Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.384 tác phẩm
2.747 tác giả
490
116.585.286
 
Nguyễn Khuyến - Mơ Màng Cuộc Thế Cũng Cầm Bằng 1
Đỗ Ngọc Thạch

Nguyễn Khuyến (*) là nhà thơ quen thuộc của đông đảo công chúng văn học trước hết bởi tài học với ba lần đỗ đại khoa, chính vì thế mà người ta gọi ông bằng tên làng Yên Đổ cùng với chiến tích thi cử: Tam Nguyên Yên Đổ. Sự vinh danh đó rất xứng đảng bởi thơ Nguyễn Khuyến có một Tình quê vô bờ bến và có một chùm ba bài thơ viết về quê hương vào loại kiệt tác mà mỗi khi nói đến ông người ta đều thấy lời thơ như đang ngân lên giữa trời thu xanh ngắt mấy tầng cao:

 

Thu  Ẩm

 

Năm gian nhà cỏ thấp le te,

Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe,

Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,

Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.

Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt?

Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe.

Rượu tiếng rằng hay, hay chả mấy,

Độ năm ba chén đã say nhè.

 

Thu  Điếu

       

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.

Tựa gối buông cần  lâu chẳng được,

Cá đâu đớp động dưới chân bèo.

 

Thu Vịnh

 

Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,

Cầu trúc lơ phơ gió hắt hiu.

Nước biếc trông như tầng khói phủ,

Song thưa để mặc bóng trăng vào.

Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,

Một tiếng trên không ngỗng nước nào?

Nhân hứng cũng vừa toan cất bút.

Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào (**).

 

Có thể nói Nguyễn Khuyến là nhà thơ kết tụ được nhiều nhất tâm hồn Việt và được đông đảo công chúng văn học thuộc lòng nhiều nhất, có lẽ chỉ sau Nguyễn Du với Truyện Kiều. Nói đến Nguyễn Khuyến, người yêu thơ ông còn có thể đọc ra ngay những bài thơ trào phúng rất thâm thúy của ông như Vịnh Tiến sĩ giấy hoặc Văn tế Ngạc Nhi: (Sau khi Francis Garnier - “dịch ra tiếng ta” là Ngạc Nhi -, bị tử trận ở trận Cầu Giấy năm 1873, Tổng đốc Hà Nội là Trần Đình Túc vâng lệnh triều đình tìm cách hòa hoãn với quân Pháp nên phải tổ chức lễ truy điệu. Nguyễn Khuyến là bậc đại khoa được cử viết bài văn tế này):

 

Than ôi! Một phút sa cơ, ra người thiên cổ

Nhớ ông xưa: Cái mắt ông xanh, cái da ông đỏ

Cái tóc ông quăn, cái mũi ông lõ

Đít ông cưỡi lừa, miệng ông huýt chó

Ông đeo súng lục-liên, ông đi giày có mỏ

Ông ở bên Tây, ông sang bảo-hộ

Ông dẹp Cờ Đen, để yên con đỏ

Nào ngờ: Nó bắt được ông, nó chặt mất sỏ

Cái đầu ông kia, cái mình ông đó

Khốn-khổ thân ông, đù mẹ cha nó

Tôi: Vâng lệnh quan trên, cúng ông một cỗ

Này chuối một buồng, này rượu một hũ

Này xôi một mâm, này trứng một rổ

Ông có linh-thiêng, mời ông xơi hộ

Ăn uống no say, nằm cho yên chỗ

Ới ông Ngạc Nhi ơi! Nói càng thêm khổ!

 

Nói đến chuyện “chống Tây” bằng thơ, hầu như ai cũng biết đến bài Hội Tây:

(Hội Tây ở đây chỉ ngày kỷ niệm Cách mạng Pháp thành công 14-7).

 

Kìa hội thăng bình tiếng pháo reo:

Bao nhiêu cờ kéo với đèn treo.

Bà quan tênh nghếch xem bơi trải,

Thằng bé lom khom nghé hát chèo.

Cậy sức cây đu nhiều chị nhún,

Tham tiền cột mỡ lắm anh leo.

Khen ai khéo vẽ trò vui thế,

Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu!

