Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.377 tác phẩm
2.747 tác giả
617
116.538.229
 
Jean-Paul Sartre ,Nỗi đam mê làm người của thế kỷ 20[1] -1
Phan Huy Đường

Viết về con người, cuộc đời Sartre, chán ngắt. Thiên hạ đã viết quá nhiều, ít có khả năng tiết lộ điều gì mới, nẩy lửa, hấp dẫn 'thị trường'. Năm 1985, nhà xuất bản Gallimard đăng quyển Sartre của Annie Cohen-Solal, khổ lớn, hơn 700 trang. Trong đó, những thông tin mới lạ nhất thuộc loại : khi viết Les Mots, Ngôn từ, chàng trở về cố hương vài lần !

 

Viết về triết lý của Sartre càng chán hơn. Lúc quyển L'Être et le Néant, (Thực-thể và Hư-vô) ra đời năm 1943, chẳng ai hiểu nó, viết về nó chắc lý thú. Nhưng, năm 1947, Francis Jeanson đã viết quyển Sartre par lui-même (Sartre, do chính Sartre) tái bản dưới tựa Le problème moral et la pensée de Sartre[2] (Vấn đề luân lý và tư tưởng của Sartre), giới thiệu chính xác, mạch lạc, dễ hiểu triết lý của Sartre và những vấn đề luân lý nó đặt ra. Trong đề tựa cho quyển sách này, Sartre công nhận : Jeanson đã trình bầy chung thủy triết lý của mình và, trên cơ sở đó, nêu những đề tài suy ngẫm Sartre đang nêu cho chính mình. Một thái độ hiếm trong làng triết gia. Các tổ sư triết thường không bao giờ công bố 3 điều :

 

- Có người đã hiểu thấu tư tưởng mình, tức là đã ngang hàng với mình trong lĩnh vực ấy. Thái độ của Sartre đối với Jeanson. Ðặc biệt hơn, đối với Simone de Beauvoir, người được chàng ký tặng toàn bộ sách triết của chàng, đọc, tranh luận toàn bộ bản thảo, được chàng ủy quyền cắt bỏ bất cứ câu nào nàng thấy thừa trước khi nàng mang trao cho nhà xuất bản. Chàng thổ lộ, nàng không chỉ ở cùng trình độ kiến thức với chàng mà :

 

[...] nàng là người duy nhất hiểu tôi ở mức tôi hiểu chính mình, hiểu tôi đang muốn làm gì. Do đó nàng là người đối thoại toàn hảo, người đối thoại mà [bình thường] ta chưa bao giờ có được. Ðó là một may mắn có một không hai. [...] Ðiều có một không hai trong quan hệ giữa Simone de Beauvoir với tôi, chính là quan hệ bình đẳng ấy[3].

 

- Công nhận mình bế tắc trước chất vấn của người khác hay của chính mình. Thái độ của Descartes đối với công chúa Élisabeth de Bohême[4]. Thái độ của Aristote đối với chính mình khi bàn về giá trị trao đổi của hàng hoá[5].

 

- Người ủng hộ, đề cao tư tưởng của mình đã… hiểu sai tư tưởng đó. Thái độ của Marx và Engels đối với đồng chí của họ. Có vô số thí dụ lừng danh.

 

Không phải triết gia nào cũng đủ bản lĩnh để ứng xử như thế đối với bề đệ tử !

Viết về văn chương của Sartre thì... hỡi ơi ! Có hàng tấn sách đăng khắp thế giới. Bản thân Sartre nhận xét :

 

Nhưng tôi có thể nói, trong tất cả những bài viết về tôi mà tôi đã đọc […], tôi chẳng học được gì[6].

Vậy, viết bài này để làm gì ? Ðể làm bạn, để trả nợ quỷ thần.

 

Làm bạn. Ðọc một bài Hợp Lưu có nói về Sartre của bạn, tôi góp ý riêng về hai từ tôi thấy sai và giải thích tại sao. Không ngờ bè bạn lại muốn đăng lá thư ấy. Ðã đăng, phải dịch những đoạn tiếng Pháp. Trong chuyện này, tôi lại góp ý, giải thích. Bè bạn lại muốn đăng tuốt. Kết quả, tùm lum. Nếu muốn đăng thành bài, phải viết lại. Ðành viết lại. Ðã viết lại, nên viết có gốc, có ngọn, tránh lạm dụng thời giờ của độc giả.

 

Trả nợ quỷ thần. Sartre là một tác giả thiết thân với tôi. Bè bạn chế diễu : đồ đệ của Sartre. Ðúng thế. Phải tới cuối đời tôi mới có khả năng phê phán chàng trong quyển Penser librement. Người Việt nói và viết rất nhiều về Sartre nhưng ít dịch tác phẩm của Sartre, đặc biệt tác phẩm triết. Tôi viết bài này để chia sẻ với người Việt cuộc gặp gỡ giữa một thanh niên Ziao Chỉ với một triết gia, một nhà văn Pháp. Chia sẻ cuộc gặp gỡ thôi vì, đương nhiên, không thể giới thiệu hết, dù chỉ lướt qua, cuộc đời phong phú và tác phẩm đồ sộ của Sartre trong một bài báo.

 

Một con người quái đản

Con người Sartre đặc biệt nhất ở nhu cầu, ý chí sống trong suốt (transparent) với chính mình, với người khác, với đời. Chàng muốn vậy và đã sống như vậy. Ðiều này phù hợp với triết lý của L'Être et le Néant ( Thực-thể và Hư-vô) : Ý thức (Conscience) là một quá trình phủ định trong suốt, không gợn tí vật thể nào. Vì thế, viết tiểu sử Sartre rất chán : chẳng còn chút 'bí mật' nào để bật mí. Chính chàng đã thuật lại, phân tích tuổi thơ của mình trong Les Mots ( Ngôn từ). Cuối đời, trong Situation X[7], Thế X, qua 3 cuộc phỏng vấn của Michel Contat và Simone de Beauvoir, chàng lại nhận định về mình, đời mình, tư tưởng và tác phẩm của mình. Từ thuở họ quen nhau cho tới ngày chàng chết, Simone de Beauvoir, trong một loạt hồi ký nổi tiếng đã thuật lại rất chi tiết cuộc sống, quan hệ, suy nghĩ hàng ngày của họ. Năm 1990, tập san Les Temps Modernes (Thời Hiện đại) đăng trong 2 số đồ sộ, tổng cộng gần 1500 trang, bài vở của nhiều người đã từng quen biết, gần gũi với Sartre, dưới tựa Témoins de Sartre (Nhân chứng về Sartre). Sartre lại cho phép đăng tất cả bản thảo bỏ dở, thư từ chàng viết cho bất cứ ai, đặc biệt cho Simone de Beauvoir, tất cả những gì chàng đã từng viết. Còn chuyện gì mới để nói về chàng nữa ?

 

Không những Sartre muốn sống trong suốt với chính mình, chàng còn muốn sống trong suốt với người khác, khi người ấy... chịu đựng nổi. Người duy nhất chịu đựng nổi là Simone de Beauvoir. Vì họ cùng nhân sinh quan và nhân sinh quan ấy, cộng với bản lĩnh, tài năng của mỗi người, khiến họ có khả năng sống bình đẳng, trong suốt với nhau : theo nhân sinh quan ấy, đam mê chiếm hữu hay đam mê thống trị người khác là những đam mê hão, không thể thực hiện được, chỉ dẫn tới những nếp sống không trung thực (inauthentique), với những thái độ không trung thực như ghen tuông, v.v. Sartre đã từng yêu nhiều bà. Người biết rõ hơn ai hết là... Simone de Beauvoir. Ngược lại, Simone de Beauvoir cũng đã yêu mấy người đàn ông khác và người biết rõ nhất, chính là Sartre. Họ chưa từng sống chung dưới một mái nhà, thường ở hai khách sạn khác nhau và, cuối đời, ở hai căn hộ khác nhau. Nhưng ngày nào họ cũng gặp nhau tay đôi, nói cho nhau biết mọi chuyện về đời sống hàng ngày, những suy nghĩ của họ. Khi xa nhau, ngày nào họ cũng viết thư cho nhau. Kho thư ấy đã đăng một phần. Ðọc chúng, ắt sững sờ : họ sống trong suốt với nhau thật, ngay cả trong những chi tiết thầm kín của những mối tình riêng của từng người. Sống kiểu ấy chẳng dễ tí nào, đã trở thành đề tài... văn học. Và gây vài bi hài kịch trong làng văn. Bi kịch, có mối tình giữa Simone de Beauvoir với Algreen, một nhà văn Mỹ đoạt giải Pulitzer. Ðó là mối tình tha thiết nhất của nàng sau... mối tình với Sartre. Trong Les Mandarins( Những quan thầy), có một nhân vật, Algreen nhận ngay ra là mình. Trong nhiều năm, mỗi năm nàng qua Mỹ sống vài tuần, vài tháng với Algreen. Algreen cũng qua Pháp sống với nàng, đi chơi với... Sartre. Cuối cùng Algreen không chịu nổi quan hệ 'tay ba' đó, hai người bỏ nhau. Cuối đời, Algreen nghèo túng, căm giận Beauvoir, đem 18 lá thư nàng đã gửi cho mình bán lấy một số tiền khá lớn. Nhưng, 24 tiếng sau, chàng chuộc lại và... giữ tới chết. Một trang tình sử. Hài kịch : trong cơn lốc Tháng 5 năm 1968 tại Pháp, một chục cặp trí thức nổi tiếng cũng thử sống trong suốt với nhau. Kết quả : một chục cuộc ly dị. Sartre và Beauvoir là những triết gia hiếm hoi đã thực sự sống tới cùng triết lý của họ. Ðiều đó đòi hỏi một triết lý đặc biệt, khả thi, và sự hiện diện của 2 con người, một nữ một nam, tương đắc, bình đẳng với nhau về mọi mặt. Ðó là trường hợp hi hữu của Sartre và Beauvoir. Nó khẳng định : con người có thể yêu nhau mà vẫn quý mến tự do của nhau.

