Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.333 tác phẩm
2.747 tác giả
739
116.008.424
 
Một Cái Nhìn Lướt Về Thơ Việt Nam
Hoàng Hưng

(Lời giới thiệu Tuyển tập 12 nhà thơ Việt Nam xuất bản tại Thụy Điển)

 

Tôi muốn mời các bạn, trước khi thưởng thức những bài thơ được chọn trong nền thơ Việt Nam đương đại, lướt nhìn về thơ Việt Nam trong lịch trình ngàn năm của nó.   

 

Ở thủ đô nước Việt Nam từ thế kỷ XI đã có một đền thờ gọi tên Văn Miếu, theo nghĩa đen là “Nơi thờ Văn Thơ”. Nơi đây thờ các nhà trí thức kiêm nhà thơ của Việt Nam. Kể cũng đáng cho ta tìm hiểu vì sao có sự trọng vọng này.  

 

Trong thời phong kiến (trước thế kỷ thứ 20) ở Việt Nam các văn bản đều viết bằng chữ Nho (chữ Hán) hoặc chữ Nôm (một biến thể của chữ Nho để ghi âm tiếng Việt nhưng còn khó viết hơn), vì thế các nhà thơ phải là những trí thức có kiến thức cao về văn hoá và ngôn ngữ. Họ là những nhà nho đó đồng thời cũng là quan lại triều đình. Và Thơ được giao nhiệm vụ trọng đại là “ngôn chí”, “tải đạo” (đạo đây là đạo Khổng, ý thức hệ chính thống của chế độ). 

 

Dưới thời kỳ thực dân Pháp thống trị (1884-1945), các nhà thơ cũng chủ yếu sinh ra từ lớp tinh hoa, chỉ khác là giờ đây họ là những người Tây học và viết bằng chữ quốc ngữ theo mẫu chữ latin. Việc phát tán các bài thơ giờ đây tiến hành qua báo chí, cũng vì thế thơ ca phổ biến mạnh mẽ hơn ở thành thị, đó chính là con lộ thênh thang cho việc đòi quyền sống cá nhân của lớp thanh niên tân thời. Trong khi ấy, các nhà hoạt động cách mạng lại có ý thức dùng thơ ca để vận động quần chúng. Cung cách này đã được nhà lãnh đạo Cộng sản trước 1945 bút danh Sóng Hồng nói rõ trong bài thơ Là Thi Sĩ: “dùng ngòi bút làm đòn xoay chế độ”.    

 

Trong thời gian hai cuộc chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ (1945 - 1975), nhờ tỷ lệ dân chúng biết chữ khá cao, thơ đã trở thành một hoạt động mang tính quần chúng và Việt Nam đã từng được coi như “Đất nước Thơ Ca”. Nhận rõ tác động xã hội to lớn của Thơ, nhà lãnh đạo Cộng sản đã khai thác các đặc điểm của Thơ - chủ yếu là tốc độ phổ biến nhanh và khả năng nói lên những chân lý cao xa một cách đơn giản – biến Thơ thành “vũ khí” huy động quần chúng tham gia kháng chiến. “Nay ở trong Thơ nên có thép, nhà thơ cũng phải biết xung phong”, cụ Hồ Chí Minh đã viết như thế trong tập Nhật ký trong tù nổi tiếng (1941-1942).  

 

Kể từ khi có công cuộc “đổi mới” cuối những năm 1980, thơ ca bắt đầu tách dần khỏi chính trị và các nhà thơ tập chú hơn vào các giá trị thẩm mỹ của thơ. Thực ra thì ngày càng ít người đọc thơ do có sự suy thoái chung của văn hoá đọc, thế nhưng các nhà thơ thì vẫn có mặt khắp nơi, và việc giao lưu ý tưởng và tình cảm qua thơ vẫn là niềm vui thích của mọi người. Ta bắt gặp Thơ trên báo chí, trên làn sóng phát thanh, trên màn ảnh nhỏ truyền hình, và qua hàng trăm cuốn sách thơ in ra mỗi năm (nhà thơ có thể còn nghèo song vẫn bỏ tiền túi ra in thơ). Rất gần đây thôi, một “Ngày Thơ Việt Nam” đã ra đời, tổ chức vào ngày Nguyên Tiêu, giúp cho mọi người có cơ hội tôn vinh Thơ vào một Ngày riêng hẳn cho Thơ. 

