Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.374 tác phẩm
2.747 tác giả
643
116.441.202
 
Từ Chi - “một hiện tượng - một sự kiện dân tộc học” 1
Đỗ Ngọc Thạch

Giáo sư Nguyễn Từ Chi (1) là một nhà dân tộc học hàng đầu của thế kỷ 20 ở Việt Nam, là chuyên gia về người Mường và làng xã người Việt. Ông còn được biết đến như một nhà nghiên cứu văn hóa, dịch giả, biên tập viên, một người thầy đáng kính.

Năm 2000, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 2, cho bốn công trình: “Cơ cấu tổ chức của làng Việt cổ truyền ở Bắc Bộ” (1984), “Hoa văn Mường” (1978), “Hoa văn các dân tộc Djarai-Bhana” (1986) và “Người Mường ở Hòa Bình” (viết nhiều năm, công bố hoàn chỉnh 1995). Ngoài ra ông còn có nhiều công trình viết chung, nhiều công trình đăng trên các tạp chí chuyên ngành có khám phá độc đáo, nhiều sách và ấn phẩm dịch. Với công trình viết bằng tiếng Pháp “Vũ trụ quan Mường” (La Cosmologie Mương, Paris, 1997) ông được giới dân tộc học ở nước ngoài, nhất là ở Pháp coi như chuyên gia số một về người Mường. Giáo sư George Condominas (*) nhận định về ông: “Nếu con người bác học khiến ta phải khâm phục thì con người vừa khiêm tốn vừa uyên bác mà không kiểu cách, có óc hài hước, sâu sắc trong ngôn từ và trong hội họa, thoải mái trong cách ăn mặc - đã thu hút lập tức và lâu bền cảm tình của người khác”. Nhiều kiến giải sắc sảo và nhiều giai thoại đặc biệt về cách sống “ngoài lề” của ông vẫn được bè bạn, học trò truyền tụng như những huyền thoại.

*       

Từng “chu du” sang Pháp nghiên cứu và tham gia đoàn chuyên gia trợ giúp giáo dục cho các nước châu Phi, nhưng “mảnh đất thiêng” của Từ Chi là làng quê VN, là những vùng đất xa xôi nhưng có sự cư trú của người Mường. Ông sớm tìm hiểu thuyết cấu trúc luận của người Pháp để về ứng dụng vào việc nghiên cứu những hoa văn trên cạp váy người Mường. Những phát hiện của ông là minh chứng sinh động về tính bản địa của nền văn hóa Đông Sơn, góp phần khẳng định vai trò chủ nhân quan trọng của cư dân Việt - Mường với nền văn hóa này.

Những kết quả nghiên cứu của Từ Chi là sản phẩm của tinh thần lao động khoa học nghiêm túc chân chính. Coi “Dân tộc học là học dân”, Từ Chi đề cao tính chủ thế và quan điểm bản địa như một nguyên tắc nghiên cứu dân tộc học của mình. Những di sản để lại còn cho thấy một Từ Chi gắn bó mật thiết với cuộc sống và những sinh hoạt dân dã của người Mường, đến độ chính ông cũng bị “Mường hóa”, trở thành một “ông già Mường ra tỉnh” trong mắt bạn bè và đồng nghiệp.

Ông được bạn bè, đồng nghiệp và những thế hệ học trò nhớ đến bởi những cống hiến đối với ngành dân tộc học cùng đức tính khiêm nhường, hóm hỉnh và giản dị chứ không phải bằng những vinh quang và danh vọng hào nhoáng. Vượt lên tất cả những khốn khó của đời thường, Từ Chi được coi là nhà dân tộc học hàng đầu VN thế kỷ XX. Với sự giới thiệu của cố giáo sư Trần Quốc Vượng (2), ông nhận được Giải thưởng Hồ Chí Minh cho cụm 4 công trình nghiên cứu dân tộc học: “Cơ cấu tổ chức của làng Việt cổ truyền ở Bắc Bộ”, “Hoa văn Mường”, “Hoa văn các dân tộc Giarai - Bana”, “Người Mường ở Hòa Bình”. Đến đây cũng cần có cái “mở ngoặc” để nói cho rõ: Giáo sư Trần Quốc Vượng đã viết về nhà dân tộc học Nguyễn Đức Từ Chi từ tết Đoan Ngọ năm Ất Hợi (2 - 6 - 1995). Bài chưa kịp đăng thì cuối năm đó Giáo sư Từ Chi đã qua đời vì cơn đau tim đột ngột. Đây là bài viết đầu tiên khẳng định toàn diện những giá trị lớn lao của những công trình nghiên cứu dân tộc học của GS Từ Chi và GS Vượng cũng nhiệt tình đề nghị Nhà nước vinh danh GS Từ Chi, lời chúc cuối bài của Giáo sư Trần Quốc Vượng đã thành sự thật: Giáo sư Từ Chi đã vinh dự được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh. Do tính chất quan trọng của bài báo của GS Trần Quốc Vượng, xin giới thiệu nguyên văn bài báo này cùng bạn đọc:

“Xưa tôi hay mời giáo sư Từ Chi dạy cho sinh viên Khoa Sử ĐHTH Hà Nội. Tôi với ông hay đi điền dã, nhưng đều là nhân học và hay trò chuyện học thuật với nhau. Ông là người đi nhiều, đọc rộng, có quan cảm điền dã minh mẫn, thích nắm bắt cái cụ thể song đồng thời lại có những nhận xét sắc sảo, có sức khái quát hóa cao sâu… Nay hàng tháng, hàng năm tôi vẫn đi điền dã khảo cổ học, folklore học, còn cụ Từ mấy năm nay ở nhà chữa bệnh, đọc sách, viết lách đôi chút… Mỗi khi đi điền dã về, tôi thường đến chơi thăm Viện Đông Nam Á, ngồi hầu chuyện cụ Từ, GSTS Phạm Đức Dương, bao giờ cũng có ít nhiều vị học giả trẻ. Tôi hay nói chuyện lan man, trên trời dưới biển, những phát hiện lý thú nho nhỏ của mình, thỉnh thoảng lại xin ý kiến cụ. Cụ vẫn ham nghe, ham hỏi, và khi trả lời tôi, bao giờ cũng dè dặt, thận trọng, khiêm cung, song cũng có lúc khá là khẳng định, đặc biệt không bao giờ nói xấu ai khi người ấy vắng mặt. Khen nhiều, chê ít, mà cũng không hẳn là chê, ông cụ chỉ nêu những ý kiến mình nhận định khác vị học giả này, ông GS nọ… Tôi tuổi dương nam, mệnh “Sơn đầu hỏa” thích lập lòe nơi sườn núi thấp, ông cụ tuổi âm nam, mệnh “Hải trung kim”, thích dìm cái quý chìm dưới biển sâu, ai biết thì biết, ai không hay biết thì tùy! Ông cụ gần như suốt đời là nhân viên, tổ viên, thư ký, biên tập viên… gần về hưu (mười năm nay rồi) mới được phong chức danh khoa học Phó giáo sư.

Danh bất xứng kỳ tài, kỳ đức, lương bổng bất xứng công việc làm, thế mà ông cụ vẫn vui lòng chịu đựng, đáng mặt người đảng viên cộng sản chân chính, được anh em, bè bạn, người ít tuổi hơn, lớp trẻ… nể vì, kính phục.