 

Sartre cũng muốn sống trong suốt với đời. Thà mất bạn còn hơn duy trì một quan hệ bè bạn nhập nhằng. Thí dụ điển hình nhất là cuộc tranh luận với Albert Camus. Bài Réponse à Albert Camus[8] (Trả lời Albert Camus) thể hiện tiêu biểu tình bạn của Sartre trong văn chương : hiểu và đánh giá một cách tổng hợp con người, hành động, tư tưởng, văn chương. Có lẽ ít khi Camus được đọc một bài ca ngợi mình hay, sâu sắc như trong mấy trang 111 và sau đó :

Ðối với chúng tôi ông đã từng là - và nay mai vẫn có thể lại là - sự kết hợp tuyệt vời của một con người, một hành động, một tác phẩm[9].

 

Yêu nhau lắm, cắn nhau đau. Trong bài đó, Sartre giải thích vì sao những suy luận dẫn Camus đến một đỉnh cao của văn chương Pháp cũng là những suy luận đưa Camus vào ngõ cụt, biến chàng thành nhân vật long trọng, hình thức, ngay trong văn chương. Có lẽ Camus cũng chưa từng 'ăn đòn' nặng như thế bao giờ.

 

Sau cuộc tranh luận này, có hai tiểu tiết đáng ghi nhận để hiểu phong cách tranh luận giữa các con người cỡ ấy. Trong 2 số Les Temps Modernes nói trên, một nhà văn tường thuật lại nhận xét của Camus về Sartre sau cuộc tranh luận đó. Tác giả, người ủng hộ Camus, chống Sartre, gặp Camus trong một quán café ở Paris, lôi chuyện ấy ra bàn. Camus nói : con người này [Sartre] có một điều gì ma quái (diabolique) nhưng không bao giờ hạ lưu (bassesse). Khi Camus chết, Sartre viết một bài rất hay, chân tình[10].

Ðiều nổi bật thứ hai ở Sartre : chàng mê hiểu. Hiểu chính mình, hiểu người khác, hiểu cả loài người. Khi chàng tìm hiểu vấn đề gì, chàng đào tận gốc lần tận ngọn.

Hiểu chính mình. Trong Les Mots ( Ngôn từ) , chàng đã vận dụng triết lý của L'Être et le Néant để hiểu tuổi thơ của mình, xem nó đã ảnh hưởng cuộc đời, tư duy, tác phẩm của mình ra sao, những gì còn tồn tại trong mình, những gì cuộc đời, nghiệm sinh của mình đã khiến mình quét đi. Tác phẩm kết thúc với câu văn nổi tiếng nói về chính mình :

một con người trọn vẹn, hình thành bằng cả nhân loại, ngang giá với mọi người và bất cứ ai cũng ngang giá với mình[11].

 

Nhiều anh lý luận văn học PhuLăngXa ghét, phản đối câu này. Nhiều anh, đã từng chửi Sartre thậm tệ, không chấp nhận nổi chàng Nobel PhuLangXa lại chỉ ngang giá với bất cứ ai trên đời. Họ không hiểu nổi chính vì Sartre đam mê làm người như thế mà chàng đã trở thành nhà văn lớn của thế kỷ 20. Y hệt như một số phản ứng với câu : Trước một đứa bé đang chết, Buồn nôn chẳng đáng kilo nào.

 

Hiểu người khác (đã chết), có quá nhiều thí dụ, từ Descartes tới Baudelaire, Nizan. Cuối quyển L'Être et le Néant, Sartre viết : có thể dùng bản thể luận này làm nền tảng cho một phân tâm học hiện sinh (psychanalyse existentielle), cho vài thí dụ, đặc biệt bàn về sự quyến rũ của những cái lỗ (trou) đối với con người ngay từ thời ấu trĩ, lúc chưa có nhu cầu tình dục, liên hệ với khái niệm Hư vô. Chàng đã thực hiện điều đó nhiều lần, với nhiều tác giả. Thí dụ tiêu biểu nhất : Flaubert. Chàng đã đọc lại toàn bộ tác phẩm của Flaubert, kể cả 18 pho thư từ riêng của Flaubert, viết 3 quyển sách đồ sộ, L'Idiot de la famille (Thằng Ngốc của gia đình), để chứng minh : con người có thể hiểu con người. Quyển cuối cùng, dựa vào thân phận làm người và tư duy của Flaubert để giải thích văn phong của Flaubert, chàng bỏ dở, vì mù luôn con mắt còn lại.

 

Hiểu người khác (đang sống), có chuyện 'tiếu lâm' sau. Jean Gênet là một tù phạm vào tù ra khám liên miên vì đủ thứ tội, ăn cắp, nghiện ngập, đồng tính luyến ái, v.v. Ðồng thời là một đại văn hào... vô danh ! Sách của chàng bị cấm xuất bản, cấm bán tại Pháp. Toàn chuyện đầu trộm đuôi cướp, xì ke ma túy, nhục tình 'bệnh hoạn', thể hiện bằng một văn phong cực kỳ trong sáng, tinh khiết ! Sách đó xuất bản tại Thụy Sĩ, mỗi lần vài trăm bản là cùng. Thế mà đám nhà văn lớn của Pháp đều biết tới và mê. Jean Cocteau và Sartre can thiệp để nhà nước Pháp thả Jean Gênet, lúc đó đang ở tù, vì đó là nhà văn lớn. Không nhớ ai lại đề nghị Gallimard xuất bản Jean Gênet toàn tập trong bộ sách trứ danh La Pléiade. Bộ sách này đăng toàn tập và chỉ đăng đại văn hào khắp thế giới đã chết từ lâu, như Shakespeare hay Molière, không đăng tác giả còn sống (ngoài Gide và Malraux), nói chi tới một tác giả chẳng mấy ai biết là ai ! Thế mà Gallimard nhận đăng, nhờ Sartre viết bài đề tựa cho bộ sách. Sartre viết bài đề tựa dài... 700 trang. Quyển I của Jean Gênet toàn tập chỉ có bài đề tựa ấy thôi, không có tác phẩm của Jean Gênet. Chuyện bên lề lý thú. Sartre gửi bản thảo cho Jean Gênet. Một hôm, chàng đang ngồi làm việc trong café Les trois mousquetaires, Jean Gênet xuất hiện, đập rầm bản thảo ấy xuống bàn, nói : Mày với thằng Cocteau định giết tao, đáng lẽ tao đã vứt vào lò sưởi. Nếu chàng làm thế, và Gênet rất có thể làm thế, chúng ta sẽ chẳng bao giờ được đọc đề tựa quái dị này. Sartre luôn luôn viết tay, không có bản sao. Ngày nay, 'bài' đề tựa ấy, Saint Gênet, comédien et martyr (Thánh Gênet, kịch sĩ tử vì đạo), hầu như gắn với tác phẩm của Gênet. Ðồng ý với nó hay không, ta khó lờ nó.

 

Ngoài ra, hiểu người đang sống, chỉ liếc qua danh sách nhà văn trẻ Sartre đã giới thiệu cũng đủ thấy.

Hiểu cả loài người. Tiêu biểu nhất có tác phẩm triết cuối cùng của Sartre, Critique de la raison dialectique (Phê phán lý trí biện chứng). Trong tác phẩm này, Sartre vừa dựa vào bản thể luận của L'Être et le Néant, vừa muốn vượt nó, đưa cả Lịch sử vào tầm nhìn và lý luận, trả lời câu hỏi : con người có khả năng hiểu Lịch sử hay không, bằng phương pháp suy luận nào, vì sao, v.v. Ðây mới là cuộc đương đầu cơ bản, đích thực giữa Sartre với Marx. Những tác phẩm khác về đề tài này, như Sartre đã viết, chỉ là tranh luận với học trò tồi của Marx và nhất là của Engels. Trong bài đề tựa cho tác phẩm này, Sartre viết những câu nổi tiếng sau :

 

Cuối cùng, tôi chỉ đặt một câu hỏi. Một câu hỏi thôi : ngày nay, chúng ta có hay không khả năng thiết lập một nhân học[12] có tính cấu trúc và lịch sử ? Nó sẽ có chỗ đứng trong triết lý của Marx vì - như độc giả sẽ thấy sau đây - tôi coi chủ nghĩa Marx như triết lý không thể vượt qua được trong thời đại của chúng ta và vì tôi coi ý thức hệ hiện sinh và phương pháp suy luận "thông cảm[13]" của nó như một xâm nhập vào chủ nghĩa Marx do chính chủ nghĩa Marx gây ra và đồng thời chống lại[14].