 

Vậy là Thơ vẫn có tầm quan trọng trong đời sống tinh thần của xã hội Việt Nam, và nhà nước tuy có cởi mở hơn với Thơ nhưng vẫn rất cảnh giác với các thứ Thơ “phản động, đồi trụy” về nội dung và khó hiểu về hình thức.  

*** 

Trong dòng lịch sử ngàn năm của Thơ VN, Thơ hiện đại chỉ mới là chàng trai có độ tuổi 80. 

Thơ hiện đại VN có thể coi như xuất hiện từ những năm 1930, khởi đầu bằng một cuộc “cách mạng thơ”có tên gọi là “Thơ mới”. Những nỗ lực hiện đại hoá thơ khởi xướng từ các trí thức trẻ thành thị, những người muốn tự do thoát khỏi những dàng buộc của thơ ca truyền thống, sự đúc khuôn về nội dung cũng như hình thức, yêu cầu thơ phải có nhiệm vụ giáo huấn, phải là công cụ của ý thức hệ. 

 

Chịu ảnh hưởng của thơ lãng mạn và tượng trưng Pháp thế kỷ 19, sản phẩm của những thanh niên thấm nhuần ngôn ngữ Pháp từ ghế nhà trường phổ thông, “Thơ Mới” diễn tả tình yêu dịu ngọt, nỗi buồn và nỗi cô đơn của con người riêng tư, đi theo xu hướng thoát ly thực tại, trốn vào thiên nhiên và lãng mạn hoá quá khứ. Phần nhiều loại thơ này theo hướng nghệ thuật vị nghệ thuật. Luồng thơ mới này tự cắt đứt khỏi các niêm luật Đường Thi và sử dụng một số thể thơ Pháp thế kỷ 19 bên cạnh những thể truyền thống Việt Nam. Làn sóng Thơ Mới là tham vọng đầu tiên hiện đại hoá thơ Việt Nam – nó đã thành công nhờ vào sự tàn lụi rồi chết hẳn của nền văn hoá Nho học và sự nảy sinh của nền văn hoá tiểu tư sản thành thị dưới thời Pháp thống trị. Làn sóng mới này đi đến chỗ bị khai tử -- hoặc chí ít là lui vào chỗ nấp kín đáo – khi có cuộc Cách mạng năm 1945.  

 

Tuy nhiên, trong những năm 1960, nhất là trong những năm chiến tranh Việt-Mỹ, lại nổi lên những nỗ lực hiện đại hoá thơ ca ở Sài Gòn, lúc đó thuộc chính quyền thân Mỹ. 

 

Chất men văn hoá Mỹ và Pháp trong những năm 1960, các phong trào chống đối chính trị, những thể nghiệm biểu đạt mới, đã có tác động tới những nhà thơ trẻ Sài Gòn những năm đó. Các nhà thơ làn sóng mới Sài Gòn chủ yếu nằm trong nhóm “Sáng Tạo”. Nhóm này khai  thác và nói to lên thân phận cô đơn của con người sống trong cuộc chiến tranh không lối thoát, tìm cách có tự do hơn trong những lối biểu đạt mới mẻ, những câu thơ tự do, những nhịp điệu bất thường, giống như các “thanh khí” của họ ở phương Tây đi theo tiết tấu nhạc jazz. 