Đi làm chuyên gia ở Ghinée từ cuối thập kỷ 50, về già đi Paris ở cuối thập kỷ 80, quần áo sang không thiếu và không phải không biết ăn diện, nhưng bạn bè xin, ông cụ cho, tặng cả, ăn mặc lúc nào cũng có vẻ lôi thôi. Thiệt vì bạn cả tinh thần và vật chất khá nhiều, nhưng gần như chẳng bao giờ kêu ca, ngược lại ông cụ cũng được bạn bè, lớp trẻ giúp đỡ khá nhiều.

Dòng họ Nguyễn Đức vốn gốc họ Trần. Khi tôi biết, hỏi ông, ông bảo: Nghe ông chú ruột Nguyễn Đổng Chi nói vậy, ông muốn biết rõ thì đến hỏi các em tôi, các ông Huệ Chi, Du Chi ấy… Có một bút hiệu ông hay dùng là Trần Từ, có thể là do ý thức “trở về nguồn cội”.

Ông xuất thân từ một gia đình trí thức yêu nước. Ông nội là cụ Nguyễn Hiệt Chi, tức Đầu xứ Thuận, từng có chân sáng lập Công ty Liên Thành và trường Dục Thanh ở Phan Thiết (Bác Hồ có dạy ở trường này một thời gian); ông chú là cụ Nguyễn Hàng Chi, người cầm đầu phong trào Duy Tân và chống thuế quan ở Nghệ Tĩnh, bị thực dân Pháp bắt và xử tử.

Thân phụ ông là bác sĩ Nguyễn Kinh Chi (nối dõi Kinh Dinh Vương), đã từng làm công cán ở Kontum, ở quần đảo Hoàng Sa, làm thứ trưởng Bộ Y tế thành viên chính phủ Cụ Hồ hồi đầu kháng chiến 9 năm. Chú ruột ông là GS Nguyễn Đổng Chi (nối dõi Phù Đổng Thiên Vương), một nhà văn hóa học tài danh.

Thế còn cái tên Từ Chi, nó có ý nghĩa gì? Hỏi ông, ông chỉ cười; tôi hỏi các em ông (Huệ Chi, nối dõi Nguyễn Huệ; Du Chi, nối dõi Nguyễn Du) thì họ bảo: Tên anh Từ Chi là có ý nghĩa nối dõi thiền sư Từ Đạo Hạnh!.

Hậu thân của Từ Đạo Hạnh, theo huyền tích của GS Từ sẽ là ai đây? Có thể là một học trò nào đó của ông chăng? Ông có hiểu biết về đạo Phật và thường hay đàm đạo về Phật học, chùa Phật với anh bạn trẻ hơn 13 tuổi, PGS Trần Lâm Biền. Nhưng ông học trường dòng (Providence) ở Huế - đồng môn, đồng canh tuế, đồng châu quận nữa với các GS Đinh Xuân Lâm, Phan Ngọc. Ông gia nhập Đảng Cộng sản rất sớm khi là cậu tú tài xung phong Nam tiến (1946- 1947). Song khi trò chuyện với ông, tôi vẫn có cảm giác là ông khâm phục Jésus Christ và chịu ảnh hưởng một phần giáo lý Thiên chúa.

Thân mẫu của ông thuộc hoàng phái Nguyễn. Sau giải phóng (1975), ông hay vào Huế. Tìm hiểu mỹ thuật Huế - Nguyễn, ông vẫn cho rằng nghệ thuật Nguyễn đẹp trong dáng vẻ tàn phai của nó. Ông có nhiều bạn bè, học trò ở Huế và dù sinh sống ở Hà Nội đã hơn bốn chục năm, khi về già ông cụ Từ thường nói một giọng đặc Huế. Ông có một phát kiến đặc sắc về quan hệ nguồn cội và sự giống nhau cả về tên gọi và kết cấu giữa món ăn Mường và món ăn Huế, và giải thích điều đó rất tài tình…

Theo tôi, ông là chuyên gia lớn nhất nước ta hiện nay về nguồn nghiên cứu Mường. Ông được người Mường kết nghĩa anh em. Ông cũng có ý thức - đầu thập kỷ 60 ông đã nói điều này với tôi - từ việc nghiên cứu Mường “trở về” soi sáng việc nghiên cứu Việt. Ông đã đi riêng/chung với tôi ở các xã giáp ranh Mường Việt, Hương Sơn (Đục Khê, Yến Vĩ…) rồi ở quanh vùng Hà Nội và Đông Nam Đoài Bắc (Ngọc Hà, Cổ Loa, Bằng Liệt - Thanh Liệt, Tiên Du, Phật tích, Mê Linh, Lâm Thao…) để cuối cùng cho ra mắt bạn đọc trong ngoài nước cuốn sách “để đời” Cơ cấu tổ chức của làng Việt cổ truyền thống. Ở trung du Bắc Bộ, thì ông cặp bồ với PGS.TS Nguyễn Khắc Tụng, ở Kontum- Gialai ông lại cặp bồ với PTS Ngô Văn Doanh, ở châu thổ Bắc Bộ thì đã có Bùi Xuân Đính “hộ tống” và “tiếp nối” ông…

Ông chỉ có một người bạn đời, duyên kết từ châu Phi xa xôi, nhưng bạn làm việc, đặc biệt bạn trẻ hơn ông thì ông “có” rất nhiều: họ hầu ông, giúp việc ông, học ông rồi… sẽ “tiếp nối” ông…

Bởi tư duy tự nhận - vừa khiêm tốn vừa có chút cố tình - rằng ông chỉ “biết chút ít” về Mường, thật ra lĩnh vực tìm hiểu và nghiên cứu tộc người của ông đã không ngừng mở rộng, từ Việt đến Thái, Xing Mul… Tây Bắc, Ba Na, Jarai.. Tây Nguyên, từ làng quê đến đô thị (Phố Hiến, Huế…), từ các “trũng” châu thổ và việc trồng trọt đến các lĩnh vực siêu nhiên tâm linh “cõi sống” và “cõi chết”. Việc phát hiện “vũ trụ luận 3 tầng 4 thế giới” của ông ở tộc Mường liên hệ với biểu tượng vũ trụ Đông Sơn qua trống đồng Ngọc Lũ là những thành tựu khoa học “độc sáng”.

Kỳ vọng nghiên cứu của ông còn rất nhiều, nhưng rồi… “lực bất tòng tâm”. May thay, ông cũng đã kịp “gợi ý” về một số đường hướng “tiếp cận” nhân văn học khác cho những nhà nghiên cứu trẻ tuổi hơn, trong đó có kẻ ngu hèn này…

Nhân dịp ông vừa vượt qua tuổi cổ lai hy, tôi chân thành kính chúc ông sức khỏe và mong ông vẫn còn đóng góp vào nền Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia - Quốc tế!

(Bài đã đăng trên Xưa và Nay, số 81, tháng 11 - 2000; đăng lại ngày 21/02/2006).

