Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.333 tác phẩm
2.747 tác giả
550
115.992.356
 
Hậu Tâm Khảo
Mạc Tuấn Đinh Trần Toán

 

Đọc BUỔI TRƯA TRONG QUÁN CÀ PHÊ – TẢN VĂN

của NGUYỄN THỊ HẬU, Nxb Văn hóa  - Văn nghệ, TpHCM,  2012

 

Đọc hết cuốn tản văn, tự nhiên trong tôi bật ra cái “tít” nghe ngồ ngộ HẬU TÂM KHẢO.

Thực ra, tôi mới quen biết tác giả này chừng hai năm nay, chưa có mối quan hệ thân thiết. Nguyên là tôi cũng hay tham gia, nhưng không thường xuyên, những câu chuyện, những đề tài liên quan tới đa ngành văn hóa ở quán Cafe Thứ Bẩy.Tôi gặp chị tại buổi chị giới thiệu cuốn sách mới phát hành về khảo cổ của chị. Tôi mài mại nhớ buổi đó, chị, với sự nhiệt thành, tâm huyết, đã nêu những vấn đề khoa học và thế sự nóng, nhạy cảm, bức thiết của đất nước thông qua chuyên nghành khảo cổ học của chị.

…..

Qua tập tản văn Buổi trưa trong quán cà phê, như tôi nghiệm ra, trong chị có hai con người: một con người khoa học “Khảo” cổ sắc sảo, Tâm huyết, tỉ mỉ, chính xác, hệ thống và quy luật, một con người làm văn tinh tế, Tâm thiện, tinh tế, mộng mơ, bao dung và khái quát. Cả hai con người này cùng có TÂM: tâm huyết, tâm thiện, còn có Tâm KHẢO (khảo sát, khảo cứu, khảo nghiệm, khảo thí, cả tra khảo... ) là phương thang giải cái nghiệpTâm, duy kết sao cho mọi việc đều cho có HẬU, như ý hướng của gia đình khi đặt tên Hậu, chắc chắn muốn con cái sống phúc hậu, có trước có sau. Sống phúc hậu cũng là hậu, có trước (tiền) có sau (hậu) cũng là hậu. Gì thì gì, mọi sự, mọi việc, ở con người này, đều xuất tự một hệ TÂM, mà muốn có Tâm thì tất phải có Trí (có Trí để “khảo”dị)! Thế là cái tít HẬU TÂM KHẢO trình làng.

 

Tập tản văn hiện rõ cái Tâm trong khoa học, cái Tâm trong việc văn ở chỗ, các bài viết khảo tả kỹ lưỡng tất cả hiện tượng trong vòng quan sát, đều thấy “giầu chất văn hóa dưới một dáng vẻ lùi xùi” (147), sự “đồng quy văn hóa” (186) thể hiện sự tính cội nguồn. Chị đã dùng phương cách so sánh đối chiếu của khoa học để làm bật lên cái mâu thuẫn thời đại trong bài “Tản mạn về chợ” (62) mang dấu ấn của “văn hóa mẫu hệ” với nét đặc trưng “thuận mua vừa bán”... cho nhận xét xác đáng “Tên gọi các chợ hiện đại – phần nhiều là tên nước ngoài – nghe nhạt hoét... không mang chút ký ức văn hóa nào cả” (66), từ một thực tế rất đời “Mà bây giờ, ăn nói “kiểu chợ búa”, “hàng tôm hàng cá” đâu cần phải ra đến chớ mới có”, còn nội dung chức năng của chợ vẫn nguyên là “Chợ – ký ức của những con người được di truyền qua nhiều thế hệ phụ nữ ...mong mẹ đi chợ về...” (67).