 

Sartre rất ghét từ existentialisme (chủ nghĩa hiện sinh) do Gabriel Marcel tạo năm 1943[15]. Ngay năm 1945, trong một cuộc thảo luận do nhà xuất bản Cerf tổ chức, chàng trả lời Gabriel Marcel : triết lý của tôi là triết lý của sự hiện sinh (une philosophie de l'existence) ; tôi không biết chủ nghĩa hiện sinh là cái gì cả[16]. Người Việt không phân biệt được những khái niệm existentialisme, existentialiste với khái niệm existence vì dịch tuốt luốt bằng từ 'hiện sinh'. Dễ hiểu, đây chỉ là một đề tài triết kinh điển của Tây Âu. Nôm na, nội dung nó là : hiện thực (existence, những gì có trong thế giới hiện thực) có trước hay bản chất (essence) có trước ? Dịch thế nào không quan trọng lắm, quan trọng là hiểu nội dung : sự đối kháng giữa thế giới thực và khái niệm. Theo Platon, bản chất có trước, là sự thực tinh khiết vĩnh cửu của mọi sự vật, còn điều con người ý thức chỉ là hình ảnh méo mó của sự vật đích thực, hình thành vì sự ngu muội. Tất nhiên, với triết gia thì khác ! Sartre tuyên bố cộc lốc : L'existence précède l'essence, sự hiện sinh có trước bản chất, trong buổi nói chuyện với 'quần chúng' đăng lại dưới tựa L'existentialisme est un humanisme (Chủ nghĩa hiện sinh là một chủ nghĩa nhân bản), 1945. Rất nhiều độc giả, ngại đọc sách triết, biết triết lý của chàng qua bài nói chuyện nẩy lửa đó. Sartre lừng danh, trở thành đề tài tranh luận văn học từ đó. Sau này, chàng ân hận đã cho đăng bài ấy :

Rất nhanh, tôi đã nghĩ rằng cho đăng nó là một sai lầm lớn[17].

Ðối với chàng, chủ nghĩa hiện sinh của Kierkegaard, của Jasper và của chàng, khác nhau về nội dung, đều chỉ đáng gọi là ý thức hệ.

 

Sartre phân biệt triết lý với ý thức hệ như sau. Ở mỗi thời đại chỉ có một triết lý sống (vivante). Tư tưởng đáng gọi là triết lý là tư tưởng đã đi vào đời, biến thành môi trường suy luận của con người, 'thành văn hoá và, đôi khi, bản chất của cả một giai cấp', có thể áp đảo cả tư duy của các giai cấp bị thống trị (ý của Marx). Vì thế, triết lý của một thời đại luôn luôn vượt xa tác phẩm của triết gia đã khai sinh nó : những người khác dựa vào nó để ý thức và hành động, làm chủ thế giới, đương nhiên phải phát triển nó trong đủ thứ lĩnh vực. Nhưng tìm hiểu tác phẩm gốc sẽ giúp ta soi sáng những học phái phụ thuộc (doctrines). Thí dụ tiêu biểu : triết lý của Descartes. Hiện tượng ấy Sartre gọi là quá trình nhập thế của triết, le devenir monde de la philosophie[18]. Trong nghĩa đó, từ thế kỷ 17 tới thế kỷ 20, Sartre cho rằng chỉ có ba thời điểm chứng kiến sự kiện ấy, chàng nêu danh bằng những tên tuổi nổi tiếng : thời điểm của Descartes và Locke, thời điểm của Kant và Hegel và, cuối cùng, thời điểm của Marx. Tất cả các tư tưởng khác đều chỉ đáng coi như ý thức hệ (idéologie) bám vào môi trường triết lý kia mà tồn tại để phát triển hay chống nó. Riêng với triết lý của chính mình, Sartre giải thích : nó ra đời vì những người cộng sản thời ông đã biến triết lý của Marx thành một thứ học thuyết rỗng tuếch, khô cứng, tê liệt, không cho phép con người hiểu cuộc sống và bản thân mình[19].

 

Một khía cạnh khá ý nghĩa ở Sartre : chàng hoàn toàn không có ý niệm gì về tiền. Tiền nhuận bút vừa tới, thoắt biến. Tiêu cho mình một phần, chủ yếu cho ăn mặc và trả tiền phòng. Còn lại, cho hết, cho đủ thứ người vì đủ thứ lý do. Có lúc không còn tiền trả thuế lợi tức, phải vay mẹ 12 triệu quan cũ để nộp thuế. Cuối cùng, Gallimard giữ lại tiền trả thuế. Còn lại, mỗi tháng 'trả lương' cho Sartre một phần. Jean Cau, thư ký riêng của chàng, kể : hai bàn tay Sartre thủng, đổ tiền vào tới đâu chảy đi tới đó. Mỗi tháng, tới ngày Gallimard chuyển tiền nhuận bút vào tài khoản của Sartre, Jean Cau tiến hành một 'nghi lễ' lý thú : đưa cho Sartre ký ngân phiếu cho một đống người, trong đó, không biết do đâu, vì lý do gì, có tiền thanh toán chi phí bệnh viện cho một chàng clochard (vô gia cư, sống lê lết trên vỉa hè Paris) ! Ký xong, Sartre : Hết sạch rồi, phải không ? Jean Cau gật đầu. Sartre bèn chạy xuống bếp, vay bà đầy tớ của mẹ 10000 quan cũ để sống.

 

Con người hiểu thấu biết bao chuyện rắc rối trong đời, thú nhận : quan hệ của chàng với tiền là một vấn đề chàng không giải thích nổi, luôn luôn khó chịu, bứt rứt. Chàng không thấy mối liên hệ nào giữa những đống tiền chàng nhận và những tác phẩm của chàng vì, theo chàng, triết lý, văn chương thuộc loại đồ vô dụng (inutile, không có giá trị sử dụng). Chàng cũng cho rằng nhà văn tư sản như chàng là kẻ ăn bám giai cấp thống trị. Kể cho vui. Tuy vậy, Sartre không hiểu nổi, ắt có vấn đề không nhỏ. Ðây là bế tắc cơ bản của khái niệm giá trị sử dụng trong học thuyết kinh tế của Marx, khiến nó bất lực để tìm hiểu kinh tế đời nay.

 

Còn nhiều chuyện đáng nói về con người Sartre vì chàng là người hiếm hoi sống triệt để, trong suốt, tới cùng triết lý của mình. Nhưng đã quá dài. Xin nêu một khiá cạnh cuối cùng : Sartre cực ghét mọi hình thái quyền lực, chính trị, kinh tế, xã hội, kiến thức, tư tưởng... Chàng đã gặp nhiều người có quyền lực, danh vọng trên khắp thế giới, không kết bạn với ai. Chàng luôn luôn ứng xử bình đẳng với bất cứ ai, kể cả những người đáng tuổi con, cháu. Trong đời, Sartre 'có quyền lực' trong thời làm giáo sư triết cho năm cuối trung học. Một ông 'thầy' quái đản. Không 'dậy', chỉ nói chuyện, thảo luận với học trò. Khi phải chấm bài, cho mọi người điểm... như nhau ! Ra khỏi lớp, hay rủ học trò đi... đánh boxe ! Thầy trò boxer nhau túi bụi, còn ra thể thống quái gì ? Nhưng, trong vài trường hợp, lại kết bạn lâu bền. Hai người học trò cũ thuật lại[20] :

 

Thực ra, ông không dậy học, ông nói chuyện với những người bạn trẻ và những điều ông nói có vẻ đương nhiên, chắc chắn đến mức chúng tôi có cảm tưởng mình đang khám phá Sự Thật.

 

Ðột nhiên, một ông thầy tạo ra một quan hệ giữa người với người không giống quan hệ gia đình hay bất cứ quan hệ quyền lực nào, một quan hệ gạt bỏ những hàng rào thông thường.

 

Về già, chàng vẫn tiếp học sinh tới hỏi chàng về vở kịch La Putain Respectueuse, Con đĩ kính cẩn, để về viết bài vở. Phong cách đối xử ấy với người đời, ai đã gặp chàng đều công nhận. Trong thế kỷ 20, đây là con người tiêu biểu nhất cho 2 giá trị cơ bản của nền văn minh tư sản Pháp : tự dobình đẳng. Vì nó đã tái sinh và phát triển nội dung của hai khái niệm ấy.

 

Một kiếp sống, tư duy, hành động và sáng tác nghệ thuật phi thường

Trong đoạn tới, phải nói tới triết lý của Sartre, phải sử dụng những khái niệm triết. Vậy, xin nói trước, đối với tôi, 'khái niệm' nghĩa là gì. Khái niệm là một từ ngữ có định nghĩa và có ý nghĩa trong môi trường của một hệ suy luận[21]. Khái niệm khoa học (tự nhiên) khác khái niệm triết hay văn học ở điểm cơ bản cuối cùng đó. Trong khoa học, khi cộng đồng những người làm khoa học đã chấp nhận một khái niệm thì nó chỉ có 'một' định nghĩa thôi vì môi trường suy luận của họ là một. 'một' vì thực tế một khái niệm khoa học có thể có nhiều định nghĩa tuỳ độ chính xác cần thiết để hiểu một sự kiện trong khuôn khổ một nghiên cứu và thực nghiệm. Thí dụ : khái niệm kilogramme. Nó biểu hiện một quan hệ về lượng giữa hai hay nhiều vật thể. Trong đời sống và hành động thường ngày, đó là quan hệ giữa bất cứ vật thể nào với một khối kim loại trưng tại Palais des Poids et des Mesures ở vùng Paris, có thể cụ thể hoá dưới dạng một cái cân và ký hiệu hoá dưới dang một cái kim ở vị trí nào đó trên một bảng đo hay một con số. Mở tầm nhìn ra toàn bộ quả đất, nó có một định nghĩa khác, bao quát hơn, chính xác hơn. Mở tầm nhìn ra cả vũ trụ, cũng vậy. Nhưng ba định nghĩa ấy nhất quán với nhau, định nghĩa bao quát và chính xác nhất bao phủ, giải thích giới hạn của định nghĩa thấp hơn. Trong văn học, hoàn toàn khác. Ðằng sau một từ ngữ, có thể có vô vàn khái niệm với vô vàn định nghĩa khác nhau. Mỗi triết gia định nghĩa lại khái niệm của triết gia khác. Những khái niệm ấy chỉ có nghĩa trong môi trường của một hệ tư duy. Tình nghĩa chẳng hạn, là một khái niệm không có từ tương ứng trong tiếng Pháp, không thể 'dịch' được. Vậy, trong triết, khi ta dùng một khái niệm, nếu muốn viết chính xác, phải điền theo 'của tác giả nào'. Nói thế tưởng dễ, nhưng không dễ tí nào. Những bố triết gia thường định nghĩa khái niệm của mình bằng vài chục trang ! Thí dụ khái niệm mauvaise foi (sự giả dối với chính mình) của Sartre : cả một chương trong L'Être et le Néant ! Viết đi viết lại như thế, chết độc giả, nuốt thế quái nào được ! Vậy, trong đoạn sau, những khái niệm triết tôi dùng hoặc là khái niệm của Sartre, có ý nghĩa trong hệ suy luận của chàng hoặc là khái niệm bình dân học vụ. Khi là khái niệm do tôi bịa, tôi sẽ nói rõ.