 

*

Trong giới Dân tộc học, GS Từ Chi được coi như  một hiện tượng - một sự kiện dân tộc học”. Sự vinh danh này có hơi muộn, tức sau khi ông “thoát tục” tới cõi vĩnh hằng, nhưng dù sao, muộn còn hơn không. Nhân kỷ niệm 10 năm ngày mất của ông (1995-2005), Tạp chí

Dân tộc & Thời đại ( ra ngày 30-11-2005) trân trọng giới thiệu lại với độc giả bài viết trang trọng của Chu Thái Sơn (3), đã được in trên Dân tộc & Thời đại số 19 (bộ cũ), phát hành tháng 10 năm 1995 (tr.11 - 12) với nhan đề: “Vĩnh biệt Nhà Dân tộc học thông thái Nguyễn Đức Từ Chi” (nhan đề mới: Từ Chi: một hiện tượng - một sự kiện dân tộc học) - động thái này của  Dân tộc & Thời đại như là một sự tạc bia đá sự vinh danh nhà dân tộc học Từ Chi, dường như muốn bù đắp lại sự nghiệt ngã của “số phận” đối với ông trước đó, như G. Condominas - GS. người Pháp - bạn ông đã viết về ông: “Quả thật trong nhiều thập kỷ anh không có vị trí chính thức trong việc nghiên cứu, tự coi mình như nhà dân tộc học nghiệp dư”. Còn giờ đây là những lời vinh danh trang trọng:

“Nhớ đến Từ Chi là chúng ta nhớ đến một nhà dân tộc học thông thái, một nhà khoa học chân chính. Ông hiểu sâu, biết rộng, có những phát hiện bất ngờ và độc đáo nhưng luôn luôn khiêm nhường và giản dị, giản dị đến mức hòa lẫn, khiêm nhường tới độ khó nhận ra. Trong nghiên cứu, cũng như từ suy tư cho đến hành động, ông rất cẩn trọng nhưng không sa vào cầu toàn. Ông có nhiều ý kiến riêng, tư liệu phong phú và lập luận vững chắc, nhưng không bài xích ai, không quyết liệt phủ định ai, không ngăn chặn dòng chảy trong tư duy khác. Nếu như có ai đó đã một lần chối bỏ ông, chắc hẳn sẽ không tránh khỏi ân hận khi nhận ra tâm hồn thánh thiện và lòng độ lượng của ông. Chả thế, trong lễ tang, Gs. Phan Ngọc đã phụng tặng ông một đôi câu đối còn âm vang mãi: “Bể học dẫu vô cùng, sự nghiệp ấy sẽ ghi cùng sông núi, cuộc đời tuy ngắn ngủi, nhân cách này vẫn sống giữa anh em”.

 

“... Ông là chuyên gia lớn nhất nước ta hiện nay về nghiên cứu Mường, nhưng phải thấy cứu cánh của ông trong việc nghiên cứu Mường là để soi tỏ xã hội người Việt. Chẳng thế mà công trình “Cơ cấu tổ chức của làng Việt cổ truyền ở Bắc Bộ” đã xuất hiện như là một thu hoạch chính của ông về toàn bộ quá trình tìm hiểu mọi mặt ở xứ Mường.

 

Như thế, Nguyễn Đức Từ Chi đã cho chúng ta nhận biết một hướng nghiên cứu lớn của dân tộc học Việt Nam; đồng thời, cũng cho chúng ta nhận biết một phương pháp nghiên cứu dân tộc học Việt Nam mà người nước ngoài không có điều kiện để thực hiện. Rõ ràng trong nghiên cứu, đối với ông là không thể lẫn lộn giữa phương tiện với cứu cánh được, mặc dù cái gì cũng quan trọng cả, quan trọng đến mức bình thường thôi - như cách nói của ông.

 

Vào những tuần lễ cuối cùng, trước khi ông về cõi vĩnh hằng, ông vẫn say sưa kể, vẫn nhất quán và vẫn rất minh triết để nói với bạn bè, với những thế hệ đằng sau về dân tộc học nước nhà, về những điều ông đã thấy và cả những điều ông còn chưa rõ, mặc dù phần nhiều là những điều ông nói lại những suy tư, trăn trở từ nhiều năm trước. Có lẽ điều mà còn ít người biết đến, đó là nhà dân tộc học tài danh Nguyễn Đức Từ Chi, đã từ lâu, vẫn canh cánh bên lòng về những phương pháp nghiên cứu dân tộc học ở Việt Nam có hiệu quả cho người Việt Nam chúng ta.

Giờ đây, ông đã từ bỏ chúng ta ở lại phía sau, song chúng ta vẫn có thể kiếm tìm được những bài học bổ ích trong các di cảo là các tác phẩm dân tộc học dài - ngắn của ông còn để lại đây đó.

…Nhà dân tộc học Từ Chi không còn nữa, nhưng sự nghiệp của ông, những thành tựu trong nghiên cứu của ông, đạo đức và tình cảm của ông vẫn còn gắn kết với chúng ta, gắn kết với nền dân tộc học nước nhà mãi mãi. Nói đến Nguyễn Đức Từ Chi là nói đến một tính cách rất riêng, một nhân cách rất Người; là nói đến một nhiệt huyết mà trầm lắng, một bút pháp uyên áo; là nói đến những kết quả hừng lên trong nghiên cứu. Và tất cả những cái đó đã hợp thành một hiện tượng, một sự kiện lớn: “Từ Chi” trong dân tộc học!”.

*

Trưng bày Từ Chi - nhà dân tộc học: Nhân kỷ niệm 10 năm ngày mất của ông (1995-2005), Hội Dân tộc học VN phối hợp với Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam đã tổ chức cuộc trưng bày giới thiệu về nhà dân tộc học danh tiếng Từ Chi, từ ngày 10 - 10 - 2005 đến hết ngày 10 - 11 - 2005 tại BTDTH VN, đường Nguyễn Văn Huyên, quận Cầu Giấy - Hà Nội.  Đây là cuộc trưng bày đầu tiên về chân dung một nhà khoa học ở nước ta. Thông qua hàng trăm hiện vật giấy được lấy từ di cảo và đồng nghiệp, học trò của Từ Chi cung cấp, khách tham quan có cơ hội hiểu biết thêm về sự nghiệp, cuộc đời của nhà khoa học uyên bác nhưng sống rất mực giản dị này - con người được bạn bè quý mến gọi là “Nhà dân tộc học hành khất” hay “Ông ăn mày nói tiếng Tây rất giỏi”.

Toàn bộ di cảo của giáo sư Nguyễn Đức Từ Chi đã được chuyển từ Viện Nghiên cứu Đông nam Á đến bảo tàng Dân tộc học để bảo quản như một di sản dân tộc học trong lễ bàn giao vào sáng ngày 22-10-2004. Trong đó có một số tập di cảo tiêu biểu như:
1. Tài liệu Mường và hoa văn Bana ở Bình Thạnh
2. Tài liệu điền dã Mường và Tây Nguyên (có bộ ảnh minh họa nhà mồ Tây nguyên)
3. Tài liệu về Mường và Cổ Loa
4. Cơ sở điền dã về tài liệu ruộng đất Mường
5. Nguyên bản Mo "Đẻ đất đẻ nước" do Quách Bảo, Quách Giao và Bùi Thiện dịch
6. Các đế quốc châu Phi; Bản dịch dân tộc học đại cương
7. Tài liệu về Trung Quốc và dân tộc Cơ tu
8. Ảnh Giarai, Bana, một số bài viết về Rồng và nhạc cụ Việt Nam...