 

Trong khi đó ở phần đất do Đảng Cộng sản cầm quyền, hệ tư tưởng chính thống yêu cầu Thơ phải là công cụ cách mạng, cũng có nghĩa là phải có tính quần chúng và phải trung thành với những lệ luật có tự lâu đời. Trong bối cảnh đó, ta vẫn ghi nhận một số nỗ lực “bên lề” của số ít nhà thơ “cứng đầu” muốn giữ quan niệm hiện đại về thơ của mình. Ban đầu có thể kể đến Nguyễn Đình Thi, Trần Mai Ninh hồi mới bắt đầu kháng chiến chống Pháp. Trần Mai Ninh qua đời quá sớm, còn Nguyễn Đình Thi thì bị phê phán nên cũng phải chữa lại nhiều bài thơ cho bớt “tiên phong”. Trong giai đọan 1954-1975, có thể kể đến một số cách tân của Chế Lan Viên và Thanh Thảo trong loại hình thơ-văn xuôi, những cách tân này được chính thống chấp nhận do có nội dung chính trị tốt. Song, sự cách tân triệt để cả về tư tưởng và thi pháp chỉ được thấy ở vài nhà thơ vốn thuộc nhóm “Nhân văn Giai phẩm”. Sau khi phong trào mang tên này, phong trào đòi tự do sáng tác, tự do ngôn luận lớn nhất của trí thức văn nghệ sĩ bị nhanh chóng khai tử, các nhà thơ chủ chốt của phong trào như Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Đặng Đình Hưng bị tước quyền xuất bản các sáng tác của họ. Lặng câm trong thân phận ngoài lề, họ tập trung tìm con đường đổi mới Thơ. Tránh va chạm với các vấn đề xã hội-chính trị bằng cách chui vào tháp ngà ngôn từ, họ đề cao cái phi lý và đời sống tiềm thức, vô thức và những thể nghiệm hình thức chủ nghĩa theo đường lối của nhiều đồng nghiệp phương Tây. Họ chủ trương “dòng chữ”, nhấn mạnh hết sức chức năng tạo nghĩa của “con chữ”, “con âm” – ý niệm khá giống với trường phái “thơ ngôn ngữ” ở Mỹ. Những nỗ lực của họ chỉ được một nhúm bạn bè thân biết đến, phải chờ 20 năm, thậm chí 30 năm để có thể tạo ảnh hưởng đến cộng đồng Thơ sau khi Nhà nước áp dụng chính sách “Đổi mới” về kinh tế và phần nào về văn hóa.  

 

Được kích động vì sự dũng cảm của các nhà thơ “tiên phong” lớp trước, lại được trang bị tiếng Anh cơ bản cùng với những chiếc máy tính cá nhân và những mối liên hệ với các bạn đồng nghiệp Việt Nam hải ngoại, nhiều nhà thơ trẻ bắt đầu tạo ra làn sóng hiện đại hoá Thơ lần thứ ba ở Việt Nam, và công cuộc này đang còn tiếp tục hoàn thiện. Làn sóng này khá đa dạng, đi từ những khao khát giải phóng cá nhân đến những cố gắng “lật đổ” vô hại, từ ảnh hưởng của một số cây bút cách tân thế hệ trước đến sự bắt chước những tác giả “hậu hiện đại” nước ngoài. Cho đến nay, có thể nói ở Việt Nam không còn ai không thừa nhận rằng Thơ phải được cách tân, tuy cách tân thế nào thì còn phải tranh cãi và những sản phẩm cách tân ấy còn phải chờ đợi được công chúng rộng rãi tiếp nhận. Một số nhà thơ và nhà phê bình mong muốn sự cách tân thơ, vốn thường chạy theo sau thơ phương Tây, nên khai thác mạnh hơn những đặc điểm của ngôn ngữ và văn hóa Việt.


 

*

Tuyển tập mà các bạn có trong tay có vẻ muốn giới hạn trong khuôn khổ Thơ Việt Nam từ sau 1975 đến nay, và tập trung vào bộ phận thơ thoát ly nhiệm vụ “phục vụ chính trị”, đi sâu vào những nỗi niềm riêng tư, những chủ đề nhân bản, những triết lý nhân sinh, cũng như giới thiệu những phong cách, bút pháp có khuynh hướng hiện đại, từ những sự khéo léo kế thừa  truyền thống cho đến những cố gắng hòa nhịp với các trào lưu “hậu hiện đại” phương Tây.  