 

*

Nguyễn Khuyến là người có phẩm chất trong sạch, mặc dù ra làm quan từ nhỏ đến lớn, nhưng nổi tiếng là thanh liêm, chính trực. Nguyễn Khuyến làm quan tất cả hơn 10 năm. Nguyễn Khuyến bất lực vì không làm được gì để thay đổi thời cuộc nên ông xin cáo quan về ở ẩn. Phần lớn cuộc đời của Nguyễn Khuyến là ở thôn quê. Nhiều giai thoại kể về đời sống đời sống và sự gắn bó của Nguyễn Khuyến đối với nhân dân. Sáng tác của Nguyễn Khuyến hầu hết được làm sau lúc từ quan, hiện còn khoảng hơn 400 bài, gồm thơ, văn, câu đối bằng chữ Hán và chữ Nôm. Có bài ông viết bằng chữ Hán rồi tự dịch ra chữ Nôm, cả hai đều rất điêu luyện. Ông là người có tâm hồn rộng mở, giàu cảm xúc trước cuộc sống và gắn bó với thiên nhiên. Thiên nhiên, quê hương luôn gợi cảm hứng thi ca đối với ông. Ông luôn buồn vì cảnh quê nghèo:

 

Chốn quê

 

Năm nay cày cấy vẫn chân thua,

Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa.

Phần thuế quan Tây, phần trả nợ,

Nửa công đứa ở, nửa thuê bò.

Sớm chưa dưa muối cho qua bữa,

Chợ búa trầu chè chẳng dám mua.

Tằn tiện thế mà không khá nhỉ?

Nhờ trời rồi cũng mấy gian kho.

(Có bản chép: Bao giờ cho hết khỏi đường lo)

 

Và nhớ hoài cái chợ quê với tất cả vui buồn của nó:

 

Chợ đồng

(Xưa kia làng Vị Hạ có chợ Và, hàng năm cứ đến ba phiên chợ cuối năm vào ngày 24, 26 và 30 tháng Chạp là phiên chợ Tết  đông người nên phải chuyển ra họp ở cánh đồng mạ phía tây làng, nên gọi là chợ Đồng, nay không còn chợ này nữa).

 

Tháng chạp hai mươi bốn chợ Đồng,

Năm nay chợ họp có đông không?

Dở trời, mưa bụi còn hơi rét.

Nếm rượu, tường đền[1] được mấy ông?

Hàng quán người về nghe xáo xác,

Nợ nần năm hết hỏi lung tung.

Dăm ba ngày nữa tin xuân tới.

Pháo trúc[2] nhà ai một tiếng đùng.

 

chú thích: 1. Chợ Đồng họp ngay ở bên cạnh một ngôi đền. Xung quanh đền lại đắp tường đất dày bao bọc, gọi là tường đền.     2.Trúc đốt trong lửa, có tiếng nổ.

 

Phần thơ viết về quê hương, đất nước (***) của Nguyễn Khuyến có một vị trí đặc biệt và gần như là cảm hứng chủ đạo trong sáng tạo thi ca của ông, là sự ám ảnh thường trực trong mỹ cảm của nhà thơ:

 

Cuốc kêu cảm hứng

 

Khắc khoải đưa sầu giọng lửng lơ,

Ấy hồn Thục đế thác bao giờ?

Năm canh máu chảy đêm hè vắng,

Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ.

Có phải tiếc xuân mà đứng gọi,

Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ?

Thâu đêm ròng rã kêu ai đó.

Giục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ.

 

Chú thích: Thục đế: vua nước Thục. Truyền thuyết xưa nói vua nước Thục là Đỗ Vũ, sau khi nhường ngôi cho người khác, lên núi ở ẩn, chết hóa thành chim đỗ quyên, tiếng kêu ai oán nhớ nước cũ.

 

Đêm đông cảm hoài

 

Nỗi nọ, đường kia xiết nói năng!

Chẳng nằm, chẳng nhắp, biết mần răng?

Đầu cành, mấy tiếng chim kêu tuyết.

Trước điếm, năm canh chó sủa trăng.

Bảng lảng lòng quê khôn chợp được.

Mơ màng cuộc thế cũng cầm bằng.

Canh gà eo óc đêm thanh thả,

Tâm sự này ai có biết chăng?

 

*

Nguyễn Khuyến và thể Hát nói

Cùng với Nguyễn Công Trứ, Tản Đà, Cao Bá Quát, Trần Tế Xương, Dương Khuê, Nguyễn Thượng Hiền,v.v… Nguyễn Khuyến đã góp phần cho sự phát triển của thể thơ Hát nói - phần lời của Ca Trù (****). Những bài thơ Hát nói của Nguyễn Khuyến không chỉ giàu nhạc điệu, hình ảnh mà đều có ý tứ sâu sắc và được lan truyền rộng rãi. Ví dụ một số bài sau:

 

Hỏi phỗng đá

 

Mưỡu:

 

Người đâu? Tên họ là gì?