Kể từ khi giáo sư Từ Chi tạ thế năm 1995, đến 2005 là gần 10 năm, toàn bộ tài liệu, di cảo, bản thảo.... của ông được Viện nghiên cứu Đông Nam Á lưu giữ. Đến năm 2005, cả gia đình của GS Từ Chi và Viện nghiên cứu Đông Nam Á đều đồng ý trao lại cho bảo tàng Dân tộc học quản lý. Phó giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Văn Huy - giám đốc bảo tàng Dân tộc học ghi nhận kho tư liệu, di cảo của GS Từ Chi là một tài sản quý giá vô cùng - là di sản dân tộc học hiếm hoi của nước nhà được tích góp từ công lao trong mấy chục năm nghiên cứu và làm việc của một giáo sư đầu ngành dân tộc học. Di sản của cố giáo sư Từ Chi bao gồm hàng chục nghìn trang tư liệu. Quý giá nhất là những tư liệu về dân tộc học.

Hiện di cảo của GS Từ Chi còn rất nhiều các sơ đồ, ký họa dân tộc học về công trình kiến trúc, công cụ lao động, trang phục các dân tộc... của người Mường. Ông cũng còn rất nhiều bản thảo ghi chép về người Việt ở đồng bằng Bắc bộ với các kiến trúc nhà ở và các công trình tôn giáo, tình hình ruộng đất và phong tục tập quán...

Ngoài ra, cả cuộc đời nghiên cứu dân tộc học của giáo sư Từ Chi còn để lại nhiều tài liệu về các dân tộc Tây Nguyên: Gia rai, Bana, Cơ tu... kể cả các dân tộc Tày, Thía ở phía Bắc. Trong quá trình 3 năm giảng dạy ở châu Phi, giáo sư Từ Chi cũng nghiên cứu về "Các đế quốc Châu Phi" và "Bản dịch dân tộc học đại cương". Một khối lượng lớn các bài báo, bài nghiên cứu, bài giảng dạy của giáo sư, tư liệu ảnh và cả một bản dịch Kinh Dịch từ Trung Quốc cũng được tập hợp trong dịp này.

Ông Phạm Ðức Thành - Viện trýởng viện nghiên cứu Ðông Nam Á nhận xét: tất cả di cảo của giáo sư Từ Chi là bằng chứng cho việc nghiên cứu lao động khoa học và mẫu mực. Giáo sư đã để lại cho lớp nghiên cứu thế hệ trẻ một phương pháp nghiên cứu nói chung và kỹ thuật điền dã tỉ mỉ, cẩn trọng, chính xác trong việc ghi chép, lưu giữ tư liệu. Ông Thành xác nhận, ở VN hiện nay, các công trình nghiên cứu của giáo sư Từ Chi về dân tộc học, Việt Nam học và địa - văn hóa vẫn còn nguyên giá trị. Nhiều người nghiên cứu đi sau đã "đứng trên vai" ông nhưng lại thường không dẫn nguồn một cách nghiêm túc. Ông Thành cũng nêu nhận định rằng dưới tác động của thời tiết và môi trường, những di cảo tư liệu đa số bằng giấy của giáo sư Từ Chi đã bắt đầu hư hỏng, các trang bản thảo viết từ thời giấy của ta còn kém chất lượng đã bắt đầu rời ra từng mảnh. Mặt khác, công tác phân loại có hệ thống các tư liệu này để nghiên cứu và bảo quản đòi hỏi mất nhiều thời gian. Do đó, biện pháp tối ưu là chuyển giao cho bảo tàng Dân tộc học, để bảo quản đúng phương pháp và có kế hoạch phổ cập đến công chúng và kể cả phục vụ cho giới nghiên cứu.

Trước mắt, bảo tàng Dân tộc học sẽ trở lại một số vùng mà giáo sư Từ Chi đã đến làm việc trong quá trình điền dã để "gặp lại những người mà cụ Từ Chi đã làm việc, để ghi lại những gì bà con còn nhớ đến giáo sư, cũng như tranh thủ điền dã tiếp, làm nốt những gì giáo sư chưa kịp làm, hoặc chí ít cũng để cho cán bộ bảo tàng có được sự hình dung về công việc điền dã của một giáo sư đáng kính".

Khi nhìn lại cuộc sống của nhà khoa học chân chính ấy, người ta không khỏi mủi lòng khi thấy quá đạm bạc và nghèo đói. Con cháu của ông có mặt trong buổi trưng bày “Từ Chi - nhà dân tộc học” không cầm nổi nước mắt trước những hiện vật và tư liệu gợi nhớ lại những ngày tháng khổ hạnh của bậc tiền bối. Bà Lê Thị Từ Hạnh, cháu gọi ông bằng cậu, cho biết: “Những vật bất ly thân của cậu tôi là một chiếc túi may bằng những mảnh vải ghép, một chiếc xe rách tơi tả, một chiếc điếu cày, một cặp lồng cơm có ít lạc rang, dưa và cá mè nấu rau muống. Cậu tôi suốt ngày mang theo một đôi dép đã vẹt một góc, gót chân phải để ra ngoài”.

Không màng danh vọng, không chức, không quyền, ý nghĩa lớn nhất của sự tồn tại đối với ông dường như chỉ là khoa học. Triển lãm còn trưng bày những dòng chữ viết tay đầy xúc động của ông: “Xin gửi anh bản Le bambou mà Viện Thông tin qua anh đặt tôi dịch ra tiếng Việt. Đề nghị anh báo cáo với đồng chí phụ trách mấy việc sau: 1, Tổng số chữ trong bản dịch 5.656 từ Việt. 2, Xin thanh toán cho càng sớm càng tốt. Lý do: Đói. 3, Mà thanh toán bằng giá nào chứ như giá cũ thì bỏ bố tôi. Thân mến/ Từ”.

Đoạn bút tích này được ông Lê Vĩnh (hiện đang sống ở Pháp, từng công tác tại Viện thông tin của VN) lưu giữ suốt mấy chục năm qua, mới trao lại cho bảo tàng khi biết có cuộc trưng bày về Từ Chi. Đọc đoạn bút tích này mới thấy hết hoàn cảnh khó khăn, gian khổ và điều kiện thiếu thốn của cuộc sống trước đây mà Từ Chi phải chịu đựng và khắc phục để sống và làm khoa học, nhưng lại làm rất thành công, rất xuất sắc.

Khi còn sống mong ước duy nhất của ông là “có hai chiếc áo, một chiếc mặc trên người, khi mở tủ ra chỉ còn chiếc kia, khỏi phải lựa chọn!”. Đời ông, hầu như đi làm khoa học bằng tay trái, chứ bây giờ các nhà khoa học chỉ ngồi chờ dự án, có kinh phí tài trợ mới làm, mà đi nghiên cứu theo kiểu “chuồn chuồn đạp nước”!