 

Những tác giả cao tuổi nhất trong tuyển tập: Bằng Việt, Hoàng Hưng, Hữu Thỉnh, Ý Nhi, Nguyễn Duy là những nhà thơ thành danh trong thế hệ “chống Mỹ”. Trừ Hoàng Hưng, mà khuynh hướng trăn trở về thân phận con người và hình thức thơ tự do đã thể hiện ngay từ trong chiến tranh qua những bài thơ chỉ được công bố sau “Đổi mới”, bốn nhà thơ kia, nổi tiếng như những giọng ca yêu nước, cách mạng, hầu như mới chuyển qua những suy tư và tình cảm “đời thường” sau khi chiến tranh kết thúc. Nguyễn Duy là một trường hợp độc đáo: vốn là giọng thơ truyền thống ngọt ngào của tình quê hương, ông lại gây chấn động với những bài thơ bình luận xã hội – chính trị đanh thép của thời “Đổi mới”. Nhìn chung, có thể nói lớp nhà thơ trên là dấu nối truyền thống – hiện đại của thơ VN.  

 

Không phải ngẫu nhiên mà những nhà thơ xuất hiện sau “Đổi mới” với sự mới mẻ rõ rệt so với các thế hệ đàn anh: Mai Văn Phấn, Ngô Tự Lập, Nguyễn Quang Thiều, đều là những người có vốn ngoại ngữ Anh/ Pháp vững vàng và kinh nghiệm giao lưu văn hóa với Âu Mỹ. Chính họ đã đưa những yếu tố siêu thực, phi lý, phi tuyến tính, hình thức thơ văn xuôi của thơ hiện đại và hậu hiện đại phương Tây vào những bài thơ bộc lộ những mảng khuất lấp của đời sống chưa quen được khai thác trong truyền thống văn chương Việt Nam. Khác với họ, Nguyễn Lương Ngọc chinh phục người đọc ở nỗi đau thầm kín, sự ám ảnh và nỗi tuyệt vọng ẩn chứa trong những bài thơ đầy dự cảm về sự mong manh của kiếp người, của cái đẹp, trong khi Nguyễn Bình Phương có tài nói về những điều mơ hồ, rối rắm trong lòng người, bằng những đoạn thơ mơ hồ, rối rắm. 
 

Hai người cuối cùng, đều là nữ: Phan Huyền Thư, Vi Thùy Linh, thuộc thế hệ mới nhất của Thơ VN, chỉ mới xuât hiện từ cuối thế kỷ trước. Họ không chú ý bứt phá thi pháp bằng khai thác đến cùng tâm trạng thực, khát khao thực của cá nhân mình. Họ dễ nhận được sự đồng cảm của thế hệ trẻ mà nhu cầu “nổi loạn” của “cái tôi” – chủ yếu trong lĩnh vực tình yêu, tình dục – đang đánh dấu sự chuyển mình lớn lao của xã hội Việt Nam. 