Khéo thay, chích chích chi chi nực cười!

Dang tay ngửa mặt lên trời,

Hãy còn lo tính sự đời chi đây?

 

Hát nói:

 

Thấy phỗng đá lạ lùng muốn hỏi:

Cớ sao len lỏi đến chi đây?

Hay tưởng trong cây cỏ, nước non này.

Chí cũng rắp ran tay vào hội Lạc[1]?

Thanh sơn tự tiếu đầu tương bạc,

Thương hải thùy tri ngã diệc âu?[2]

Thôi cũng đừng chắp chuyện đâu đâu,

Túi vũ trụ mặc đàn sau gánh vác.

Duyên hội ngộ là duyên tuổi tác,

Chén chú, chén anh, chén tôi, chén bác,

Cuộc tỉnh say, say tỉnh một vài câu.

Nên chăng đá cũng gật đầu!

 

Chú thích:

1. Lạc Dương ký anh hội, tao đàn thơ đời Tống do Văn Ngạn Bác đứng đầu

2. Chốn núi xanh ta tự cười mình đâu sắp bạc trụi hói; Ở nơi biển xanh, ai biết đâu ta cũng là một con chim âu

Thể loại: Hát nói

 

Đĩ Cầu Nôm

 

(Cầu Nôm là địa danh thuộc làng Đại Đồng, tỉnh Hải Dương. Nhiều ý kiến cho rằng bài hát nói này là lời tác giả dành cho cô Tư Hồng có một thời làm đĩ lấy Tây).

 

Thiên hạ bao giờ cho hết đĩ?

Trời sinh ra cũng để mà chơi!

Dễ mấy khi làm đĩ gặp thời,

Chơi thủng trống long dùi âu mới thích

Đĩ bao tử càng chơi càng lịch,

Tha hồ cho khúc khích chị em cười:

Người ba đấng, của ba loài,

Nếu những như ai thì đĩ mốc.

Đĩ mà có tàn, có tán, có hương án, có bàn độc[1]

Khá khen thay làm đĩ có tông[2]

Khắp giang hồ chẳng chốn nào không.

Suốt Nam Bắc Tây Đông đều biết tiếng.

Đĩ mười phương chơi cho đủ chín,

Còn một phương để nhịn lấy chồng.

Chém cha cái kiếp đào hồng[3],

Bạn với kẻ anh hùng cho đứng số.

Vợ bợm, chồng quan, danh phận đó,

Mai sau ngày giỗ có văn nôm.

Cha đời con đĩ cầu Nôm.

 

Chú thích: 1.Ám chỉ cô Tư Hồng; 2. Có nòi; 3.Kiếp trăng hoa

Thể loại: Hát nói

 

Uống rượu ở vườn Bùi

(Tác giả tự dịch bài Bùi Viên đối ẩm trích cú ca. Thể loại: Hát nói)

Túy Ông[1] ý chẳng say về rượu,


Say vì đâu, nước thẳm với non cao.

Non lặng ngắt, nước tuôn ào,

Tôi với bác xưa nay cùng thích thế.

Đời trước thánh hiền đều vắng vẻ,

Có người say rượu tiếng còn nay[2].

Cho nên say, say khướt cả ngày,

Say mà chẳng biết rằng say ngã đùng.


Chu Bá Nhân[3] thuở trước sang sông.

Chỉ tỉnh rượu ba ngày không phải ít.

Kêu gào thế cười chi cho mệt,

Chớ buồn chi nghe tiếng hát làng say

Xin người gắng cạn chén này.

 

Chú thích:

1. Túy Ông (Ông say) tên hiệu của Âu Dương Tu (1*) đời Tống

2. Dịch câu Cổ kim thánh hiền giai tịch mịch, Duy hữu ẩm giả lưu kỳ danh của Lý Bạch

3. Tức Chu Nghị

 

(1*) Âu Dương Tu (1007 - 1072) có tên tự là Vĩnh Thúc hiệu "Túy Ông" là nhà thơ thời Tống TQ. Quê Âu Dương Tu ở Lư Lăng (nay thuộc tỉnh Giang Tây, Trung Quốc). Năm Thiên Thánh thứ 7(1030) đỗ đầu khoa thi tiến sĩ. Âu Dương Tu là một nhà văn nổi tiếng, một nhà thơ lớn, một nhà sử học, chính trị gia và đồng thời là một nhà làm Từ xuất sắc đời Tống. Ông là người khai sáng ra thể loại "thi thoại"(bình luận và ghi chép lại các cuộc bàn luận của các thi nhân,...), cuốn "Lục Nhất thi thoại" là cuốn thi thoại đầu tiên của Trung Quốc. Âu Dương Tu tự xưng mình là "Lục nhất cư sĩ" (cư sĩ với 6 cái "một": một vạn quyển sách, một ngàn thạch văn, một cây đàn, một bàn cờ, một bầu rượu và một thân già).