Có thể nói, trên mọi mặt đời sống, Từ Chi là người kiên định, chẳng mấy quan tâm đến chức quyền, danh vị. Ông sống một cuộc sống đạm bạc, thiếu thốn, ăn mặc xuyềnh xoàng. GS. Phạm Đức Dương (4) nhớ lại: “Anh thường mặc chiếc áo chàm, đeo một chiếc túi vải bên hông, râu tóc để dài lơ thơ, trông như một ông già người dân tộc thiểu số. Có lần, anh bị người bảo vệ ở một trường Đại học không cho vào cũng chỉ vì bộ dạng “nhà quê” này”. “Từ Chi luôn khoác trên vai một chiếc túi may bằng vải ghép, trong đó có vài tập bản thảo và cái điếu cày ngắn không chứa nước. Ông còn xách theo chiếc cặp lồng vài ngăn, trong đó bà Tuất để sẵn cơm, ít hạt lạc rang, ít dưa và món thường xuyên nhất là cá mè nấu xâm xấp với rau muống”.

PGS-TS. Ngô Văn Doanh (5), một người bạn vong niên thân thiết của GS Từ Chi nhớ lại:

 Hồi đó 2 ông bà Từ Chi sống rất vất vả. Khi tôi học ở Liên Xô, nhân dịp anh Phạm Đức Dương sang công tác trở về Hà Nội, tôi gửi cho ông Từ một chiếc quạt tai voi, về sau chắc cũng bán lấy tiền tiêu đỡ” …

 

*

Từ Chi là một nhà dân tộc học điền dã mẫu mực. Với ông, dân tộc học là học dân. Sống với người Mường (Hòa Bình) hàng chục năm để thu thập tư liệu, ông học nói tiếng địa phương, trò chuyện với người dân, gây dựng và duy trì mối quan hệ thân thiết với các gia đình người Mường. Tất cả những điều học hỏi và quan sát được ông ghi chép cặn kẽ, viết thành những mô tả chi tiết trong các quyển sổ tay điền dã. Hết quyển 1 đến quyển 2, rồi quyển thứ … 30…để rồi có được những di cảo như chúng ta được chiêm ngưỡng trong triển lãm này!

 *

GS George Condominas trong  Lời giới thiệu cuốn La cosmologie Muong, Pa-ri, 1997 đã viết những dòng trân trọng:

 

"Nhà nghiên cứu độc đáo này, đầy tính độc lập, đầy tài năng, như tôi chứng kiến trong vòng hai chục năm cuối đời ông, được mọi người ngưỡng mộ, bạn bè và đồng nghiệp yêu mến"...

"Từ Chi mang sẵn trong mình phẩm chất của một con người thực địa: một tinh thần cởi mở, vì mọi người, một tính cách tò mò khám phá, có thể nói là về mọi phương diện, sử dụng một cách thuần thục ngôn ngữ của người địa phương".

 

PGS. Phan Ngọc (6), bạn đồng tuế với GS Từ Chi còn nhớ cả những ngày ấu thơ của bạn mình:

 

... "Ngay từ bé tôi đã thấy Từ có cái gì có vẻ bất cần. Từ được giáo dục chu đáo và Tây phương hơn chúng tôi (...). Chiều thứ 5 nào cậu cũng theo thày dạy vẽ là họa sĩ Phạm Đăng Trí lên các lăng để vẽ"...

 

 ... "Từ giỏi nhất trường về tiếng lóng Pháp (...), cho nên phải nói các học giả Pháp rất mê Từ, một con người uyên bác nhưng nói năng có một cá tính gây gổ"...

 

 Nói về Phong cách, nhân cách của GS Từ Chi thì :

 

Điều đặc biệt nhất ở Từ Chi, theo tôi, là rất mực khiêm tốn, và không nói xấu ai bao giờ” (TS. Nguyễn Thị Minh Thái)

 

Điều lớn lao nhất tôi học được ở ông là niềm say mê, phải gọi là đam mê, đối với nghiệp dân tộc học. Điều sâu sắc nhất về nhân cách tôi học được ở ông là lòng bao dung với cuộc đời” (TS. Thu Nhung Mlô).

 

"Trong túi mình lúc nào cũng phải có 4 thứ: một bản thảo đang viết, một quyển sách đọc dở, một bài biên tập chưa xong, và một bản dịch chưa hoàn thành. Có như vậy, ở đâu mình cũng làm được việc, chán việc này có thể đổi qua việc khác” - lời Từ Chi, Bùi Xuân Đính (7) nhắc lại.

 *

Trong bức phác họa chân dung trưng bày tại Bảo tàng Dân tộc học của họa sỹ Trần Duy (8), Từ Chi toát lên vẻ phóng khoáng, cởi mở với mái tóc xõa, áo mở phanh, quần ta, phơi bụng, 2 tay buông xuôi. Trần Duy giải thích: “Từ Chi là vậy, rộng mở với đời, chẳng có gì giá trị trên người ngoài một tấm lòng”. Hồi tưởng về người bạn thân thiết của mình, Giáo sư- Tiến sỹ Phạm Đức Dương tâm sự: “Tưởng niệm về anh Từ có bao nhiêu điều phải bộc bạch, vì cuộc đời anh, nếu ta biết dỡ bỏ lớp bụi trần bên ngoài, ta sẽ đi sâu vào một thế giới thánh thiện, một di sản đáng giá”. Quả vậy, trong suốt thời gian mười mấy năm làm cán bộ nghiên cứu dân tộc học tại Viện Sử học và Viện Dân tộc học Việt Nam, Từ Chi không có tài sản gì đáng giá trong nhà ngoài mấy quyển sách và một số đồ dùng thiết yếu do bạn bè hoặc học trò tặng. Nhưng ông không mấy quan tâm về cuộc sống nghèo khổ luôn thiếu thốn của mình mà dồn hết tâm huyết vào nghiên cứu dân tộc học. Từ Chi không bao giờ ngồi yên một chỗ. Người đương thời thường thấy ông trong bộ dạng râu tóc xõa dài, bận áo chàm cũ cùng vật bất ly thân khoác vai là chiếc túi, bên trong đựng vài tập bản thảo đang viết, một quyển sách đang đọc dở, một bài biên tập chưa xong, một bản dịch chưa hoàn thành và cái điếu cày không chứa nước, lúc ông ở Viện nghiên cứu Đông Nam á, lúc ở tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, khi lại ở quán cà phê vừa trò chuyện với mọi người, vừa làm việc. Có thời gian ông lên Hòa Bình ăn, ở với đồng bào Mường mấy tháng liền để điền dã, nghiên cứu. Sau thời gian thực địa và làm việc nghiêm túc, Từ Chi đã hoàn thành công trình “Hoa văn Mường” - một trong 4 công trình nghiên cứu được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh , bao gồm “Người Mường ở Hòa Bình” “Cơ cấu tổ chức của làng Việt cổ truyền ở Bắc Bộ”, “Hoa văn các dân tộc Giarai- Ba na”. Trong công trình “Hoa văn Mường”, từ việc phân tích, so sánh những môtíp hoa văn và đặc điểm bố cục các đồ án trang trí, Từ Chi đã khám phá ra mối liên hệ tương đồng giữa hoa văn trên cạp váy phụ nữ Mường với hoa văn trên trống đồng Đông Sơn hàng nghìn năm trước. Đồng thời, ông cũng khám phá ra mạch văn hóa nghệ thuật Đông Sơn vẫn chảy trong nghệ thuật trang trí hoa văn thổ cẩm Thái và thổ cẩm cư dân bản địa Tây Nguyên. Đây cũng là một minh chứng sinh động cho tính bản địa của nền văn hóa Đông Sơn và cứ liệu củng cố quan điểm khoa học cho rằng tổ tiên cư dân Việt - Mường là một chủ nhân quan trọng của nền văn hóa này.