 

Ðời người là một quá trình liên tục từ sinh tới tử. Trong quá trình ấy, tư duy của con người lúc tiến, lúc chựng lại, lúc lùi. Có lúc nhẩy vọt lên phiá trước, có lúc nhẩy vụt về... khởi điểm. Cắt một cuộc đời thành nhiều giai đoạn có vẻ giả tạo, hình thức, nhất là đối với Sartre, người có thói quen làm cùng lúc nhiều chuyện : viết triết, viết văn, tranh luận, bút chiến, giới thiệu nhà văn trẻ, dấn thân chính trị... Lại có thói đột ngột bỏ chuyện này làm chuyện khác, rồi trở lại hoàn thành chuyện bị bỏ rơi... 10 năm sau. Tuy vậy, chính Sartre đã làm chuyện đó đối với đời mình. Ta có thể dựa vào đó để tìm hiểu. Cuộc đời ấy có ba giai đoạn :

- trước chiến tranh thế giới 2.

- từ chiến tranh thế giới 2 tới 1968, khi xã hội Pháp bùng nổ.

- từ 1968 tới chết, năm 1980.

3 giai đoạn ấy khớp với vận động của lịch sử, hai giai đoạn sau khởi đầu bằng một cuộc động đất trong lịch sử Pháp. Chúng cho phép ta thấy tư tưởng, văn chương của Sartre vận động trong hoàn cảnh lịch sử.

 

Giai đoạn 1, tới 1945.

Sartre là một tác giả hiếm hoi vừa làm chủ tư tưởng của mình vừa làm chủ ngòi bút hành văn của mình, không bao giờ cho phép triết lý và văn chương chia lìa nhau. Cho tới nay, chưa ai phát hiện được mâu thuẫn nào giữa triết lý, văn chương, hành động, cuộc sống của chàng. Phê phán Sartre khó ở đó. Người ta trách chàng đã từng lựa chọn sai, như 'lịch sử đã chứng minh'. Từ đó kết luận : phương pháp suy luận của chàng sai. Cứ cho là vậy. Nhưng phương pháp suy luận ấy sai ở chỗ nào về mặt lôgích ? Tại sao phương pháp suy luận sai ấy khiến chàng thường thường lựa chọn đúng và sáng tác lắm tác phẩm văn chương hay như vậy ? Chẳng mấy ai nói được điều gì đáng kể, thường chỉ phán và đem... lịch sử (sic) ra nện. Chẳng thuyết phục tí nào. Cuối cùng, ý kiến thời thượng hiện nay : Sartre là một nhà văn lớn, một triết gia tồi ; ca ngợi văn chương của chàng và lờ triết lý của chàng. Nhưng lờ thế quái nào được : vứt bỏ nội dung triết lý, chẳng còn điều gì hiểu được ! Nhưng độc giả ngày nay đọc vẫn hiểu điều chàng muốn nói, dĩ nhiên ở những mức độ khác nhau. L’enfer, c’est les autres (Ðịa ngục, chính là tha nhân) hiểu theo kiểu thông thường vẫn hay. Và không mâu thuẫn với l’Être-pour-Autrui (Thực-thể-do-Tha-nhân) trong triết lý của L’Être et le Néant. Sống với chàng (nàng), có lúc tôi có cảm tưởng tôi chỉ còn là một cái bàn, cái ghế. Có mấy người đã từng nói với tôi như thế. Họ 'vận dụng' triết lý của Sartre mà không biết. Do đó Sartre vẫn incontournable (không thể vòng tránh) đối với triết gia Pháp : không đụng tới thì thôi (đó là thái độ chung, lờ), đụng tới khó nhai nghiền lắm lắm. Ðúng là :

 

Nhưng không ai chiến thắng nổi một triết lý bằng cách tuyên bố đơn thuần rằng nó sai. Phải hiểu nó và vượt nó, trong nghĩa dựa vào nó mà tiến lên đúng theo lôgíc nội tại của nó, vận dụng khả năng phê phán của con người để gạt bỏ khía cạnh hình thức của nó [nói toẹt là ngôn ngữ thời thượng cũng được, PHĐ] nhưng vẫn giữ lại nội dung mới mà nó đã đạt được[22].

 

Thuở còn thơ, Sartre mơ trở thành nhà văn lớn. Vào École Normale Supérieure (Trường Cao Ðẳng Sư Phạm), chàng mơ thêm trở thành triết gia lớn. Trưởng thành trong thời đại cách mạng, chàng đã mong giải quyết mâu thuẫn giữa triết lý (dựa vào suy luận cá nhân) và hành động (cùng người khác thay đổi thế giới), đem triết lý vào đời thực. Do đó chàng phải đương đầu với triết lý của Marx vì, trong thế kỷ 20, nếu có một triết lý đã thực sự biến thành môi trường cảm nhận và tư duy của đông đảo quần chúng, đó là triết lý của Marx, mọi triết gia đều phải đối diện với nó để khẳng định mình. Do đó chàng tạo những khái niệm liberté en situation (tự do trong bối cảnh), intellectuel engagé (trí thức dấn thân), littérature engagée (văn chương nhập cuộc), v. v...

 

Từ ấy, chàng đeo đuổi cả hai hoài bão, thường là song song, nhưng cũng có lúc nhẩy từ lĩnh vực này qua lĩnh vực kia, tư tưởng luôn luôn thống nhất, văn chương nêu vấn đề cho triết lý, triết lý làm nền tảng cho văn chương, rồi văn chương hiện sinh hoá[23] triết lý qua tác phẩm nghệ thuật và... giải quyết những bế tắc triết học !

 

Tác phẩm đầu tiên thể hiện những khái niệm triết đặc thù của Sartre là La Nausée (Buồn nôn). Chàng nộp bản thảo cho Gallimard năm 1936 dưới tựa Melancholia. Và... bị từ chối. Tội nghiệp Sartre. Hỏi vợ, bị khước từ. Thi agrégation triết lần đầu, trượt. Gửi đăng tiểu thuyết đầu tay mình đã viết hết mình[24], bị từ chối. Cũng dễ hiểu : chẳng ai hiểu nội dung triết của tiểu thuyết này. Người sành nhất cũng chỉ thấy chưa có tiểu thuyết nào đen tối đến thế ngoài tác phẩm của Kafka. Sau khi chàng đăng L'Être et le Néant, thiên hạ mới lần lần hiểu. Năm 1937, do bè bạn cổ động, Gallimard nhận đăng tiểu thuyết ấy và đề nghị tựa La Nausée.

 

Tư tưởng của Sartre bước vào đời dưới dạng văn chương. Trong La Nausée, nhân vật chính, Roquetin, lần lần ý thức con người là một hiện thực[25] ngẫu nhiên (contingent), không nhất thiết, không có lý do tồn tại. Ðiều ấy, Sartre cảm nhận từ tuổi 20. Chàng không dùng từ hasard, cũng có nghĩa đó, có lẽ vì nó là khái niệm gắn với khái niệm tất yếu (nécessité) trong những tranh luận khoa học và triết học kinh điển. Dĩ nhiên, khái niệm contingence cũng có nghĩa đó, nhưng nó còn có nghĩa này : con người không có ý nghĩa (sens), giá trị (valeur) gì cả. Nếu nó là sản phẩm cần thiết trong quá trình vận động của vũ trụ (như Engels tưởng) hay là một sản phẩm đặc biệt của Thượng Ðế, đời nó có ý nghĩa, giá trị. Ý nghĩa, giá trị đó tùy khoa học hay một đấng thiêng liêng. Nhưng nếu nó ngẫu nhiên, nó không tự nó ý nghĩa, giá trị. Ðể trốn tránh sự thật khiếp đảm đó, Roquetin tự dối mình, lao vào đủ thứ ứng xử không trung thực (conduite inauthentique), thí dụ, Tình Yêu với những khoảnh khắc độc nhất (moments uniques) của nó. Cuối cùng, chàng hiểu : không thể giả dối với chính mình. Tiểu thuyết kết thúc với hình ảnh một Roquetin nghe một khúc nhạc, đột nhiên hiểu rằng nghệ thuật là điều tất yếu duy nhất của con người. Trong một điệp khúc, những nốt nhạc nối đuôi nhau một cách tất yếu, nốt trước đã thế, nốt sau phải vậy. Sự tất yếu ấy do con người tạo ra để thể hiện chính mình. Ý nghĩagiá trị của con người do chính nó sáng tạo. Nội dung triết lý cơ bản ở đây : một cuộc đối diện cô đơn giữa ý thức cá nhân với thân phận làm người. Lối thoát khơi ra để mang lại cho thân phận ấy ý nghĩagiá trị là làm nghệ thuật. Hoàn toàn không có kích thước xã hội, lịch sử, chính trị. Nhưng thái độ đối diện thân phận làm người ấy đặt đầy vấn đề cho những kiểu suy luận lệ thuộc xã hội, lịch sử và chính trị ! Những thái độ cực đoan thường vậy, và Sartre cực đoan trong mọi vấn đề. Ðã viết triết, phải đặt lại vấn đề từ đầu : con người, ý thức là gì ? Ðã tìm hiểu người khác, phải tìm hiểu tận gốc và toàn diện ; đã muốn sống trung thực, phải sống trong suốt với chính mình, với người khác, vời đời, tới cùng và suốt đời ; đã dấn thân chính trị chống chủ nghĩa tư bản, phải ủng hộ những khuynh hướng cực tả ; đã yêu, phải yêu toàn diện và, do đó, chỉ yêu Simone de Beauvoir là chính. Hè hè, triết gia... Thái độ ấy đá phóc ta ra khỏi những định kiến êm ả, hèn hạ, bắt ta đương đầu với vài điều ta đã linh cảm nhưng không dám đối mặt, bắt ta thực sự làm người.