 

*

 NHỮNG GIAI THOẠI VỀ NGUYỄN KHUYẾN

 

1. Chày đứng

Đình của làng bên năm nào cũng cháy, dân làng mới dựng lại ngôi đình khác và sang xin nhà thơ Nguyễn Khuyến vài chữ để treo, vì tin rằng ông vốn hay chữ, chắc sẽ trị được "Hỏa thần". Ông bảo người nhà lấy giấy bút, vẽ cho một chữ "Nhất" thẳng đứng, chỉ tội hai đầu hơi to; với lời dặn dò nên cẩn thận củi lửa vào mùa khô.

 

Năm đó, đình làng không cháy, dân làng ca ngợi và cho người sang khoe, luôn tiện hỏi ý nghĩa chữ ông đã viết để "trấn" thần lửa. Ông hóm hỉnh trả lời: - Nào tôi có viết chữ gì đâu, tôi chỉ có vẽ cái "chày đứng", nghĩa là "đừng cháy" đó mà. Điều quan trọng là dân làng đã để ý canh chừng củi lửa, nên đã thoát khỏi nạn cháy đình.

 

2. Đón quan

Con trai cả của Nguyễn Khuyến là Nguyễn Hoan; làm tri phủ Lý Nhân. Một hôm có việc về làng Vĩnh Trụ, dân làng đón rước chậm trễ, tri phủ sai nọc lý trưởng ra đánh, ông này lại là chú vợ của quan. Ít lâu sau, quan phủ về làng Yên Đổ, vừa về đến đầu làng, thì trong đám dân đứng đón, có một  cụ già khăn áo chỉnh tề, bước ra trước mặt quan, cung kính chắp tay vái:

- Lạy quan lớn ạ.

Vừa thấy bố, quan phủ hoảng hốt, nhảy vội ra khỏi võng sụp lạy:

- Con lạy thày, thày tha cho, xin đừng làm vậy.

Nguyễn Khuyến tảng lờ như không, lễ độ nói:

- Nghe tin quan lớn về làng, tôi tuy già yếu, cũng phải thân hành ra đón, kẻo quan lại trách tôi vô lễ mà cho mấy roi như lý trưởng làng Vĩnh Trụ, thì tôi chịu sao nổi.

Nguyễn Hoan biết ý bố muốn dạy mình, vội xin lỗi, và hứa sẽ từ bỏ thói hống hách nghênh ngang.

 

3. Vịnh trâu già

Năm 1902, vua Thành Thái ra Hà Nội khánh thành cầu Doumer (cầu Long Biên). Các bậc khoa bảng và quan chức các tỉnh phía Bắc đều phải có mặt, Nguyễn Khuyến cũng phải đến bái yết.

Nhìn trên khán đài, có bà hoàng phi của vua, hồi trẻ suýt trở thành con dâu cả của nhà thơ, lại có viên toàn quyền Pháp Paul Doumer. Ông không muốn lạy, giả vờ dềnh dàng sửa áo sửa khăn, loay hoay như một con trâu vướng cột, trông rất buồn cười. Nhà vua chờ lâu, khó chịu quở trách, ông lấy cớ mình già nua chậm chạp, chống chế xin lỗi. Sau khi biết đấy chính là Nguyễn Khuyến, danh sĩ số một của đất Bắc, Vua cũng bỏ qua, song bắt ông làm bài thơ tạ tội, lấy đề thơ là "Vịnh trâu già". Sau một lúc suy nghĩ, ông xin đọc:

 

Một nắm xương khô, một nắm da

Bao nhiêu cái ách đã từng qua

Đuôi khom biếng vẫy Điền Đan hỏa

Tai nặng buồn nghe Ninh Tử ca

Sớm thả vườn Đào chơi đủng đỉnh

Tối về thôn Hạnh thở nghi nga

Có người toan giết tô chuông mới

Ơn đức Vua Tề lại được tha.