Những công trình khoa học của Từ Chi đã được ghi nhận như là di sản vô giá cho ngành dân tộc học.

*

Trong số những người anh em với Từ Chi thì GS Nguyễn Huệ Chi (9) ở Viện Văn học là thành đạt hơn cả. Bài viết Từ Chi - Anh tôi của Huệ Chi là một chân dung văn học độc sáng về Từ Chi. Ở đây, tôi chỉ xin giới thiệu vài điểm chính yếu.

Nói về giá trị khoa học của những công trình nghiên cứu dân tộc học của GS Từ Chi, Huệ Chi viết: …Theo ý kiến của giới nghiên cứu dân tộc học trong nước và nhiều nhà dân tộc học nước ngoài, Nguyễn Từ Chi là một trong số rất ít tên tuổi được xếp ở hàng đầu của ngành dân tộc học Việt Nam mà công trình để lại, tuy không nhiều và không có gì đồ sộ, nhưng còn có sức khơi mở lâu dài, về thực tiễn và lý thuyết cũng như về phương pháp luận. Tích cực kế thừa nhà Mường học nổi tiếng Jeanne Cusinier (**) , nhưng không lặp lại mọi thao tác trên con đường của người đi trước, ông đã vươn tới những đóng góp bổ sung mới mẻ so với Cusinier. Vũ trụ luận người Mường của ông, được viết bằng hai thứ tiếng Việt và Pháp, vốn nâng cấp từ một tiểu luận in trên báo, chung quy chỉ chưa đầy 100 trang, vậy mà đến nay vẫn khiến nhiều bạn đọc say mê thích thú, bởi không ít phát hiện bất ngờ mà nó chứa đựng. Công trình bất hủ ấy không chỉ dẫn dắt ta đi qua 12 đêm lễ tang cổ truyền của người Mường tuần tự, tỷ mỉ, dựa trên các bản tang ca được làm sống lại chủ yếu bằng phương pháp vấn thoại hồi cố; nó còn giúp ta hình dung một cách thật sinh động con đường dằng dặc, vòng vèo, đưa tiễn các tinh linh người chết, qua đó hiện dần lên quan niệm vũ trụ ba tầng, bốn thế giới nhìn theo trục dọc, với rất nhiều khuếch đại thu nhỏ hoặc đảo ngược kỳ lạ trong cấu trúc giữa các “cõi sống và cõi chết” ấy, và mối liên kết giữa hai xã hội mường ma và mường người nhìn theo trục ngang - mà ma là xạ ảnh “âm tính” của cá nhân con người, của một tộc người cùng cội nguồn với người Việt, mà về cảm quan hữu thức còn bóc tách ra được những nét tinh ròng, chưa bị pha tạp hoặc ảnh hưởng của văn hóa phương Bắc. Cạp váy Mường cũng chỉ 100 trang, nhưng nhìn trong tư duy liên kết với các loại môtip hình học và môtip động vật của hoa văn Thái, Tày, hoa văn Bhanar, Djarai và xa hơn đến cả hoa văn Trống Đồng Đông Sơn, lại là một bức tranh tổng thể về ký ức văn hóa mang nét đặc trưng của cả một vùng rộng lớn trên lãnh thổ Việt Nam, khai triển từ thoáng đến rậm, từ dải đến ô vuông xếp chéo cho đến ngôi sao tám cánh, và di chuyển ngược chiều kim đồng hồ, được in dấu, bảo lưu và khúc xạ qua nhiều thời đại, nó tạo nên hồi âm của một bản sắc đã khá ổn định, đi suốt chiều sâu lịch sử hàng mấy ngàn năm. Cơ cấu tổ chức của làng Việt cổ truyền ở Bắc Bộ cũng viết bằng song ngữ Việt Pháp và cũng chẳng dày hơn hai cuốn trên, là một khung quy chiếu mẫu mực về mọi mối quan hệ xã hội phức tạp chằng chéo của nền kinh tế tiểu nông dân tộc Kinh, xoay quanh một chuỗi vận hành quanh co, không ngừng tái sinh, lộn kiếp đầu thai như trong truyện cổ, của quá trình tư hữu hóa ruộng đất dưới các hình thức khác nhau, được định vị từ nhiều bình diện, trên nhiều môi trường địa lý, và bằng nhiều lát cắt lịch sử từ quá khứ cho đến hiện tại, nhờ đấy người khác có thể dựa vào để mở rộng, soi chiếu cho vô số mô hình cụ thể riêng rẽ ở các cơ tầng, vùng miền khu biệt của xã thôn Việt Nam. v.v… Có thể nói Nguyễn Từ Chi đã vận dụng được một kiến thức uyên bác trong một bút pháp thuần khiết, biểu cảm, rất giàu so sánh và liên tưởng, nhằm trình bày những hiện tượng dân tộc-nhân loại học bác tạp nhất dưới một hình thức thật giản dị, khiến cho những điều ông gợi lên hàm chứa nhiều lời giải sâu sắc mà không hề đóng cứng, cũng không rơi vào sáo ngữ từ chương. Văn ông có cái ma lực của những chân lý luôn luôn dưới hình thức ẩn tàng, như những giả thuyết làm việc, làm người ta ngạc nhiên, và bị cuốn hút. Gần đây, trong dịp sang dự một hội nghị quốc tế ở Hà Nội, ghé thăm Bảo tàng Dân tộc học, Tổng thống Pháp J. Chirac đã đánh giá Nguyễn Từ Chi cùng Nguyễn Văn Huyên (10) là hai nhà dân tộc học được học giả Pháp kính nể.