Sau La Nausée, trước hoặc song song với L'Être et le Néant hoặc ngay sau đó, những tác phẩm văn chương chính, tiêu biểu, gồm tuyển tập truyện ngắn Le Mur, Bức Tường, tiểu thuyết L'Âge de Raison ( Tuổi trưởng thành), kịch Les Mouches ( Bầy ruồi), tiểu thuyết Le Sursis ( Thời hạn hoãn), những vở kịch Huis Clos ( Xử kín) ;  Morts sans sépulture ( Chết không đất chôn) La putain respectueuse ( Con đĩ kính cẩn). Và bài nói chuyện lừng danh : L'existentialisme est un humanisme( Chủ nghĩa hiện sinh là một chủ nghĩa nhân bản).

 

Nội dung triết lý của các tác phẩm trên đều có thể hiểu qua L'Être et le Néant. Sartre bắt đầu ghi những suy nghĩ của mình để viết quyển sách triết gốc này năm 1939, khi chàng bị bắt lính, bước vào lịch sử thực của thời đại của chàng. Về quá trình đó, chàng nói :

Mùa xuân 1939 đánh dấu một bước ngoặt trong đời tôi. Tôi từ giã chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa phi nhân bản của tôi. Tôi học được sự đoàn kết. [...]Năm 1939, cuộc đời tôi thay đổi đột ngột, triệt để : Lịch sử đã tóm cổ tôi để không bao giờ buông tôi nữa[26].

 

Chàng chỉ bắt đầu hiểu điều đó năm 1945, hai năm sau khi công bố L'Être et le Néant :

Chính trị là một kích thước của con người. Nhưng điều ấy, tôi chỉ phát hiện ra cho chính tôi qua chiến tranh, và tôi chỉ thực sự hiểu nó từ năm 1945[27].

 

Chàng nói :

Nếu tôi đã viết quyển Thực-thể và Hư-vô nhanh như thế thì vì chỉ cần viết thôi : những ý tưởng đã có sẵn[28].

 

Những ý tưởng có sẵn đó, tất nhiên đã thể hiện trong những tác phẩm văn chương đã đăng hoặc đang hình thành song song với L'Être et le Néant và ngay sau đó. Tất nhiên, L'Être et le Néant và những tác phẩm hình thành song song cũng có những ý tưởng xuất phát từ bước ngoặt kia, từ sự đương đầu bất ngờ giữa Sartre với Lịch Sử. Những điều ấy thể hiện lần đầu tiên dưới dạng nào, ở tác phẩm nào, là đề tài nghiên cứu lý thú không bàn ở đây được, Báo chí sẽ vác kéo hoặc cây búa tạ và lưỡi liềm sắc bén để hớt cắt đục, nhường chỗ cho tác giả khác, nhất là nhà thơ. Thế cũng phải.

Về mặt triết lý, nội dung chung của những tác phẩm kể trên được lý thuyết hoá trong L'Être et le Néant. Ta hãy thử tìm hiểu, theo Sartre[29], nó thế nào.

 

L'Être et le Néant là một quyển sách đồ sộ, khổ lớn, chữ nhỏ, dài hơn 700 trang, rất khó hiểu, đọc vài trang đã chóng mặt, đổ mồ hôi.

 

Lý do thứ nhất : ai không quen phương pháp suy luận biện chứng của Hegel, khó mà hiểu được. Thời ấy, ở Pháp ít ai biết đến Hegel. Một vài trí thức Pháp biết Hegel qua những bài giảng của Alexandre Kojève (1933-1939) tại École des Hautes Études[30]. Tới giữa những năm 70, Pháp mới bắt đầu xuất bản Hegel toàn tập.

 

Lý do thứ hai : Sartre vận dụng một văn phong cực kỳ lạ, rất thích hợp với kiểu suy luận biện chứng. Trong kiểu suy luận ấy, không có gì tĩnh cả, mọi sự đều động. Không những thế, mọi sự đều tự nó vận động. Ðể thể hiện điều đó, Sartre lôi cổ tiếng Pháp ra khỏi khung duy lý hình thức của nó, vặn vẹo nó, liên miên khích động[31] danh từ, tạo nhiều động từ mới. Kết quả, đầy những câu kiểu : Le présent n'est pas, il se présentifie. Hiện tại không là, nó tự hiện tại hoá. Le soi n'est pas, il est été. Cái tôi không là, nó đã bị là. Se présentifier est été không có trong tiếng Pháp ! Ðọc liền tù tì 10 trang văn kiểu ấy, độc giả khép sách đi ngủ, khá tự nhiên. Tuy vậy, chịu khó tạm quên mình một tí, đọc ngấm đòn, cũng quen thôi, có thể hiểu rõ ý vì Sartre viết chính xác, chặt chẽ, nội dung nhất quán và, như Jeanson đã làm, trình bầy lại một cách dễ hiểu hơn.

 

Lý do thứ ba : khái niệm être là khái niệm cơ bản trong triết học Tây Âu, mỗi triết gia có định nghĩa riêng về nó. Từ être trong tiếng Pháp vừa là danh từ vừa là một động từ cơ bản, khó lòng viết một trang mà không dùng nó nhiều lần. Cả hai có vô số nghĩa. Do sự nhập nhằng đó, quyển sách rất khó hiểu. Trong một câu văn, có thể có nhiều từ être với nghĩa khác nhau, phải dịch bằng những từ ngữ khác nhau mới hiểu được.

 

Vì thế, dịch hay trình bầy triết lý của Sartre trong một ngôn ngữ khác hẳn tiếng Pháp rất khó.

Sau đây, tôi xin thử trình bầy lại trong tiếng Ziao Chỉ lõi đặc thù của L'Être et le Néant, vài khái niệm chính được định nghĩa trong đó và nhận diện hình thái văn chương của chúng trong tác phẩm của Sartre. Xin lỗi trước độc giả, nếu tôi thất bại.

 

Ðể hiểu vấn đề được bàn ở đây, phải đặt triết lý của Sartre trong bối cảnh triết học Châu Âu, bắt đầu từ Descartes cho đỡ phải lần mò tới những triết gia Hy Lạp cổ. Trong bối cảnh ấy, có ba câu hỏi lớn :

- Thực-thể (L'Être) có thực hay không có thực. Nếu có, bản chất của nó là gì ?

- Tinh-thần có thực hay không có thực. Nếu có, bản chất của nó là gì ?

- Tinh-thần có thể hiểu thực-thể hay không ? Vì sao ?

 

Trả lời của Descartes[32]

Ða số triết gia Tây Âu coi Descartes như người mở đường cho tư duy triết học hiện đại. Descartes[33] khẳng định :

- Thế giới ngoài Tôi có thực.

- Tôi có thực (Je pense donc je suis).

Trong triết lý ấy, Tôichủ thể tự do của tư duy[34], gốc của toàn bộ những khái niệm liên quan tới khả năng ý thức và suy luận : tinh thần, esprit, hay linh hồn, âme (đối với Descartes đồng nghĩa) ; ý thức, conscience ; lý trí, intelligence ; hiểu biết, comprendre, v.v.

Nếu ta trình bầy lại nội dung của Méditations (Suy ngẫm) với ngôn ngữ ngày này thì trong thế giới quan và nhân sinh quan của mình, Descartes phân biệt :

- Thế giới vật chất (corps) tự tại, bất diệt, độc lập với những gì ta có thể nghĩ về nó.

- Thế giới sinh vật (corps humain), có nhục cảm (sensations, sens…).

- Thế giới tinh thần, hoàn toàn độc lập với thế giới vật chất, khác nhau về chất (substances différentes)

Tinh thần có thể hiểu thế giới vật chất nếu biết suy luận một cách có phương pháp (Discours de la Méthode, Bàn về phương pháp suy luận)

 

Descartes không nói tính đặc thù của substance des corps ([bản] chất của vật thể) là gì. Nhưng ông là một nhà vật lý có tầm cỡ thời ông và tác phẩm của ông cũng cho phép ta hiểu : tính vật chất (matérialité). Vì thế Engels đề cao Descartes như một triết gia duy vật. Ngày nay, ta có thể nói : là năng lượng, tuy khái niệm năng lượng cũng không dễ hiểu ! Khái niệm vật chất (matière) cũng vậy nốt !