 

Bài thơ thật hợp với đề tài và sâu sắc, mượn trâu để nói lên tâm trạng của mình: Tôi gầy ốm vì qua nhiều tai ách, chán chường chuyện mưu kế của tướng Điền Đan (1) đốt đuối trâu tấn công kẻ thù, tai cũng chả buồn nghe những lời ton hót của kẻ nịnh bợ (có chăng là buồn vì nghe tiếng ca của hiền tài Ninh Thích (2) không được trọng dụng); Tôi như trâu có công thời Vũ Vương đánh Trụ (3), được ăn nơi vườn Đào, ngủ ở thôn Hạnh đấy; người ta tính đem tôi đi "tế chuông", nhà vua có tha cho tôi như vua Tề năm xưa không?

 

Vua lắng nghe và nghĩ ngợi, quả thật là hay nhất là câu cuối "Ơn đức vua Tề lại được tha", nhà vua tha cho ông tội bất kính và còn thưởng cho một tấm lụa.

 

Chú thích: 

(1) Điền Đan là danh tướng nước Tề thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông có công đánh đuổi quân Yên, khôi phục nước Tề vào đầu thế kỷ 3 TCN.

 

(2) Ninh Thích, người nước Vệ thời Xuân Thu. Người có tài kinh bang tế thế. Lúc còn hàn vi, chưa gặp thời, mình mặc áo cộc, đầu đội nón rách, đi chân không, thường gõ vào sừng trâu mà hát ở núi Dao Sơn.

Lúc bấy giờ Tề Hoàn Công đem binh đánh Tống. Tể tướng nước Tề là Quản Di Ngô (Quản Trọng) đi

trước. Ngồi trên xe nghe tiếng hát, biết không phải là người thường mới sai quân sĩ đem tặng cơm rượu. Ninh thích nói:

- Tôi muốn được yết kiến quan Tể tướng.

Quân sĩ nói: - xe quan Tể tướng đã đi khỏi.

Ninh Thích nói:

- Tôi có một câu này nhờ người đọc lại cho quan Tể tướng nghe. Ấy là câu: "Nước trong leo lẻo..."

Quân sĩ theo kịp xe Quản Di Ngô, thuật cả lại cho nghe. Di Ngô không hiểu được ý câu nói ấy ra sao. Có người thiếp yêu là Tĩnh Nương vốn thông minh học rộng thường được theo hầu. Di Ngô hỏi, nàng nói:

- Thiếp nghe cổ giả có bài thơ "Nước trong". Có câu: "Nước trong leo lẻo, cá lượn giữa dòng; người đến triệu ta, ta cũng bằng lòng". Ý chừng người chăn trâu muốn ra làm quan đó.

Di Ngô lập tức dừng xe lại, cho người mời. Ninh Thích đến chào mà không lạy. Di Ngô hỏi qua họ tên,

thân thế và học thức, Ninh Thích đối đáp thông suốt như nước chảy. Di Ngô khen tài, bảo:

- Kẻ hào kiệt lúc chưa gặp thời, không có người tiến cử thì sao cho rõ tài được. Đại binh của chúa công ta đi sau, cũng sắp đến đây, ta viết cho nhà thầy một bức thư để cầm đưa cho chúa công ta, tất chúa công trọng dụng.

Ninh Thích cầm lấy thư. Ba hôm sau, đại binh Tề Hoàn Công kéo đến. Ninh Thích gõ vào sừng trâu, cất tiếng hát:

Kìa sông Thương Lang, đá trắng lởm chởm,

Có con cá chép dài một thước hơn.

Nghiêu Thuấn thái bình đã không được gặp,

Áo cộc che thân độ đến ngang lưng,

Ta cho trâu ăn từ tối đến đêm.

Đêm tối mờ mờ, bao giờ thấy sáng!

(Bản dịch của Nguyễn Hoài Nam).


Tề Hoàn Công nghe thấy lấy làm giận, sai quân đòi đến. Hoàn Công hỏi họ tên rồi bảo:

- Nhà ngươi là đứa chăn trâu, sao dám gièm chê việc chính trị?

Ninh Thích đáp:  - Tôi có dám gièm chê chính trị đâu.

Hoàn Công nói: - Ngày nay trên thì có thiên tử nhà Chu trị vì, dưới thì các chư hầu. Nhân dân vui vẻ, cây cỏ tốt tươi, dẫu đời Nghiêu Thuấn thái bình chẳng qua cũng chỉ như thế. Vậy mà ngươi dám bảo: "Nghiêu Thuấn thái bình đã không được gặp", lại bảo: "Đêm tối mờ mờ, bao giờ thấy sáng". Thế không phải gièm chê chính trị là gì?

