Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.377 tác phẩm
2.747 tác giả
619
116.538.235
 
Tục Ngữ Khánh Hoà
Lê Khánh Mai

Cũng như mọi miền đất nước, Khánh Hoà có một nền văn học dân gian tương đối đầy đủ về thể loại và phong phú về hình thức biểu hiện, trong đó phải kể đến thể loại tục ngữ.

 

Vì nhiều lý do chủ quan và khách quan và nhất là do hoàn cảnh lịch sử, việc nghiên cứu tục ngữ Khánh Hoà trước đây chưa  được quan tâm thích đáng. Một số ít công trình sưu tầm, biên soạn tục ngữ ca dao đã xuất bản phải “khoanh vùng” Phú Khánh ( gồm hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hoà) hoặc miền Trung. Mặt khác phần nghiên cứu bước đầu lại nghiêng hẳn về thể loại ca dao. Vì vậy, khi nói đến Tục ngữ Khánh Hoà là nêu lên một vấn đề có tính tương đối.

 

Tục ngữ là một thể loại văn học dân gian có chức năng chủ yếu là đúc kết kinh nghiệm, tri thức, nêu lên những nhận xét dưới hình thức những câu nói ngắn gọn súc tích, giàu hình ảnh, vần điệu, dễ nhớ, dễ lưu truyền.

 

Nội dung và đề tài phản ánh của tục ngữ rất rộng lớn, bao gồm hầu hết các lĩnh vực đời sống vật chất và tinh thần, đấu tranh với thiên nhiên, đấu tranh xã hội, nêu lên những nhận xét, những kinh nghiệm về tình yêu, hôn nhân, gia đình, nuôi dạy con cái, quan hệ giữ người và người…

 

Tục ngữ Khánh Hoà cũng có đầy đủ những đặc điểm nội dung như trên nhưng lại được thể hiện bằng hình ảnh, vần điệu và lối nói riêng mang sắc thái địa phương Khánh Hoà.

 

Một bộ phận tục ngữ Khánh Hoà phản ánh những hiện tượng tự nhiên, khái quát nên những qui luật tự nhiên của vùng đất nhằm phục vụ cho đời sống lao động sản xuất.

 

Khánh Hoà chủ yếu là lao động sản xuât nông nghiệp và ngư nghiệp. Vì vậy, những yếu tố tự nhiên như mưa nắng, gió bão lũ lụt, hạn hán có liên quan và tác động trực tiếp đến  quá trình và năng suất lao động. Quan sát, nhận biết những biểu hiện của thời tiết, khí hậu là việc làm tự nhiên và cần thiết của người lao động.

 

“ Bao giờ trời kéo vảy tê

Sắp gồng, sắp gánh ta  về kẻo mưa”

 

Hoặc:

“Thế gian chẳng biết thì nhầm

Trời sấm ầm ầm là trời chưa mưa”

 

Cái mưa, cái gió ở Khánh Hoà cũng đặc biệt, cũng “thành danh”. Bởi hiện tượng tự nhiên ấy có khi gắn với một vùng đất, một tên địa danh cụ thể.

 

“Mưa đồng Cọ, gió Tuy Bông”

 

Tu Bông là vùng quê phía Nam Đèo Cả. Từ xưa nơi đây đã được gọi là Tụ Phong, nơi tích tụ gió. Gió Tu Bông dữ dội và khắc nghiệt, góp phần kết dọng nên trầm hương, kỳ nam, nhưng không thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp. Ngày nay người nông dân đã cải vụ để tránh mùa gió, cho năng suất cao hơn.

 

Ông tha mà bà không tha

Liền cho cây lụt hăm ba tháng mười”

 

Câu tục ngữ phản ánh hiện tượng lũ lụt xảy ra có qui luật, trở thành “định kỳ” hàng năm ở Khánh Hoà mà đỉnh điểm là ngày hai ba tháng mười âm lịch. Hiện tượng thiên nhiên này từ xa xưa đã được nhân dân giải thích bằng truyền thuyết về Ngọc Bà Thiên-Y-a-na. Vì nhớ quê hương xứ sở nơi mình sinh ra, bà Thiên-Y-a-na từ biệt chồng con trở về núi Đại An (Diên Khánh). Chồng bà là Thái tử Bắc Hải cho quân theo cản trở. Bà nổi giận dâng nước lên để chống lại. Cơn giận đã gây ra nạn lụt hàng năm ở Khánh Hoà.

 

Nhiều câu tục ngữ ghi lại những đặc điểm, địa hình, địa vật của vùng đất Khánh Hoà: núi cao biển rộng nhiều thác hiểm, nhiều thú rừng, sản vật.