 

Descartes cũng không nói tính đặc thù của substance de l'esprit ([bản] chất của tinh thần) là gì. Nhưng ít nhất và rất rõ, có ý này : phi vật chất. Nó thuộc lĩnh vực khác, liên hệ tới Thượng Ðế.

Ở đây, tôi không bàn tới thế giới sinh vật trong tư duy của Descartes. Bản thân Descartes đã mô tả sinh vật như những cỗ máy phức tạp. Nhưng trong tác phẩm triết của ông, có nhiều nhận xét hết sức độc đáo vẫn còn rất thời sự ngay sau khi đọc những quyển sách như La logique du vivant ( Lôgíc của sự sống) của François Jacob (Nobel Y học) hay những bài về sinh học mới đây trong L'Université de tous les savoirs[35],(Ðại học của mọi kiến thức).

 

Nhân sinh quan của Descartes nêu một câu hỏi nan giải. Người đầu tiên phát hiện và đặt câu hỏi đó là Công chúa Élisabeth de Bohême trong thư từ với Descartes : nếu tinh thần phi vật chất, làm sao nó điều khiển được cơ thể của con người ? Descartes công nhận rằng chàng không có giải đáp hợp lý[36]. Mỹ nhân khả úy ! Người say sưa triết lý nên mê mấy bà ! Ðảm bảo triết học sẽ nồng nàn khởi sắc liền tù tì. Hè hè, triết gia…

 

Trong thế kỷ 20, Schrödinger (Nobel vật lý lượng tử) đặt lại vấn đề này trong ngôn ngữ vật lý lý thuyết đời nay[37]. Ông cho rằng tính khách quan (objectivité, di sản của Descartes) trong khoa học chỉ là một giả thuyết nhằm đơn giản hoá một vấn đề quá phức tạp. Nếu tin tưởng tuyệt đối giả thuyết đó, không thể giải thích khả năng hiểu biết thế giới vật chất của con người[38]. Không ai có thể biết bất cứ gì về một hệ thống vật chất đóng (système matériel fermé). Ðể tìm hiểu một hệ thống vật chất, ta phải tác động vào nó bằng một năng lượng, xem nó phản ứng thế nào. Tinh thần không là năng lượng, không thể tác động vào một hệ thống vật chất, do đó không thể hiểu thế giới vật chất ! Vì thế Schrödinger đã đi tìm giải đáp trong triết lý của Mach[39] và trong những Veda của Ấn Ðộ cổ. Ông khẳng định : sẵn sàng từ bỏ tư duy duy lý hình thức với điều kiện có một kiểu tư duy nào hơn nó tức là, tối thiểu, cho phép con người đạt những kiến thức nó đã đạt được với tư duy duy lý hình thức.

 

Toàn bộ những trước tác của Trần Ðức Thảo, như ông đã từng viết, từ Phénoménologie et matérialisme dialectique ( Hiện tượng luận và chủ nghĩa Duy vật biện chứng), cho tới khi ông chết ở Paris, cũng nhằm giải quyết câu hỏi trên.

 

Trả lời của Kant

Nhân sinh quan của Kant (Critique de la raison pure “ Phê phán Lý trí tinh khiết”) cơ bản vẫn là nhân sinh quan của Descartes : hai thế giới biệt lập, vật chất và tinh thần. Bước phát triển căn bản : tinh thần chỉ có thể biết thế giới vật chất qua những dạng mà giác quan của con người cảm nhận nó[40]. Những dạng ấy, Kant gọi là hiện tượng (phénomène). Con người không có khả năng biết Sự vật - tự nó, chỉ có khả năng biết nó xuyên qua những hiện tượng. Một đặc điểm của hiện tượng là nó có hình thái (forme). Nhưng khả năng phát hiện hình thái đòi hỏi một tiền đề : linh thức (intuition transcendentale) Không gian. Một hình thái chỉ có thể xuất hiện trên một cái phông : Không gian. Cũng với suy luận kiểu này, Kant đặt ra một linh thức khác, Thời gian và khẳng định hai linh thức ấy cần và đủ để giải thích khả năng ý thức, hiểu biết của con người trong mọi lĩnh vực[41]. Sau đó, ông bàn liên miên về 10 phạm trù cơ bản của tư duy của Aristote.

 

Có lẽ dịch forme bằng hình thù chính xác hơn vì trong đoạn văn bàn tới vấn đề này, Kant nói tới những gì con mắt có thể cảm nhận. Nhưng dịch bằng hình thái đúng hơn với khái niệm triết forme. Khái niệm đó ám chỉ toàn bộ khả năng cảm nhận của con người, cơ sở của khái niệm monde sensible, thế giới ta cảm nhận. Bản thân con mắt cũng thấy cùng lúc hình thù và mầu sắc ! Chưa kể đến khả năng cảm nhận thế giới ngoài Tôi của những giác quan khác.

Hai điều quan trọng ở đây [ý của tôi] :

 

- Kant gắn liền khả năng ý thức của con người với tính sinh vật của nó !

- Khái niệm hiện tượng của Kant không ám chỉ một thuộc tính của sự vật hay một thuộc tính của tinh thần. Nó cũng không ám chỉ một 'cái gì' có thực trong thế giới tự nhiên. Nó diễn đạt quan hệ giữa tinh thần với thế giới bên ngoài. Quan hệ đó bị ngôn ngữ 'vật thể hoá' thành danh từ, điều khá 'tự nhiên' trong tiếng Ðức hay tiếng Pháp và cũng phù hợp với nhân sinh quan của Kant : đó là một quan hệ không có thời gian tính.

 

Trả lời của Hegel

Hegel phủ định triết lý của Kant, đưa ra một thế giới quan và một phương pháp suy luận mới. Trong thế giới quan của Hegel, không còn sự phân li tuyệt đối giữa thế giới bên ngoài và ý thức. Thế giới thực (le réel) là một thế giới thống nhất :

Ce qui est rationnel est réel ; et ce qui est réel est rationnel, Ðiều có lý có thực, và điều có thực có lý[42].

 

Quan trọng hơn : thế giới thực đó không ngừng vận động, biến tướng. Ðiều chúng ta có thể ý thức và hiểu không là bản chất (essence) hay bản thể (être) của sự vật, tất cả những thứ đó chỉ là những hình thái tạm thời trong quá trình vận động của mọi sự. Ðiều ta có thể hiểu là quá trình vận động không ngừng sản sinh mọi sự vật, sự kiện, từ thế giới vật chất đến tư duy của con người. Phương pháp suy luận biện chứng cho phép ta hiểu quá trình vận động ấy.

 

Theo Engels, Hegel sống trong một thời đại có thời trang sau : triết gia chưa xây dựng một hệ thống tư duy vĩnh viễn bao trùm mọi kiến thức, giải thích mọi chuyện, vạch ra sự thực tuyệt đối, chưa đáng mặt triết gia. Do đó Hegel đã gói ghém toàn bộ trước tác của ông trong một hệ thống kiến thức với một khởi điểm duy nhất (đồng thời cũng là kết quả cuối cùng) là Ý Niệm Tuyệt Ðối (Idée Absolue[43]). Ý Niệm Tuyệt Ðối tự phân hoá thành hai cực đối lập, mỗi cực lại tự phân hoá thành hai cực đối lập khác, và cứ thế vũ trụ, sự sống và tư duy hình thành. Tóm lại : mọi sự đều vô ngã, vô thường, Thái Cực sinh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng, Tứ Tượng sinh Bát Quái… cứ như triết lý mà Chu Chỉ Nhược mách khéo cho Trương Vô Ky trên Quang Minh Ðỉnh ! May thay, Hegel không biết võ công, không có nhu cầu ký đầu ai để giúp người ấy thành Phật. Ông chỉ muốn giải thích quá trình phát triển của lý trí.

 

Trong nhân sinh quan của Hegel, toàn bộ những gì con người có thể bàn tới chỉ là những hình thái tạm thời, có tính lịch sử, của một quá trình vận động. Ðóng góp đặc sắc của Hegel là một phương pháp suy luận cho phép tìm hiểu quá trình vận động đó trong đủ thứ lĩnh vực của tư duy, phương pháp suy luận biện chứng. Hegel lớn ở đó. Người đời sau chế diễu ông đã đồng nhất Ý thức tuyệt đối với triết lý của ông và sự hiện thực của nó với Nhà nước Phổ : tiểu nhân đắc chí.

Năm 1933, Sartre được một học bổng, qua Berlin một năm, tìm hiểu Hiện Tượng Luận (Phénoménologie) của Husserl. Năm 1945, Sartre mới đọc Phénoménologie de l'Esprit ( Hiện tượng luận về Tinh thần) của Hegel. Nhưng trong L'Être et le Néant, chàng bàn tới Hegel rất nhiều. Có thể chàng biết Hegel qua những giáo trình của Kojève, nhưng cũng có thể là qua sách chàng đọc tại Berlin.

 

Trả lời của Sartre

Nhân sinh quan của Sartre nằm trong nhân sinh quan của Descartes : có một thế giới vật chất tự-tại ngoài ý-thức của con người và một thế giới tinh thần khác hẳn, tuy không độc lập với nó (khác Descartes) nhưng không phụ thuộc nó, biệt lập (transcendant, giống Descartes).