…Về mặt tính cách, tôi còn rất muốn nói đến cái tính “khái” đôi khi quá mức đến thành “xẵng” của Từ Chi, không phải không làm nhiều người gần ông khó chịu. Chính tôi một lần đã phải “chịu trận” khi ông sùng sục nổi giận vô duyên cớ trước một lời khen nồng nhiệt của mình về một gương “người tốt việc tốt” nào đấy mà ông biết đích chỉ là “chuyện hão” còn tôi thì ở tuổi ngây thơ nên chưa biết gì. Ngay người bạn đồng lứa Giáo sư Đặng Nghiêm Vạn (9*) cũng vì khuyên ông nên bớt “bi quan” trước câu nói hài hước chua chát của ông: “Nous sommes ratés” (chúng ta đều là đồ bỏ) mà bị ông mắng té tát, sau này G. Condominas biết chuyện, cố gắng hòa giải trong một lần đi điều tra điền dã chung với hai người, dù thế ông vẫn không chấp nhận xóa “khoảng cách” cho đến tận lúc nhắm mắt…

…Thế nhưng trong bấy nhiêu điều muốn nói về ông, có một điều gần như chưa ai nói mà theo tôi, có thể giúp hé mở một phương diện khác lạ của con người Nguyễn Từ Chi: ông là một người sớm nhạy cảm với những bế tắc của con đường nghiên cứu khoa học xã hội chính thống ở Việt Nam. Sự nhạy cảm này bắt nguồn từ một năng khiếu cũng khá đặc biệt, ấy là nhận thức tỉnh táo của ông về mọi chuyển động âm thầm của thời cuộc, hay đúng hơn là một nhãn quan minh mẫn về chính trị. Kể từ năm 1963, sau hai năm làm chuyên gia giáo dục và mải mê điền dã dân tộc học ở Guinée và một số nước trên hai bờ con sông Niger của châu Phi, trên đường trở về ghé qua Moskva khoảng một tuần lễ, khi gặp lại người thân, ông đã có một nhận xét khiến nhiều người trong gia đình sửng sốt: “Mô hình xã hội chủ nghĩa xem ra không ổn rồi, vì nó sans humanité (không “người”…)… Chúng tôi đâu có thể hiểu nổi khía cạnh nghiêm chỉnh trong nhận xét có vẻ hơi bồng bột của người anh của mình, thậm chí còn hoài nghi cả trí tuệ sắc bén của ông, cho rằng nó tư biện. Đáp lại chúng tôi, ông không tranh cãi, nhưng kể từ đấy, ông đã âm thầm chọn cho mình một hình thức nghiên cứu “nghiệp dư”, “tay trái” (thoát khỏi hệ thống quản lý của nhà nước) và một lối sống mà như Giáo sư Phan Ngọc sau này đã nói - con người ngoài lề.

 …Nhưng về những phán đoán thời cuộc mà tôi đã nói thì không liên quan gì đến phương diện sống riêng tư có vẻ tầm phào ấy. Trái lại ở đây ông tỏ rõ cái tri giác tinh tường của một người nhìn trước mọi sự và nhìn mọi sự với một xác tín khác người. Chính vì cái nhìn có tiên lượng rất xa như thế nên ông phải chịu nhiều tai vạ, mặc dù đã rất khéo giấu mình dưới lốt “bụi đời” - ăn mặc nhếch nhác, tóc tai bù xù… để người khác bớt đặt vào “tầm ngắm”. Trong cuộc đời nghiên cứu, ông từng bị các cơ quan “tuyên văn giáo huấn” gọi là trường phái tư sản, chỉ nghiên cứu những thứ vụn vặt, hình thức vô bổ như “cạp váy Mường” mà không đi vào những đề tài xã hội thời sự có ích lợi cho việc tuyên truyền đường lối quan điểm của Ðảng. Vì thế, để có thể công bố được công trình tâm huyết, ông đã phải dùng phương thức “carnaval” hay “đeo mặt nạ”, đổi nhan đề từ Cạp váy Mường sang Hoa văn Mường (1978), lại phải đem hết các luận chứng so sánh với kiến giải của học giả phương Tây “ém” xuống phần chú thích. Mãi về sau khi sách được Hội Khoa học lịch sử tái bản nhằm mừng 70 năm ngày sinh của ông, mặc dù đã rất yếu, ông vẫn kỳ công ngày đêm khôi phục lại bản thảo cũ. Nhưng đã trễ, sách ra thì Từ Chi vừa mất, không kịp nhìn thấy diện mạo đứa con tinh thần đúng như mong ước của mình.

…Ông cũng từng phải xê dịch hết từ cơ quan này đến cơ quan khác, mỗi lần xê dịch đều là một “sự cố” dính dáng đến chủ kiến học thuật của ông, và do không muốn phải thay đổi chủ kiến, ông chấp nhận ra đi, nghĩa là phải hy sinh. Tôi chỉ xin dẫn một trường hợp mà tôi biết rõ nhất, ấy là cái lần vào năm 1972, ông đang công tác tại Viện Dân tộc học. Năm đó cả Ủy ban Khoa học xã hội phải đi sơ tán lên Hà Bắc để tránh đợt không kích trở lại của Mỹ. Một hôm, nhân thì giờ rỗi rãi, Viện Dân tộc học nẩy ra ý mời ông thuyết trình về một học thuyết của phương Tây, một học thuyết nào đó đang thuộc loại “thời thượng” mà ai cũng biết ông rất sành và có điều kiện ra nước ngoài, lại rất chịu đọc, còn người khác thì tuy có nghe đồn nhưng hoàn cảnh trong nước không làm sao được tiếp xúc với tài liệu. Ông chọn đề tài là thuyết cấu trúc của Lévi-Strauss. Ông nói quá hấp dẫn nên hết ngày thứ nhất lại nói thêm ngày thứ hai, hết ngày thứ hai lại phải kéo sang ngày thứ ba. Nhưng cuối ngày thứ ba thì “sự cố” xấy ra. Ông ĐL, Bí thư Đảng ủy Ủy ban Khoa học xã hội từ Hà Nội bỗng lên chỗ sơ tán thăm anh em. Thấy mọi người tụ tập đi nghe Từ Chi giảng khiến cho viện nào viện ấy vắng ngắt, ông Bí thư hơi ngạc nhiên, bèn dò hỏi. Và khi biết chuyện thì ông nổi trận lôi đình. Chao ôi! Đang đánh Mỹ mà đi tuyên truyền học thuật tư sản. Thật là chuyện tày trời. Ông cho đình ngay cuộc nói chuyện, bắt lãnh đạo Viện Dân tộc học phải “báo cáo”, và mời Từ Chi lên cho ông gặp. Anh tôi đã im lặng, không phản ứng gì nhưng từ chối cuộc gặp, ngay sau đó làm đơn xin đi cơ quan khác. Nhờ người bạn liên tài Cao Huy Đỉnh (9**) thu xếp nên ông về Viện Mỹ thuật, được ít lâu không chịu nổi phong cách độc đoán của ông thủ trưởng Viện ấy, lại phải nhờ đến Cao Huy Đỉnh để chuyển sang Hội Văn nghệ dân gian, rồi ít lâu nữa chuyển dịch một lần thứ ba sang làm biên tập viên tạp chí Nghiên cứu nghệ thuật của Bộ Văn hóa, nơi dừng chân cuối cùng của ông.

 …Đọc nhiều truyện truyền kỳ của Trung Quốc và Việt Nam, tôi thường hình dung Nguyễn Từ Chi như một loại hình nhân vật “tàng tàng” khá quen thuộc trong môi trường huyền thoại của xã hội phương Đông, loại người lưỡng phân nửa ăn mày nửa đạo sĩ, nửa tục nửa tiên, có hành tung khó hiểu, nhiều lúc như trẻ con (nhưng mấy ai đã ăn đứt được cái “túi khôn” trong bấy nhiêu hành vi tưởng là trẻ con ấy); có ngôn ngữ lạ lùng, ngỡ nói quàng mà kỳ thực hàm chứa sự nhìn xa thấy rộng, sâu sắc tuyệt vời. Có những điều ông tâm sự với tôi, đến nay tôi đang chiêm nghiệm mà chưa dám thổ lộ cùng ai, tuy vậy trong lòng vẫn thắc thỏm chờ thời điểm “phát sáng” của những ý tưởng nén trong ngôn từ súc tích của ông mà tôi tin là chân lý.