Ninh Thích thưa: - Tôi nghe nói đời Nghiêu Thuấn mưa gió thuận hòa, dân gian không phải lo sợ gì, chỉ việc cày ruộng mà ăn, đào giếng mà uống. Đời bây giờ trái lại, giềng mối đổ nát, giáo hóa suy đồi, thế mà bảo "Nghiêu Thuấn thái bình" thì thật tôi không hiểu được. Vả lại đời Nghiêu Thuấn trừ bốn kẻ hung ác mà thiên hạ được yên. Từ bấy giờ không phải nói mà dân tin, không phải giận mà dân sợ. Nay chúa công mới hội chư hầu, đã thấy nước Tống bội ước, nước Lỗ hiếp thề, chinh chiến quanh năm. Tôi lại nghe nói vua Nghiêu bỏ con mà nhường thiên hạ cho ông Thuấn, Thuấn không chịu nhận bỏ trốn ra Nam Hà, trăm họ rủ nhau mà theo Thuấn. Bấy giờ ông Thuấn bất đắc dĩ mới lên nối ngôi. Nay chúa công giết anh ruột mà cướp nước, lại mượn uy thiên tử để sai khiến các chư hầu. Vậy thì tôi không biết có phải là lối vái nhường nhau như vua Nghiêu, vua Thuấn ngày xưa không?

Tề Hoàn Công nổi giận, quát: - Đứa thất phu dám nói càn!

Liền truyền quân sĩ dẫn ra chém. Ninh Thích bị trói dẫn đi, nhưng vẫn nghiễm nhiên, không sợ hãi, ngửa mặt lên trời nói: "Ngày xưa vua Kiệt giết Long Bàng, vua Trụ giết Tỷ Can, nay tôi cùng với hai ông ấy kể là ba người".

Quan Đại phu là Thấp Bằng thưa với Tề Hoàn Công: - Người ấy không xu phụ quyền thế, không sợ uy nghiêm, chẳng phải là kẻ chăn trâu tầm thường đâu. Chúa công chớ nên giết.

Hoàn Công nguôi cơn giận, truyền mở trói. Ninh Thích bấy giờ mới đem bức thư giới thiệu của Quản Di Ngô dâng lên. Tề Hoàn Công xem xong, mỉm cười bảo: - Đã có bức thư của Trọng Phụ, sao không đưa ngay?
Ninh Thích thưa:

- Tôi nghe nói vua hiền chọn người mà dùng, tôi hiền chọn chúa mà thờ. Nếu chúa công ghét người thẳng, ưa người nịnh mà nhân lên cơn giận giết tôi, thì tôi thà chết đi, chớ quyết không đưa thư của quan Tể tướng làm gì nữa.

Tề Hoàn Công bằng lòng lắm, truyền cho ngồi một chiếc xe sau. Tối hôm ấy, khi đóng quân lại nghỉ,

Hoàn Công sai thắp đèn lên tự đi tìm mũ áo. Có tên cận thần là Thụ Điêu hỏi:

- Chúa công cho tìm mũ áo có phải muốn phong cho Ninh Thích chăng?

- Phải.

Thụ Điêu thưa: - Từ nước ta sang Vệ cũng chẳng xa bao nhiêu, sao chúa công không cho người sang hỏi dò xem. Nếu thực là hiền, bấy giờ sẽ phong tước cho, có chi mà vội.

Tề Hoàn Công nói:

- Người này là một bực đại tài không câu nệ những điều nhỏ nhặt. Hoặc giả khi ở nước Vệ, cũng có vài điều lỗi nhỏ, nếu dò hỏi biết những điều lỗi ấy chẳng lẽ lại phong tước cho. Còn nếu bỏ đi không dùng thì đáng tiếc lắm.

Nói xong,  phong ngay cho Ninh Thích làm quan Đại phu, để cùng với Quản Di Ngô trông coi quốc chính.

 

(3) Phong thần diễn nghĩa  cũng gọi là Bảng phong thần, Vũ Vương phạt Trụ ngoại sử phong thần diễn nghĩa, Phong thần truyện, Thương Chu liệt quốc toàn truyện, là một tác phẩm văn học dạng tiểu thuyết thần quái thời nhà Minh, bao gồm 100 hồi.