 

Bản thể của Thực-thể-tự-tại, Être-en-soi

Sartre khởi đầu bằng nhận xét của Husserl[44] : ý-thức luôn luôn là ý-thức về điều gì, la conscience est toujours conscience de quelque chose. Quelque chose có thể dịch là cái gì. Dịch thế, không đúng. Cái gì đó, trong triết lý của Sartre có thể là chính mình ! Nhưng trong nhiều thí dụ, Sartre dùng vật thể làm đối tượng của ý-thức, trong trường hợp đó, dịch bằng cái gì dễ nghe hơn[45]. Ý-thức về cái gì cũng có nghĩa không là cái đó. Thí dụ : ta ý-thức về cái bàn thì ta không là cái bàn. Nguồn gốc và ý nghĩa của phủ định (négation) nằm ngay trong hai từ không là đó. Khác biệt cơ bản giữa thực-thểý-thức ở đó. Thực-thể tự nó nó, chỉ nó, luôn luôn và vĩnh viễn nó. Ý-thức không là.

 

Hình thái ý-thức này, Sartre gọi là cogito preréflexif, ý-thức chưa có suy luận. Một loại ý-thức-trực-giác.

Chương đầu của L'Être et le Néant kết thúc như thế. Kết luận chính, tính đặc thù của thực-thể là :

L'être est. L'être est en soi. L'être est ce qu'il est.[46]

 

Thực-thể là. Thực-thể tự-tại. Thực-thể là cái gì nó là.

il ne se pose jamais comme autre qu'un autre être ; il ne peut soutenir aucun rapport avec l'autre. Il est lui-même et il s'épuise à l'être[47].

 

nó không bao giờ tự đặt mình như khác một thực-thể khác ; nó không có khả năng quan hệ với bất cứ gì khác nó. Nó là nó và là như thế đến kiệt sức[48].

Nhìn theo góc độ của người (anthropologie) :

Incréé, sans raison d'être, sans rapport aucun avec un autre être, l'être-en-soi est de trop pour l'éternité[49].

 

Không do ai tạo ra, không có lý do tồn tại, không có quan hệ nào với một thực-thể khác, thực-thể-tự-tại vĩnh cửu có thừa[50].

 

Thực-thể ấy, Sartre gọi là être-en-soi, thực-thể-tự-tại, cho nó là ngẫu nhiên (contingent), không cần thiết, không có lý do tồn tại. Nếu ta hiểu être-en-soi là toàn bộ vũ trụ vật chất thì đây là thực-thể của Descartes và Kant. Hiểu như thế, sai. Trong tư tưởng của Sartre nó còn có cả một phần của con người.

 

Hư-vô, Néant

Ðặt câu hỏi về bất cứ điều gì là chấp nhận trước khả năng có 2 trả lời : hoặc không, linh cảm hiện diện của hư-vô. Hư-vô đối với cả vũ trụ : ngoài vũ trụ, có gì ? Không có gì cả. Hư-vô đối với chính mình : ta gì ? Không biết. Không là gì cả.

La condition nécessaire pour qu'il soit possible de dire non, c'est que le non‑être soit une présence perpétuelle, en nous et en dehors de nous, c'est que le néant hante l'être[51].

Ðiều kiện cần thiết để có thể nói không là vô-thể luôn luôn có mặt, trong chúng ta và ngoài chúng ta, là hư-vô ám ảnh thực-thể.

Thực-thể-vì-mình ( Être-pour-soi).

 

Hư-vô từ đâu ra ?

Nó không thể từ thực-thể-tự-tại mà có được. Thực-thể-tự-tại nó, vĩnh viễn nó, không thể tiết ra một điều gì khác nó. Hư-vô không thể tự-tại vì nó không có thực. Nó không thể có một cách độc lập với thực-thể-tự-tạihư-vô luôn luôn là hư-vô của một điều gì, le néant de quelque chose. Hư-vô cũng không thể tự-hư-vô-hoá, vì trước khi có thể tự-hư-vô-hoá, phải cái đã :

Le Néant n'est pas, le Néant ‘est été’ ; le Néant ne se néantise pas, le Néant 'est néantisé'[52]'.

Hư-vô không là, Hư-vô 'đã bị là' ; Hư-vô không tự-hư-vô-hoá, Hư-vô 'đã bị hư-vô-hoá'.

Người Pháp cũng khó mà hiểu nổi ! Chia động từ être kiểu này không có trong tiếng Pháp, chỉ bắt đầu xuất hiện dưới ngòi bút của Sartre. Ý thế này : hư-vô không tự nó có thực, nó là kết quả của một quá trình hư-vô-hoá như quá khứ là kết quả của quá trình sống. Ðiều quan trọng ở đây : chủ thể của quá trình hư-vô-hoá không là Hư-vô ('đã bị hư-vô-hoá').

Vậy, phải có một thực-thể mang hư-vô vào thế giới : un être par qui le néant vient aux choses[53].

 

Ðể làm chuyện ấy :

l'être par qui le Néant vient au monde doit être son propre Néant[54].

thực-thể mang Hư-vô vào thế giới phải là Hư-vô của chính mình.

Ðó là bản thể của nó. Thực-thể ấy chính là con người.

Con người có ý-thức về. Nhưng nó không thể ý-thức về bất cứ điều gì mà không đồng thời ý-thức rằng nó đang ý-thức, la conscience d'être conscient, không thể không ý-thức về chính mình (soi). Ý-thức về mình cũng có nghĩa : không mình, là hư-vô-hoá chính mình ! Ðể nhấn mạnh hình thái ý-thức đặc biệt này, Sartre viết : conscience (de) soi, ý-thức (về) mình . Thực-thể đặc biệt này Sartre gọi là Thực-thể-vì-mình, Être-pour-soi.

 

Cette possibilité pour la réalité humaine de sécréter un néant qui l'isole, Descar­tes, après les Stoïciens, lui a donné un nom : c'est la liberté[55].

 

Khả năng tiết ra một hư-vô tách mình ra khỏi mọi sự của hiện-thực-người, Descartes, sau các triết gia của phái Khắc-kỷ, đã đặt tên cho nó : tự-do.

 

Ce que nous appelons liberté est donc impossible à distinguer de l'être de la 'réalité humaine'. L'homme n'est point d'abord pour être libre ensuite, mais il n'y a pas de différence entre l'être de l'homme et son 'être‑libre'.

 

Như thế, điều chúng ta gọi là tự-do không thể phân biệt được với thực-thể của 'hiện thực người'. Con người không đã có để rồi trở thành tự-do sau đó. Không có khác biệt giữa thực-thể người với 'là-tự-do'.

 

Cái mình (soi) kia, Sartre gọi là bản chất, essence của con người. Nó không có tự nó, nó là sản phẩm của toàn bộ quá trình tự-hư-vô-hoá của ta, nó là ta dưới dạng đã bị là. Vì thế, ta chỉ trở thành ta sau khi chết và chỉ lúc đó người đời mới biết được ta gì, ai. Sartre bình luận câu văn nổi tiếng của Malraux như vậy : Cái chết biến cuộc sống thành định mệnh (La mort transforme la vie en destin). Khi đã chết, con người hết khả năng thay đổi đời mình, cuộc đời ấy đọng lại thành thực-thể-tự-tại, khách quan, thành định mệnh. Nó nó, chấm hết. Ý nghĩa, giá trị của nó đều do tha-nhân quyết định. Ðây là nội dung cơ bản của vở kịch Huis-Clos( Xử kín).

 

Ba nét đặc thù của thực-thể-vì-mình là :

a/ nó ngẫu nhiên như thực-thể-tự-tại vì nó không thể có ngoài thực-thể-tự-tại.

b/ tuy nó có sau thực-thể-tự-tại, nó không lệ thuộc thực-thể-tự-tại, nó biệt lập (transcendant).

c/ nó không là nền tảng của nó (fondement de soi) nên luôn luôn thiếu hụt (manque) điều gì để chính mình như thực-thể-tự-tại. Ðiều nó thiếu hụt chính là điều nó hư-vô-hoá : thực-thể-tự-tại. Thực-thể-tự-tại ám ảnh nó. Vì nó hư-vô-hoá chính mình, nó thiếu hụt… chính mình !

Ainsi cet être perpétuellement absent qui hante le pour‑soi, c'est lui‑même figé en en‑soi. C'est l'impossible synthèse du pour‑soi et de l'en‑soi : il serait son propre fondement non en tant que néant mais en tant qu'être et garderait en lui la translucidité nécessaire de la conscience en même temps que la coïn­cidence avec soi de l'être en soi[56].

 

Như thế, cái thực-thể luôn luôn vắng mặt ám ảnh thực-thể-vì-mình, là chính nó đọng lại thành thực-thể-tự-tại. Ðó là sự tổng hợp bất khả thi của thực-thể-tự-tại với thực-thể-vì-mình : nếu khả thi, thực-thể-vì-mình sẽ là nền tảng của chính mình, không với tư cách hư-vô mà với tư cách thực-thể, vừa giữ sự trong suốt cần thiết của ý-thức vừa trùng hợp với chính mình như thực-thể-tự-tại.

 

Thực-thể-do-tha-nhân( Être-pour-Autrui).

Ta trực giác tha-nhân qua thể-xác[57] (corps) của ta và của tha-nhân. Bản thể của thể-xác là :

J'existe mon corps : telle est sa première dimension d'être. Mon corps est utilisé et connu par autrui : telle est sa seconde dimension. Mais en tant que je suis pour autrui, autrui se dévoile à moi comme le sujet pour lequel je suis objet. [...] J'existe pour moi comme connu par autrui à titre de corps. Telle est la troisième dimension ontologique de mon corps[58].