*** 

Trước khi ngừng lời để mời bạn đọc đi vào thưởng thức các bài thơ, tôi muốn lưu ý rằng: tuyển tập này không có tham vọng đưa ra một gương mặt đại diện cho thơ Việt Nam đương đại, cũng như không đảm bảo giới thiệu được những bài thơ thành công nhất của mỗi tác giả. Một trong các lý do chính của sự khiêm tốn bắt buộc kia là ở khả năng chuyển ngữ Thơ Việt Nam sang các ngôn ngữ phương Tây. Thơ có một nửa, nếu không hơn, là âm nhạc của ngôn ngữ. Tiếng Việt lại là trong những thứ tiếng giàu nhạc tính nhất, nhiều người nước ngoài nhận xét người Việt nói như hát. Chỉ riêng hệ thanh điệu 6 cao độ khác nhau của tiếng Việt đủ khiến cho bất kỳ bài thơ nào cũng dễ dàng được hát lên. Kỹ thuật “chơi chữ” của thơ Việt cũng dựa phần lớn vào yếu tố “chơi ngữ âm”. Vì thế, ngay cả tuyệt tác bất hủ của Thơ VN: Truyện Kiều của Nguyễn Du (TK XIX), cũng trở thành câu chuyện văn xuôi nhàm chán khi chuyển qua tiếng Anh, tiếng Pháp. Các bạn có thể hình dung những hạn chế tất yếu của tuyển tập này khi nó được chuyển dịch hai lần, qua tiếng Anh hoặc tiếng Pháp, rồi lại từ đó qua tiếng Thụy Điển. 

 

Song, dù sao tôi cũng cầu mong các bạn tạm vui lòng, như một ngạn ngữ Việt Nam đã nói: “Có hoa mừng hoa, có nụ mừng nụ”, thưởng thức một phác họa đầu tiên của thơ VN đương đại qua tuyển tập này - thành quả hợp tác đáng trân trọng của các dịch giả Việt Nam và Thụy Điển. Và hy vọng các bạn nhận ra trong những tâm sự giãi bày trong đó, những gì rất riêng của người Việt mà cũng chứa đựng những nỗi niềm chung của con người ở bất cứ đâu trên trái đất, trong đó có chính các bạn. 

 

1 tháng 12 năm 2009 

 

(Bản dịch tiếng Thụy Điển của bài này in trong tập Mười hai nhà thơ Việt Nam bằng tiếng Thụy Điển, NXB Tranan, Thụy Điển 2010

)
 
 
 
 

Danh sách các nhà  thơ trong tập thơ VN dịch ra tiếng Thụy Điển và xuất bản tại Thụy Điển 2009 (xếp theo thứ tự năm sinh):

1/ Bằng Việt, 1941

2/ Hoàng Hưng, 1942

3/ Hữu Thỉnh, 1942

4/ Ý Nhi, 1944

5/ Nguyễn Duy, 1948

6/ Mai Văn Phấn, 1955

7/ Nguyễn Quang Thiều, 1957

8/ Nguyễn Lương Ngọc (1958-1996)

9/ Ngô Tự Lập, 1962

10/ Nguyễn Bình Phương, 1965

11/ Phan Huyền Thư, 1972

12/ Vi Thùy Linh, 1980 

 

Hoàng Hưng
Số lần đọc: 2101
Ngày đăng: 22.12.2011
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Das Klagelied der Odaliske - CUNG-OÁN NGÂM-KHÚC CỦA ÔN-NHƯ HẦU NGUYỄN JA-THIỀU 3 - Nguyễn Quỳnh USA
Das Klagelied der Odaliske - CUNG-OÁN NGÂM-KHÚC CỦA ÔN-NHƯ HẦU NGUYỄN JA-THIỀU 2 - Nguyễn Quỳnh USA
Das Klagelied der Odaliske - CUNG-OÁN NGÂM-KHÚC CỦA ÔN-NHƯ HẦU NGUYỄN JA-THIỀU 1 - Nguyễn Quỳnh USA
Kroeber và cầu nối cho Khảo cổ vào Văn hóa - Lê Hải*
Xã hội hiểu qua lăng kính Cơ khí - Lê Hải*
Văn chương Việt hiểu qua lăng kính Động lực học - Lê Hải*
Giambattisty Vico và điểm khởi đầu cho lịch sử văn hóa - Lê Hải*
Von Herder và văn hóa dân tộc - Lê Hải*
Nhà thơ Hà Thượng Nhân đã từ trần - Nhiều Tác Giả
Nhà thơ Chim Trắng qua đời - Chim Trắng
Cùng một tác giả
Bài Lorca: (nghệ thuật)
(tiểu luận)