 

“Ngựa Lồng Trâu Đụng Giàng Xay

Khỏi ba thác ấy khoanh tay mà ngồi”

“Cọp Khánh Hoà, ma Bình Thuận”

“Mây Hòn Hèo, heo Đất Đỏ”

 

Những kinh nghiệm về thực tiễn lao động, về thời vụ, mùa màng, thu hoạch… cũng  được nhân dân đúc kết bằng những câu nói giản dị, rất dễ nhớ, dễ vận dụng vào đời sống sản xuất:

 

“-Được mùa lúa, úa mùa cau”

“Tôm đi chạng vạng, cá đi rạng đông”

“Một lần mà tởn đến già

Không đi nước mặn nữa hà ăn chân”.

 

Chiếm tỷ lệ nhiều hơn trong kho tàng tục ngữ Khánh Hoà là phần tục ngữ về gia đình và xã hội. Đó là những câu tục ngữ chứa đựng nội dung răn dạy giáo dục ứng xử, đề cao những mối quan hệ tốt đẹp trong gia đình, giữa  người và người, giữa cá nhân với cộng đồng…

Yếu tố truyền thống, gia đình, dòng tộc, nòi giống được xem là yếu tố quan trọng trong việc hình thành và giáo dục nhân cách con người.

 

“Giọt mưa trước nhỏ đâu, giọt mưa sau nhỏ đó”

“Con khôn cha mẹ nao răn

Ví như trái bưởi ai lăn nó tròn”

“Gà nòi không tập cũng hay

Con nòi không tập cũng tày thế gian”

 

Quan hệ gia đình với xã hội luôn là mối quan hệ gắn bó, trong đó những chuẩn mực đạo đức truyền thống luôn được đề cao. Nhiều câu tục ngữ vượt lên cả sự khuyên răn giáo dục, lên tiếng phê phán những biểu hiện suy  đồi về đạo đức.

 

“Trời sinh trái mít có gai

Con hư tại mẹ dẫn trai vô nhà”

 

Hoặc phê phán những cách sống , lối ứng xử, và tình yêu hôn nhân trái với lẽ thường:

 

Trai tơ lấy phải nạ dòng

Tổ tông khiến mạt chớ  tơ hồng nào xe”

“Ăn sao cho được của người

Thương sao cho được vợ người mà thương”

 

Tục ngữ Khánh Hoà có nhiều câu đúc kết những kinh nghiệm đời sống xã hội sâu sắc, thể hiện sự nhận thức rạch ròi, đúng đắn giữa cái nội dung và hình thức, giữa hiện tượng và bản chất, đồng thời đề cao những giá trị đích thực:

 

“Vô duyên dù bận áo sa

Áo ra đằng áo người ra đằng người

Có duyên dù bận áo tơi

Đầu đội nón cời duyên vẫn hoàn duyên”.

 

Hoặc:                           

“Rượu ngon bất luận bè sành

Áo rách khéo vá hơn lành vụng may”

“Dó lâu năm dó thành kỳ

Đá kia lăn lóc có khi thành vàng”

 

Nhân tình thế thái,  mối quan hệ giữa người và người, là những vấn đề được  nói đến nhiều trong tục ngữ Khánh Hoà. Đó là kinh nghiệm chua chát về sự ngăn trở giàu nghèo, về thái độ và sự lựa chọn của con người đối với tiền bạc và tình nghĩa.

 

“Giàu cha giàu mẹ thì ham

giàu cô chú bác ai làm nấy ăn”

“Giàu sang nhiều kẻ đến nhà

Khó khăn  đến phải ruột rà xa nhau”.

 

Và cả những kinh nghiệm cay đắng của con người khi sa cơ thất thế.

 

“Người khôn thất thế cũng khờ

Ba mươi đời cọp dữ sa cơ cũng hèn”

 

Tục ngữ Khánh Hoà còn phê phán những thói hư tật xấu của con người như thói a dua, dậu đổ bìm leo, phản bội, tham lam, tranh giành…

 

“Trời gầm cóc nhái gầm theo

Rồng đi lấy nước, trùn leo miệng vò”

“Sá gì một nải chuối xanh

Xúm lại mà giành cho mủ dính tay”

 

Hoặc phê phán thói ham vui, ham chơi sa đà quá trớn.

 

“Hát bội làm khổ người ta

Đàn ông bỏ vợ, đàn bà bỏ con”

 

Những kinh nghiệm trong đời sống sinh hoạt ứng xử, giao tiếp, nói năng… cũng được tục ngữ ghi lại, có ý nghĩa giáo dục sâu sắc.