Ta nghiệm sinh thể-xác của ta : đó là kích thước bản thể đầu tiên của nó. Thể-xác của ta, tha-nhân dùng và biết : đó là kích thước bản thể thứ hai của nó. Nhưng vì ta đối với tha-nhân, tha-nhân tự lộ diện với ta như một chủ thể lấy ta làm vật thể. [...] Ta nghiệm sinh chính ta như một thể-xác mà tha-nhân biết [là gì]. Ðó là kích thước bản thể thứ ba của thể-xác của ta.

Trực giác ấy bao hàm hai ý nghĩa :

 

a/ Tha-nhân ý-thức về ta.. Ðối với tha-nhân ta một cái gì. Vậy tha-nhân có thể mang lại điều ta thiếu hụt : thực-thể-tự-tại, khiến ta ta.

b/ ta gì trong mắt tha-nhân, ta không thể biết, không thể làm chủ vì tha-nhân tự-do như ta.

[…] l'existence d'autrui me révèle l'être que je suis, sans que je puisse ni m'approprier cet être ni même le conce­voir, […] autrui me regarde et, comme tel, il détient le secret de mon être, il sait ce que je suis[59] ;

 

[…] sự hiện hữu[60] của tha-nhân tiết lộ cho ta rằng ta , mặc dù ta không thể nào chiếm hữu thực-thể đó và cũng không có ngay cả khả năng hình dung nó thế nào […] tha-nhân nhìn ta và, trong tư thế ấy, nắm giữ bí mật của thực-thể của ta, nó biết ta là gì ;

Diễn Nôm : Mình chỉ biết mình gì, ai qua ánh mắt của người khác !

[…] en tant qu'autrui comme liberté est fondement de mon être‑en‑soi, je puis chercher à récupérer cette liberté et à m'en emparer, sans lui ôter son caractère de liberté : si je pouvais, en effet, m'assimiler cette liberté qui est fondement de mon être‑en‑soi, je serais à moi-même mon propre fondement[61].

 

Vì tha-nhân, với tư cách là tự-do, là nền tảng của thực-thể-tự-tại của ta, ta có thể tìm cách chiếm hữu tự-do ấy tuy không hủy bỏ tính tự-do của nó : đúng thế, nếu ta nhập được vào ta cái tự-do làm nền tảng cho thực-thể-tự-tại của ta, ta sẽ là nền tảng của chính mình.

 

Hoài bão ấy, đam mê ấy, Sartre gọi là… tình-yêu[62] !

Ê, diễn Nôm để xả hơi một tí nhe. Nếu em yêu anh vì : a/ anh đẹp trai, b/ anh học giỏi, có nhiều bằng cấp, c/ anh con nhà giàu, có đầy tiền, anh không thích đâu. Anh muốn em yêu anh vì anh anh và, do đó, em không thể yêu ai khác. Này, chàng ơi, muốn thế thì bỏ mạng đấy, Ðịa ngục, chính là nàng đấy.

 

L'Être et le Néant gồm :  Nhập đề : bàn về Thực-thể-tự-tại. Phần 1 : bàn về Hư-vô. Phần 2 : bàn về Thực-thể-vì-mình. Phần 3 : bàn về Thực-thể-do-tha-nhân. Phần 4 : bàn về Sở-hữu, Làm, Avoir, Faire et Être. Phần 5 : kết luận.

Tuy những đàm luận của Sartre lý thú, ta nên ngừng ở đây. Nội dung các phần còn lại có thể suy diễn ra dễ dàng. Vắn tắt. Ðam mê sở-hữu là một đam mê hão, thể hiện nếp sống không trung thực. Quan hệ giữa làm phức tạp hơn. Ta bắt buộc phải làm để . Nếu ta làm để tổng thống, tỷ phú, nhà văn hay đĩ, ta sống một cách không trung thực. Nếu ta muốn sống trung thực với chính mình, ta nên sống để làm người, kẻ không ngừng phủ định tất cả, nhất là chính minh.

 

Khái niệm tự-do-trong-bối-cảnh (liberté en situation)

Con người có khả năng phủ định vì nó tự-do. Nhưng không có phủ định hay tự-do chung chung. Phủ định luôn luôn là phủ định điều gì. Tự-do luôn luôn là tự do đối với. Ta phủ định điều gì, điều đó định nghĩa ta, ta đã bị điều ấy. Vì thế Sartre lật ngược câu của Spinoza và viết : Toute détermination est négation, Mọi xác định đều là phủ định[63]. Câu văn nổi tiếng của Spinoza là : Toute négation est détermination, Mọi phủ định đều là xác định. Hegel đồng ý với Spinoza nên cho rằng phủ định một điều gì nghĩa là vượt (dépasser) nó nhưng vẫn giữ nó trong mình. Một thí dụ dễ hiểu : quan điểm về vũ trụ của Einstein phủ định quan điểm của Newton. Nó không xoá sạch quan điểm của Newton, vẫn đúng vẫn hữu dụng trong một khung cảnh hành động nhất định. Nó bao trùm, giải thích, hoàn thiện quan điểm của Newton. Một thí dụ khó nuốt : tôi phủ định chủ nghĩa cộng sản thì nó định nghĩa chính tôi. Người đời, cảm nhận lờ mờ điều ấy, gọi tôi là người chống cộng. Tự-do đối với có nghĩa : dù muốn dù không, ta tự-do nhưng, cụ thể, ta tự-do đối với điều ta phủ định, ta tự-do tùy và mặc dù hoàn cảnh, ta tự-do-trong-bối-cảnh.

 

Khái niệm Thượng đế, Dieu (Chúa của Ky-tô giáo)

Thượng đế là thực-thể tự-tại vì-mình, être-en-soi et pour-soi. Ðiều đó mâu thuẫn, không thể có được.

 

Khái niệm sự thực (vérité), sự trung thực với chính mình (authenticité), sự giả dối với chình mình (mauvaise fois)

Nói sự thực là nói mọi chuyện đúng như nó nó.

Ngay trong quan hệ giữa người với thế giới vật chất cũng không thể làm được. Tôi ngắm ly rượu, phán : rượu mầu đỏ. Tôi nói dóc. Làm gì có mầu tự nó đỏ ! Trong vật lý, mầu đỏ là một cụm từ vô nghĩa, vô dụng, không thể đưa vào một phương trình tính toán. Trong vật lý, chỉ có độ dài của một làn sóng biểu hiện bằng một con số (lượng), không có mầu đỏ. Mầu đỏ là một quan hệ về chất giữa một cá nhân với thế giới[64]. Quan hệ cá nhân ấy chỉ có giá trị cá nhân.

 

Trong quan hệ giữa người với người, giữa con người với chính mình, càng không thể thực hiện được. Con người chỉ là quá trình phủ định tất cả, kể cả chính mình, nó không tài nào nó, không thể gì cả, nó không có khả năng nói nó gì, ai, không có khả năng nói sự thực về nó. Ðiếu đó, nó biết rõ qua nghiệm sinh của nó. Khi nó giả vờ sống như thể nó cái gì, chính mình, cần thiết, có lý do tồn tại, có nghĩa, có giá trị tự nó, nó tự dối mình (mauvaise fois), sống một cách không trung thực (inauthentique). Nó làm vậy vì nó khát khao tự-tại (la foi de la mauvaise foi, niềm tin của sự giả dối). Sartre đã từng giải thích, những nhân vật trong 4 truyện ngắn của tuyển tập Le Mur, Bức tường, đều thể hiện nếp sống không trung thực[65]. Lời đó có thể áp dụng cho toàn bộ tác phẩm văn chương của Sartre trong gian đoạn này.

 

Trong L'Être et le Néant, dựa vào một số nhận xét, khái niệm cơ bản, Sartre phân tích, định nghĩa lại rất nhiều khái niệm của triết học, của đời sống hàng ngày : Thực-thể, Hư vô, khách quan, chủ quan, khả năng hỏi, sự giả dối với chính mình, sự thực, sự thành thực, mình, thời gian, lượng và chất, kiến thức, thể xác, tình yêu, ngôn ngữ, nhu cầu hành hạ mình, sự thèm muốn xác thịt, sự thù hận, nhu cầu tra tấn người khác, tự-do, v.v. Những phân tích ấy đều đáng đọc, chúng bổ sung nhau một cách nhất quán. Không thể trình bầy lại ở đây. Tuy vậy, những phân tích ấy xuất phát từ một lõi lý luận chung. Ðể dễ nhớ, tôi gạt qua những suy luận chi tiết, tóm tắt thô sơ tư tưởng của L'Être et le Néant như sau. ..

 

 

Xem tiếp phần 2

 

 

 

Phan Huy Đường
Số lần đọc: 4375
Ngày đăng: 23.12.2009
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Cảnh trong thơ sơn thủy đời Đường – nhìn từ nỗi sầu nhân thế - Nguyễn Thành Giang
Thanh Thảo và Thơ - Trần Hoài Anh
Vòng vo về trường-phái-nhóm thơ Việt từ cảm xúc Hậu hiện đại Việt - Đỗ Quyên
Đi tìm chân trời cho thơ - Dương Bích Duyên
Quan Điểm Mỹ Học của Lão Trang - Nguyễn Trúc Uyên
Nghệ thuật chơi chữ trong ca dao dân ca Việt Nam - Trần Minh Thương
Người đọc trong quan niệm của lý luận - phê bình văn học đô thị miền Nam 1954-1975 - Trần Hoài Anh
Từ một câu Ca Dao hiểu câu thơ Hàn Mặc Tử - Trương Quang Cảm
Thơ xứ Huế 2009 - một năm nhìn lại - Lê Huỳnh Lâm
Thơ Inrasara, cách tân theo tinh thần hậu hiện đại - Lê Thị Việt Hà