn cứ trùng trùng duyên khởi...

- Nhưng còn cái cá nhân của tôi với bạn thì sao ? Có bao giờ luân hồi trở lại một lần nữa hay không, dù chỉ một lần ?

Tôi trầm ngâm một chập vì tôi biết rằng Jacques, cũng như rất nhiều người trong chúng ta muốn được biết rằng « ta » có luân hồi hay không có luân hồi. Tôi nói :

- Có lần đọc ở đâu đó tôi thấy có vị đạo sĩ đưa ra ý kiến như sau : Mỗi ngày thể xác chúng ta mệt mỏi và đòi được nghỉ ngơi. Chúng ta mê ngủ, đó là cái  chết ngắn. Khi hồi sinh, chúng ta thức dậy trong cái thể xác cũ trước khi chết. Lúc về già, tới một lúc nào đó, thể xác chúng ta quá  sức mệt mỏi và đòi được nghỉ ngơi dài hạn. Chúng ta ngủ một giấc dài, đó là cái  chết trần tục. Nhưng đến khi hồi sinh, chúng ta thức dậy trong một thể xác khác với cái thể xác trước khi chết. Đó là cái nhìn của đạo sĩ nọ về sự luân hồi. Không biết bạn có thỏa mãn về cái nhìn đó chăng?

Jacques gật gù hồi lâu:

- Cũng có phần nào. Tuy nhiên, còn thiên đàng với địa ngục?

- Bạn có để ý là khi ngủ bạn nằm mơ. Giữa hai lần hồi sinh cũng vậy, bạn mộng du trong tâm thức của bạn. Mộng lành hay mộng dữ, thiên đàng hay địa ngục là cũng do cái tâm lành hay cái tâm dữ mà ra. Nói theo ngôn ngữ Phật thì đó là do cái nghiệp sống, hay cái nghiệp từ nhiều kiếp trước chồng chất sinh ra. Khi sống trên trần thế này thì tâm thức bên kia là cõi mộng. Khi sang cõi tâm thức bên kia và ngoảnh đầu ngó lại thì trần thế này là cõi mộng. Cõi nào mộng ? Cõi nào thực? So với gì mà xác định là mộng hay thực? Ai biết? Ngay như bạn đây , bạn có biết chăng?

Jacques tư lự:

- Thế nhưng...

Ông bạn già ngập ngừng. Tôi vỗ vai Jacques cười xòa:

- Tôi cũng chỉ biết mù mờ vậy thôi. Bạn có hỏi thêm tôi cũng chẳng biết đằng nào mà lần

Tôi day sang Gigi đưa tay chỉ lên khung cửa sổ khép hờ của ngôi biệt thự cũ úa bên kia rào dậu :

- Đêm đêm, dì có nghe tiếng đàn từ bên đó vọng sang nữa hay không ?

- Tiếng đàn?... Tiếng đàn nào?

- Tiếng đàn dương cầm, bản Pour Elise... lá la lá la lá là lá la là… đó

- Vậy hả, mà ai đàn mới được?

- Thì cô gái tóc bạch kim chớ ai!

Gigi càng ngơ ngác, tôi tiếp:

- Cái cô vẫn thường thấy thấp thoáng bên của sổ năm ngoái đó.

Gigi mở mắt tròn xoe:

- Cô nào?... đâu có cô gái nào tóc bạch kim. Biệt thự bên đó đã hoang phế từ lâu. Từ lâu đâu có ai lai vãng! Cháu nói gì kỳ lạ vậy?

 

Xem tiếp phần 2

 

 

Kiệt Tấn
Số lần đọc: 2444
Ngày đăng: 22.12.2009
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Pattaya - thành phố kỳ lạ… - Minh Tứ
Ốc bươu Bàu Nghè - Văn Thành Lê
Nửa nghìn năm trầm tích - Văn Thành Lê
Bí mật tiếng chiêng Phước Kiều - Văn Thành Lê
Hoa cỏ dại - Nguyễn Chính
Khúc tráng ca mù u - Văn Thành Lê
Ông Sáu Bia - Nguyễn Chính
“Thầy rắn” Lương Y NGUYỄN TIẾN HÒA - Phan Đức Nam
Cảm Bút từ Yên Phú Cổ Tự - Vũ Ngọc Tiến
Những cánh chuồn trên biển - Trần Kim Sơn