 

Là một bộ tiểu thuyết được viết lại trên cơ sở cuốn Vũ Vương phạt Trụ bình thoại in đời Nguyên, rồi nhào nặn tư liệu lịch sử với thần thoại, truyền thuyết và tôn giáo mà thành, Phong thần diễn nghĩa xoay quanh việc suy vong của nhà Thương và sự nổi lên của nhà Chu, lồng vào đó là vô số thần thoại, truyền thuyết Trung Hoa, bao gồm các thần, tiên, yêu quái v.v…

 

NGUYỄN KHUYẾN VIẾT CÂU ĐỐI

 

Cứ mỗi khi Tết đến Xuân về hoặc khi có đại sự, người ta đều đến Vườn Bùi để xin cụ Tam Nguyên Yên Đổ đôi câu đối. Cụ Tam Nguyên không bao giờ từ chối sự tín nhiệm của người dân và tùy vào gia cảnh và tính cách của từng người, cụ đều có một ngụ ý sâu sắc. Ví dụ như chuyện Cụ viết Câu đối cho thợ xẻ sau đây:

 

Ở làng Nãi Văn (nay thuộc xã Vũ Bản, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam) có một người chủ gia đình tên là Hàn Soạn. Chữ Hàn ở đây hàm nghĩa là nghèo. Hàn Soạn, có nghĩa anh ta tên Soạn và nghèo. Do gặp vận may và cũng biết cơ chỉ làm ăn, chắt bóp, đến một dạo Hàn Soạn đã "đổi đời". Tâm tính anh ta cũng chuyển đổi: Càng khá giả anh ta càng tỏ ra khinh người, dáng đi điệu đứng khệnh khạng, ngữ khí hách dịch, kẻ cả, rất có vẻ ta đây.

 

Hàn Soạn làm nhà to, còn xây liền kề một ngôi từ đường lớn làm nơi thờ phụng tiên tổ, ông cha. Một ngôi từ đường oách đến thế không thể thiếu bức hoành phi, đôi câu đối của cụ Tam nguyên Yên Đổ. Hàn Soạn đến làng Và, tìm vào Vườn Bùi, trang viên của cụ Tam nguyên, nêu nguyện vọng với cụ. Cụ Tam nguyên có một cái đức: Ai xin chữ hay mua chữ, cụ đều vui vẻ nhận lời, không phân biệt kẻ sang người hèn, liền viết ngay đôi câu đối cụ viết cho Hàn Soạn:

 

Nhất mạch quán thông, vãng giả quá, lai giả tục.

Tam thần cung bái, ấu tại hậu, trưởng tại tiền.

 

Nghĩa là: Một mạch thông suốt, người trước qua, người sau tiếp.

Ba vì lễ bái, trẻ lễ sau, già lễ trước.

 

Mang cặp câu đối về, Hàn Soạn rất hài lòng, vì nội dung của nó ca ngợi "dòng dõi gia giáo" và ngày càng hưng thịnh của gia đình anh ta. Hàn Soạn cho chạm khắc vào hai tấm gỗ quý, sơn son thếp vàng, treo trang trọng hai bên tả - hữu từ đường. Ai vào nhà, Hàn Soạn cũng khéo léo giới thiệu cặp câu đối ứng rất sát với hoàn cảnh danh giá của anh ta. Khi được khách ngợi khen, Hàn Soạn càng vênh vang.

 

Nhưng cũng chỉ vì có sự xuất hiện của cặp câu đối có vẻ kỳ kỳ ấy trong từ đường nhà Hàn Soạn mà từ đó người ta bắt đầu có cái nhìn săm soi, bới lông tìm vết với gia đình anh ta. Người ta nhớ ra ba đời nhà anh ta từng làm thợ xẻ. Họ bắt đầu đọc và suy ngẫm kỹ lưỡng hơn cặp câu đối cụ Nguyễn Khuyến viết cho Hàn Soạn. Cuối cùng họ luận ra, cặp câu đối, ngoài cái nghĩa bề nổi, còn có một nghĩa chìm, mô tả những động tác của cha con thợ xẻ:

 

Một mạch cưa thông suốt, kẻ kéo qua, người kéo lại.

Ba vì lạy nhau, con lạy trước, cha lạy sau.

 

Ngụ ý của cụ Tam nguyên là muốn nhắc nhở Hàn Soạn: Trước kia ba đời nhà anh làm thợ xẻ, cũng nghèo khổ lắm, bây giờ mới khá giả chớ vội vênh vang, khinh suất, chẳng hay hớm gì. Khi Hàn Soạn nghe được ý đó, toan hạ cặp câu đối xuống, nhưng lại cảm thấy xót tiền của bỏ vào việc mua gỗ và thuê người trạm khắc, hơn nữa, anh ta nghĩ:  Ở cái vùng quê đa phần là nông dân mù chữ này mấy ai suy diễn được cái ý thứ hai của câu đối!? Thế là anh ta cứ để treo....