 

Phương cách so sánh chị thường dùng, như  vừa dẫn ở trên, tựa hồ nhẹ tênh, nhưng tâm tư thì nặng trĩu...Chị hành nghề khảo cổ với cái đích của khoa học khảo cổ là khảo tìm cội rễ, nguồn gốc. Khúc tản văn “Chuyện về những vòi nước cổ” (117) chứng minh việc trên đường khảo tìm nguồn cội, khi ngửa cổ uống ngụm nước nguồn mạch trong lành, mát ngọt từ những vòi nước cổ thì cùng lúc bật ra những thắc thỏm, ngẩn ngơ tiếc...“nhiều người lơ đãng không biết rằng mình vừa đi qua một chứng tích của cuộc sống từ vài trăm năm trước. Những vòi nước ấy là những “di sản văn hóa phải có đời sống của chính nó, nhờ con người và vì con người”. Nhờ nghề khảo cổ chị có được cái nhìn xuyên suốt, thấu triệt, khẳng định đầy tự hào có một nền văn hóa Đông Nam Á cổ: “Trong lịch sử, vùng Hoa Nam từ phía nam sông Trường Giang nằm trong khu vực văn hóa Đông Nam Á cổ với kỹ nghệ đúc đồng và nông nghiệp trồng trọt hình thành và phát triển từ rất sớm. Nhưng từ thời Hán vùng này xa dần văn hóa truyền thống Đông Nam Á”. Chị còn xác định tính cách Lạc Việt trong  Bách Việt, như một sự cảnh tỉnh cộng đồng. Nhưng hiện thực thì, thật tiếc, vì cái thói quen an phận “nước nhỏ” đến mức tự ti, đẻ ra cách ứng xử hiện thời là, hình như, thường xuyên cam chịu ở thế dưới, cam phận nhận cái nhìn từ trên cao nhìn xuống, cái nhìn “hạ cố”, ban ơn của ngoại bang và cũng của chính người bản địa với nhau, còn ta - chủ thể thì cứ yên phận, cam chịu mà “ngước nhìn”. Và một câu hỏi buột ra, nhẹ thểnh ...“Có ai nhận ra điều đó không?!” (82)

 

Tôi không biết gì về khoa học, trót dặm lời, lỡ viết nhăng đoạn văn lủng củng này,.. Thôi thì, dù sao cũng trót lỡ!...

 

Tiếp đến chuyện cái bìa sách. Bìa cuốn tản văn vẽ một tách cà phê. Nước cà phê màu nâu sánh. Một phần nước cà phê sủi bọt màu nâu nhạt chiếm non nửa vành miệng tách, hình cong cong, ôm lấy phần nước cà phê màu nâu đậm, tạo hình cũng cong cong. Ở giữa lòng tách cà phê, điểm một “tim” son đỏ chót, rõ ràng là có chủ ý, dẫn tôi liên tưởng ngay tới đồ hình “thái cực” ở phần lý thuyết  của Dịch Lý (là cái lý của sự chuyển dịch, xê dịch!). Tách cà phê  được cố ý đặt lên một viên sỏi. Bìa sách này tự nó đã gợi lên tâmtính của không chỉ một con người, có tấm lòng son, hóa hiện lên trong dòng thời gian miên viễn chảy, đã biết theo quy luật “thuận thời sinh sinh”, và do vậy lại làm bật trong tôi sự liện tưởng tới khái niệm không - thời gian hợp nhất của Đông phương...

 

Về chuyện chữ nghĩa và nội dung. 

Nét đầu tiên, tôi chú ý, ấy là những chữ mang tính tổng  kết ở cuối mỗi đoản văn, kiểu như: “Giá mà,.. Thôi cứ là,..Bất giác,..lúc nào đấy Bỗng nhiên,.. Chừng nào,..Hình như,.. Chỉ thấy,..Chắc rằng, ..Nguy cơ...Tất cả những con chữ viện dẫn ở trên, với tôi, rất gợi, dễ luận rằng con người này có vẻ dễ cam phận trước thực trạng nhoáng nhoàng (63, 194), bát nháo, mất gốc, mất bản sắc, đang tàn lụi,..nhưng, thực ra, trong những con chữ nhẹ tênh ấy lại đang găm giữ sự khắc khoải nặng nề, ý thức và tự ý thức về cuộc đời, về con người ở trong những con người còn có lương tâm, có trách nhiệm, suy nghiệm nhiều đến mức những kiến thức và hiểu biết thu nhận biến thành một phần máu thịt, theo kiểu ý thức biến thành vô thức thông qua các phản ứng tức thì, chẳng cần suy nghĩ . Cách dùng chữ dụng công ấy làm bật ra hàm ngôn sâu, rộng và ngữ nghĩa lan tỏa của tản văn.

