Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.376 tác phẩm
2.747 tác giả
761
116.499.386
 
Để Có Thể Ăn Xà Bông !
Nguyễn Đông Nhật

Mới chỉ nhìn cái bìa tập thơ, người đọc dễ… hoang mang: Trường ca hoạt hình là một loại thể gì đây? Rồi, khi đọc được gần một phần tư tác phẩm, chợt nhận ra: vẫn là thơ, thơ thực đấy, không hoạt họa hoạt hình gì cả. Hay nói khác, trường ca hoạt họa chỉ là cách nói “mượn bóng vẽ hình” đấy thôi.

 

Ở đây, là sự hòa trộn giữa truyền thống và hiện đại, nhưng không phải là hiện đại theo một cách nghĩ chưa chính xác lắm, ví dụ: Thơ là sự thể hiện kỹ thuật và thủ pháp ngôn ngữ. (Dù thơ luôn luôn là kỹ thuật). Hiện đại, chính xác hơn, là sự mới mẻ ở cách cảm, cách nghĩ của nhà thơ. Dường như, đấy cũng chính là một thực tế và là mục tiêu trong mọi lao động nghệ thuật: cái cũ và cái mới luôn luôn phải tồn tại song song trong tác phẩm, ở cả hình thức lẫn nội dung.

 

Điều đó thể hiện, truớc hết, ở cấu trúc của tập thơ: Ăn xà bông gồm ba phần, rất rõ, tưởng thật đơn giản như… mở, thân và kết của một bài văn bình thường.

 

Nhưng phần I (mở lời), ngay lập tức, là một khái quát: “mang hồn ốc bò quanh sử tử”. Lịch sử

 

CHẾT rồi, nhưng sao vẫn còn đòi trồi lên? Bởi vì, con người không thể thoát khỏi thời gian. Và, không thể quên. Chính vì thế, mà thi sĩ rất đau, con người rất đau: “cơ cực thấu trời chữ viết trong mây” (trang 11). Ai cũng đau cả, kể cả những đối tượng ngỡ là… đối thủ: “sợ gì cánh báo chí ghi hình / các anh chị ấy cũng đang khóc”. Chính vì vậy, mà phải… yêu: “con lạy nốt phiêu bồng tứ ngả / đừng đến đây nhóm chợ nhục / vinh”. Nhưng làm sao có thể không nhóm cái chợ ấy, vì “cái quay búng sẵn lên trời” rồi, cho nên tất cả đều trở thành những kẻ lần mò: “đào đường lấp hố / kiếng đen khẩu trang / bụi đè lên bụi” (tr.13). Phần mở, vừa mới mở ra, đã có vẻ như phải đóng lại liền: tự do công dân chỉ còn là thứ sản phẩm xa xỉ của một xứ sở có khả năng chờ: “bạn đến đây mời xơi xà bông / đứng bên lề nghe ngóng / đứng bên lề / nghe / ngóng” (tr.16). Đến đây, giọng thơ chuyển nhanh từ lời hát của trẻ con qua cách nói hiện đại. Nhưng đáng chú ý là, vẫn còn tìm thấy niềm hy vọng, cái chỗ dựa quí giá cuối cùng để con người không bị chết chìm trong một không gian ngột ngạt: “vạn câu không sánh được / bát cơm em xới / mắt ngời đinh hương (tr.16).

 