 

Đỗ Ngọc Thạch
Số lần đọc: 4172
Ngày đăng: 07.10.2010
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Bạn Đọc Việt Nam Và Thơ Hiện Đại? - Hoàng Hưng
Phiếm luận về ba người đàn bà cá biệt trong cổ kim văn học Việt Nam - Phạm Thành
Thơ Tình Huyền Diệu Pha Lẫn Phàm Tục So Với Thơ Tình Thuần Chất Huyền Diệu - Trần Văn Nam
Sử Thánh Tư Mã Thiên Và Sử Ký 1 - Đỗ Ngọc Thạch
Sử Thánh Tư Mã Thiên Và Sử Ký 2 - Đỗ Ngọc Thạch
Con Rồng Trong Tâm Thức Người Việt - Phùng Thành Chủng
Vẻ đẹp “siêu thực” trong Thơ. - Yến Nhi
Thiên nhiên vắng bóng trong tiểu thuyết Lê Văn Trương - Trần Văn Nam
Tây Du Ký – Đệ tam danh tác - Đỗ Ngọc Thạch
Vai Trò Của Hà Nội Trong Sự Phát Triển Của Chữ Quốc Ngữ, Báo Chí Và Văn Học Việt Nam Thời Hiện Đại (Nửa Đầu Thế Kỷ XX) - Lại Nguyên Ân
Cùng một tác giả
Nữ võ sĩ huyền đai (truyện ngắn)
Anh hùng thọ nạn (truyện ngắn)
Người chép sử (truyện ngắn)
Tướng sát phu (truyện ngắn)
Chị em sinh ba (truyện ngắn)
Truyện ngắn ngắn-1 (truyện ngắn)
Truyện ngắn ngắn -2 (truyện ngắn)
Chuyện một nhà báo (truyện ngắn)
Núi lở (truyện ngắn)
Hai lần bác sĩ (truyện ngắn)
Báo hiếu (truyện ngắn)
Nhà tiên tri (truyện ngắn)
Bạn học lớp hai (truyện ngắn)
Tương tác trên net (tiểu luận)
Bạn học lớp năm (truyện ngắn)
Bà Nội (truyện ngắn)
Cô giáo mầm non (truyện ngắn)
Ma lai (truyện ngắn)
Cánh đồng mùa đông (truyện ngắn)
Em ở Tây hồ (truyện ngắn)
Sự tích chim đa đa (truyện ngắn)
Kén vợ kén chồng (truyện ngắn)
Nghêu, Sò, Ốc, Hến (truyện ngắn)
Đấu trường 100 (truyện ngắn)
Làng nói trạng (truyện ngắn)
Lý Toét (truyện ngắn)
Đám Cưới Vàng (truyện ngắn)
Táo quân truyện (truyện ngắn)
Mùng ba tết thầy (truyện ngắn)
Chuyện ngày tết (truyện ngắn)
Y tá xã (truyện ngắn)
Băng nhân (truyện ngắn)
Ô Quan Chưởng (truyện ngắn)
Bạn học đại học (truyện ngắn)
Kiếm sống (truyện ngắn)
Ô Chợ Dừa (truyện ngắn)
Ký ức làm báo (truyện ngắn)
Trộm long tráo phụng (truyện ngắn)
Ba chìm bảy nổi (truyện ngắn)
Bác Sĩ Thú Y (truyện ngắn)
Lệnh Phải Thi Đỗ (truyện ngắn)
Giai Điệu Mùa Hè (truyện ngắn)
Lấy Vợ Xấu (truyện ngắn)
Địa sứ (truyện ngắn)
Cô Dâu Gặp Nạn (truyện ngắn)
Bà Ngoại (truyện ngắn)
Ô Đống Mác (truyện ngắn)
Quận He (truyện ngắn)
Tam Thập Lục Kế (truyện ngắn)
Cắm sừng (truyện ngắn)
Nguyễn Vỹ (chân dung)
Nhà Nho - Nhà Báo (tiểu luận)
Dòng Sông Ám Ảnh (truyện ngắn)
Ba Lần Thoát Hiểm (truyện ngắn)
Ký Ức Làm Báo - 2 (truyện ngắn)
Kiếm Sống 2 (truyện ngắn)
Ký Ức Làm Báo - 3 (truyện ngắn)