Phải nói, tạng người của Từ Chi, tư chất mềm mỏng/cứng cỏi song hành ở ông, ít nhiều hình như có bắt nguồn từ trong gia đình, pha trộn cả với cái “gàn” của xứ Nghệ. Bố ông, Nguyễn Kinh Chi, một Bác sĩ có tiếng của miền Trung, là Đại biểu Quốc hội khóa đầu tiên và Thứ trưởng Bộ Y tế hồi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, từng có viễn kiến chặt rừng cây quinquina ở Lâm Đồng đem ra khu IV ngay từ cuối năm 1945 để dự phòng làm thuốc quinine chữa sốt rét cho bộ đội, cũng như cho di chuyển an toàn Bệnh viện hiện đại nhất của Huế ra Nghệ An trước khi Pháp đánh vào Thừa Thiên, lại có công xây dựng Xưởng dụng cụ y tế ở Liên khu IV, làm ra ống tiêm và máy dập thuốc viên, việc vô cùng khó khăn thời đó. Vào năm 1953, gặp phong trào cải cách ruộng đất, xử bắn bà Nguyễn Thị Năm, ông viết đơn xin ra Đảng (khi vào Đảng năm 1946 ông không hề chủ động xin, và mấy lần từ chối, đã được bố tôi kể rõ trong bài Văn tế sống anh trai nhân ngày sinh nhật anh 85 tuổi). Không được chấp nhận, ông lại viết đơn năm lần bảy lượt xin từ chức Thứ trưởng, lấy cớ mẹ già vừa mất, gia đình lâm cảnh khó khăn muốn trở về Nghệ - Tĩnh giúp đỡ vợ con, cuối cùng được đồng ý. Cũng vậy, chú ruột Nguyễn Từ Chi, năm 1978 được sự ủy thác của Viện sĩ Nguyễn Khánh Toàn đứng ra xây dựng Viện nghiên cứu Hán Nôm do ông làm Viện trưởng. Nhưng khi Viện vừa bắt đầu rõ dần mặt mũi với những dự án có tầm xa rộng (1981), đứng trước cái mâu thuẫn nan giải giữa việc cơ quan vừa phải êm thắm những “bùng nhùng” trong Chi bộ vừa phải khởi động công việc chuyên môn, giữa việc ưu tiên cho quyền lợi của một số Đảng viên có uy thế mà học thuật kém cỏi và yêu cầu phải đào tạo, bổ nhiệm một đội ngũ có thực chất, bảo đảm sự sống còn của chuyên ngành, thấy mình lực bất tòng tâm, ông đã lặng lẽ làm đơn xin rút chức Viện trưởng rồi đổi sang làm một chuyên viên của Viện Văn hóa dân gian. Quá trình hình thành nên cốt cách của Từ Chi như ông đã có - một hình bóng thấp thoáng xa gần của kiểu người Bùi Giáng giữa miền Bắc xã hội chủ nghĩa - xét cho cùng âu cũng có cơ duyên, cội rễ, chứ không phải ngẫu nhiên.

 

Còn tiếp

Đỗ Ngọc Thạch
Số lần đọc: 2908
Ngày đăng: 18.12.2010
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Văn Cao, Mùa Xuân Cuối Cùng - Phạm Đình Trọng
Cao Xuân Huy, Mùa thu gẫy cánh - 1 - Thụy Khuê
Cao Xuân Huy, Mùa thu gẫy cánh - 2 - Thụy Khuê
Đoàn Chuẩn với giọt thu cuối cùng - Vân Long
Nhớ Anh Khương Minh Ngọc - Hào Vũ
Phạm Đình Chương, Một Nỗi Nhớ Khôn Nguôi - Phạm Văn Kỳ Thanh
Vũ Đình Liên - Ông Đồ Vẫn Ngồi Đấy - Đỗ Ngọc Thạch
Nhà văn Băng Sơn với Hà Nội, một nhà…trong nhiều nhà - Vân Long
Nguyễn Vỹ - Đỗ Ngọc Thạch
Nhân 19-8-1945 – 2010: Chút kỷ niệm về Văn Cao - Vân Long
Cùng một tác giả
Nữ võ sĩ huyền đai (truyện ngắn)
Anh hùng thọ nạn (truyện ngắn)
Người chép sử (truyện ngắn)
Tướng sát phu (truyện ngắn)
Chị em sinh ba (truyện ngắn)
Truyện ngắn ngắn-1 (truyện ngắn)
Truyện ngắn ngắn -2 (truyện ngắn)
Chuyện một nhà báo (truyện ngắn)
Núi lở (truyện ngắn)
Hai lần bác sĩ (truyện ngắn)
Báo hiếu (truyện ngắn)
Nhà tiên tri (truyện ngắn)
Bạn học lớp hai (truyện ngắn)
Tương tác trên net (tiểu luận)
Bạn học lớp năm (truyện ngắn)
Bà Nội (truyện ngắn)
Cô giáo mầm non (truyện ngắn)
Ma lai (truyện ngắn)
Cánh đồng mùa đông (truyện ngắn)
Em ở Tây hồ (truyện ngắn)
Sự tích chim đa đa (truyện ngắn)
Kén vợ kén chồng (truyện ngắn)
Nghêu, Sò, Ốc, Hến (truyện ngắn)
Đấu trường 100 (truyện ngắn)
Làng nói trạng (truyện ngắn)
Lý Toét (truyện ngắn)
Đám Cưới Vàng (truyện ngắn)
Táo quân truyện (truyện ngắn)
Mùng ba tết thầy (truyện ngắn)
Chuyện ngày tết (truyện ngắn)
Y tá xã (truyện ngắn)
Băng nhân (truyện ngắn)
Ô Quan Chưởng (truyện ngắn)
Bạn học đại học (truyện ngắn)
Kiếm sống (truyện ngắn)
Ô Chợ Dừa (truyện ngắn)
Ký ức làm báo (truyện ngắn)
Trộm long tráo phụng (truyện ngắn)
Ba chìm bảy nổi (truyện ngắn)
Bác Sĩ Thú Y (truyện ngắn)
Lệnh Phải Thi Đỗ (truyện ngắn)
Giai Điệu Mùa Hè (truyện ngắn)
Lấy Vợ Xấu (truyện ngắn)
Địa sứ (truyện ngắn)
Cô Dâu Gặp Nạn (truyện ngắn)
Bà Ngoại (truyện ngắn)
Ô Đống Mác (truyện ngắn)
Quận He (truyện ngắn)
Tam Thập Lục Kế (truyện ngắn)
Cắm sừng (truyện ngắn)
Nguyễn Vỹ (chân dung)
Nhà Nho - Nhà Báo (tiểu luận)
Dòng Sông Ám Ảnh (truyện ngắn)
Ba Lần Thoát Hiểm (truyện ngắn)
Ký Ức Làm Báo - 2 (truyện ngắn)
Kiếm Sống 2 (truyện ngắn)
Ký Ức Làm Báo - 3 (truyện ngắn)