Phần II (nối lời) là một sự… bày hàng. Có đủ cả: từ sự thống trị của những… hình hoạt họa: “xin thề lũ ngáo ộp chúng tôi độc quyền nói dối” (tr.23) mà vẫn không quên trơ tráo: “khi nào cần thì chúng ta cà lăm” (tr.29). Từ những cái bóng - không - hình chỉ biết ngậm tăm: “kiếp trước ta là con hến / chỉ nín” (tr.29). Đó là những hình - mang - dáng - người rơi vào âm mưu tranh đoạt ám hại: “con xe kia của bố / cả trăm “chai” xin số / sập hố / đồng nghiệp giăng bẫy trong nhà thổ” (tr.34). Cái thế giới của những hình hoạt kia, trong nét miêu tả biếm họa, sao lại hết sức rõ – ràng - hiện - thực: “thượng tầng lẫn lộn quỉ ma / ban ngày là chúa là vương / ban đêm là đám ăn lường tráo dân” (tr.36). Trong không gian của chốn ao dầm bùn ngập tận đầu, chúng “bò vào giấc ngủ mọi vật / trườn qua giấc mơ lũ chủ / leo tận nỗi sợ hãi mơ hồ” (tr.36). Nơi ấy, nơi của “tòan cầu thế giới a dua”, nơi chỉ còn lềnh bềnh những xác chết “rác rến rong rêu bao bịch bọc”, tất cả chỉ còn là “đám mộng du đi hàng hàng lớp lớp”. Thực ra, chúng không đi đâu hết (nếu đi, là để đến): chúng chỉ tồn tại như thập loại cô hồn. Mà chúng là ai? Là những hình nộm đang hí hửng nhảy múa kia ư? Vừa đúng, vừa không đúng: những bóng ma kia, ở một góc nhìn xa hơn, ở một tầng nghĩa khác, phải chăng, là… ảnh chiếu của phận người?

 

Ở phần III (giải lời), người đọc có thể đón nhận được ngay lập tức sự giải mã của tác giả, về nguyên nhân của sự mê lầm của con người: nhưng khẩu hiệu phỉnh phờ, những định kiến xé rách yêu thương… với sức mạnh ghê gớm của… bọt xà bông, một trong những căn ủy của khái niệm vô minh trong tư tưởng Phật giáo. Để thử “giải” thoát khỏi sự tăm tối của tâm thức, phương cách duy nhất là phải… ăn xà beng, sản phẩm “hoạt họa thế kỷ hai mốt / chơi” (tr.74). Nói là “chơi”, mà không phải: đó là trách nhiệm công dân. Xa hơn, là thái độ và hành vi của thi sĩ. Đó cũng là một chọn lựa đau đớn, (có chọn lựa nào mà không đau, trừ những kẻ không… thèm chọn lựa?) khi phải nuốt vào những thất vọng để “hy vọng trở mình trên máng xối”, theo cái cách “rơi ngược /  bằng nhìn bầu trời qua ly nước / bằng li li / bằng lô lô” (tr.75). Để làm gì? Đơn giản thôi: để có thể có được “bản tường trình” về cuộc sống và “giấc mơ đi vắng”? Giấc mơ đi vắng ư? Lại cũng thêm một phủ định tiếp nữa: không phải là đí vắng, không phải sự lẩn tránh, mà, đi theo Dòng Sống của lịch sử, để nhìn thấy thật tường tận chân dung thực của cuộc sống…

 

 (*): Ăn xà bông - thơ Phan Trung thành, NXB Hội nhà văn,7.2011

 

Nguyễn Đông Nhật
Số lần đọc: 1850
Ngày đăng: 18.12.2011
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Lý Luận - Phê Bình Trong Ngòi Bút Trần Hoài Anh - Lê Tú Anh
Lời Tiên Tri Của Giọt Sương – bản hợp xướng với những tấu âm lạ... - Nguyễn Hữu Tình
Phiên Bản Của Một Nỗi Buồn - Lê Huỳnh Lâm
Giấc Mơ Trên Bọt Sóng - Nguyễn Đông Nhật
Bùi Huy Phác - Cát Bụi Thân Một Hạt - Nguyễn Khôi
Cảnh Giang, Tình Thơ Trầm Tích - Ngô Minh
Mô tả Đậm đặc trong truyện ngắn của Lưu Thủy Hương - Lê Hải*
Điểm sách 1Q84 của Haruki Murakami - Nguyễn Thị Hải Hà
Đọc Mặt Nạ Thâm Cung – Tiểu Thuyết Của Trần Hoàng Trúc (Nxb Thanh Niên 2011) - Đoàn Minh Tuấn
Rừng – Kinh Dương Vương, Sự Hóa Thân Lộng Lẫy Trong Hội Họa – Văn Chương - Ngô Nguyên Nghiễm
Cùng một tác giả
Trăng (thơ)
Xi măng (thơ)
Quên (thơ)
Ban mai (thơ)
Mộ âm (thơ)
Nhà (thơ)
Noel (thơ)
Má Ơi ! (tạp văn)
Mùa thu (thơ)