 

“Vàng sa đáy nước vàng chìm

Anh sa lời nói kiếm tìm không ra”

 

Một số đức tính tốt trong sinh hoạt như chăm chỉ siêng năng, tiết kiệm, căn cơ  được tục ngữ đề cao:

 

“Nợ quá gia tài đắp chiếu dài mà ngủ”

“Làm ra ăn nhịn có dư

Làm nhiều ăn dữ cũng như không làm”

“Đói thì đầu gối phải bò

Cái chân phải chạy, cái giò phải đi”

 

Trên đây là phần giới thiệu khái quát những đặc điểm về nội dung tục ngữ của người Kinh ở Khánh Hoà.

 

Khánh Hoà có các dân tộc ít người sinh sống lâu đời như Raglai, T’ Ring, Eâđê… trong đó có dân tộc Raglai sống tập trung đông đảo hơn cả.

Các dân tộc ít người ở Khánh Hoà cũng đúc kết những kinh nghiệm sống, lao động và đấu tranh bằng những câu tục ngữ ngắn gọn mà nhiều nghĩa. Qua đó có thể thấy được nếp sống sinh hoạt phong tục tập quán, tín ngưỡng… ứng xử gia đình và cộng đồng.

 

Đốt cây lồ ô vướng cây le

Khôn nhìn mặt, dại nhìn gan

Nói nhiều lỏng lạt, nói ít nắm chặt

Lội nước ướt chân, uống rượu xỉn mặt…

 

Tóm lại, qua sưu tầm nghiên cứu ta thấy Khánh Hoà có một tiềm năng văn học dân gian rất lớn, trong đó có tục ngữ nhưng chưa được khai thác hết. Những câu tục ngữ mà chúng tôi chọn và nêu trên đây chỉ là một phần rất nhỏ trong kho tàng tục ngữ Khánh Hoà. Để đảm bảo tính chính xác, khoa học, khi trích dẫn chúng tôi dựa vào các căn cứ như tục ngữ có tên địa danh của Khánh Hoà.

 

Nhìn chung, tục ngữ Khánh Hoà phần đã được khai thác chưa nhiều về số lượng. Một số mô phỏng theo tục ngữ của miền Bắc nhưng đã được biến đổi về phương diện ngôn gnữ, hình ảnh, âm điệu, thể hiện suy nghĩ, tình cảm, tính cách, quan niệm của người Khánh Hoà về những vấn đề của cuộc sống, làm giàu thêm kho tàng tục ngữ Việt Nam./.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1.Thơ ca dân gian Phú Khánh – Trần Việt Kỉnh, Nguyễn Chí Trang- Hà Nam Tiến  - Ty Văn hoá Phú Khánh 1982

2.Xứ Trầm Hương – Quách Tấn – NXB Tổng hợp Khánh Hoà 1992

3.Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam – Vũ Ngọc Phan – NXB Khoa học xã hội – Hà Nội  - 1979

4.Khánh Hoà diện mạo Văn hoá một vùng đất – Tạp chí Văn hoá Thông tin Khánh Hoà – 1978

5.Phê bình, bình luận văn học – ca dao – tục ngữ, vè – NXB Văn nghệ Tp Hồ Chí Minh 1997

6.Đất nước con người Khánh Hoà – Trần Việt Kỉnh – Trung tâm Thông tin Cổ động Khánh Hoà xuất bản 1989.

Lê Khánh Mai
Số lần đọc: 7294
Ngày đăng: 12.12.2010
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Tìm Hiểu Thang Âm Ngũ Cung Trong Âm Nhạc Huế - Nguyễn Phú Yên
Cây dừa trong văn hóa Tây Nam Bộ - Tiền Văn Triệu
Hệ Thống Phân Loại Nhạc Cụ Trung Quốc - Vương Trung Hiếu
Ma Quỷ Trong Văn Học Việt Nam - Trần Minh Thương
Cách Nói Của Người Miền Tây Nam Bộ Qua Ca Dao - Trần Minh Thương
Cây Bần Trong Văn Hoá Dân Gian Tây Nam Bộ - Trần Minh Thương
Hình Tượng Con Rùa Trong Văn Hoá Dân Gian Nam Bộ - Trần Minh Thương
Cây Cầu Trong Đời Sống Người Tây Nam Bộ - Trần Minh Thương
Lễ Hội Dinh Cô Long Hải, Bà Rịa-Vũng Tàu - Đinh Văn Hạnh
Chuyện Mèo Chuột Trong Đời Sống Người Bình Dân Tây Nam Bộ - Trần Minh Thương
Cùng một tác giả
Nết (truyện ngắn)
Hỏi (thơ)