 

Nét thứ hai, tôi chú ý cách dùng biện pháp “tâm khảo” để so sánh cái “đương đại” – thói hãnh tiến trong “Phụ nữ thành đạt” (208), đối chiếu với cái thường hằng theo truyền thống “văn hóa nông nghiệp” để tự ý thức về “sống chậm” (161), tự rút bài học, tự nhủ “Thôi cứ là một người phụ nữ bình thường cho lành. Có một nghề tử tế để làm...Và khi cáu giận bực bội có thể “dang tay giữa trời mà...hét” ...với tôi (nhà văn), thế là “thành đạt” lắm rồi, chẳng cần gì hơn”. (211).

 

Suốt cả cuốn tản văn tác giả luôn tự rút ra bài học, nhưng không để cho riêng mình...Bài học bắt đầu từ hoài niệm, qua các trải nghiệm từ thời chiến tranh tới buổi hòa bình, tạo cho tôi – người viết bài này có điều kiện để tự thấy “cuộc đời những túi bụi quên/ quên bị bỏ rơi vì túi bụi/ quên tiếng súng trong giấc ngủ vùi/quên tương lai hiện nguyên hình trong quá khứ/ vẫn nguyên những chớp lửa ùng oàng/ hiện vẫn đang nghi ngút khói/ gặp những huyền dị ở cõi người...

Tâm hồn Tản văn trong sáng, cực nhậy.

 

Trên bước “Đường mùa thu” (121), Tản văn cộng cảm với chú Vàng  của người khiếm thị, thảng thốt, trầm tình  “Chú Vàng ơi, nếu ông chủ không bị khiếm thị thì đôi mắt chú có buồn đến thế..?”. Sự cộng cảm này đang vang động trong tôi – người đọc, cũng...“đến thế”.

 

Rồi “Tiếng Phong cầm trên đường phố Potsdam”: “Bỗng đâu tiếng phong cầm rộn vang cả một đoạn đường. Giai điệu của những bài hành khúc Liên xô không lẫn vào đâu được. (117)... “phối bè đặc Nga như thế”. Tiếng phong cầm mà tác giả đã nghe, đã cảm ấy lại gởi mở, lại lay động trong tôi… Tôi cộng cảm cùng bức tranh minh họa ở trang 117, tôi đã săm soi nhìn.. tôi chợt hình dung thấy một đàn Sếu đã bay qua, để lại một khoảng không hoang vắng, trên cái nền đó hiển hiện “Người lính Xô viết tay bồng bé gái, tay kia cầm thanh kiếm  mũi chúc xuống  đất. ...” và phía trời xa hiện lên bóng cây thập ác chiến tranh. Có lẽ, không chỉ riêng người lính, chỉ bằng duy cảm thôi cũng thấy chiến tranh. Duy cảm một cách tự nhiên như tự nó, trái ngược với thói đời nay thời thượng, vô cảm, vô cảm bắt đầu từ sự dửng dưng, bất lực, tạo ra “chủ nghĩa MAKENO”  “Ý thức cộng đồng đang băng hoại từ sự dửng dưng như thế”(42) Bởi quá nhiêu lời hứa, quá nhiều du di, quá nhiều ban khen và quá nhiều lệ làng hội hè, đình đám...song tất cả chỉ chuyên trị bằng lời hứa, lạm dụng Ngôi LỜI, thừa mứa, bất lực! “Khi ngôn từ bất lực thì bạo lực lên ngôi” (43), dĩ nhiên!

 

“Mơ ghe” là hoài niệm về một thời chưa xa mà đã xa tít tắp, thể tính hiện trong trạng thái “giờ này không muốn làm gì, chỉ muốn làm biếng, trôi đi đâu thì trôi, mà mắc vào đâu thì mắc...”(50) vì cảnh thực “rừng đã cháy và rừng đã hết.” Không còn rừng thì không còn nguồn nước, cuộc sống không nước tất sẽ tiêu vong, như cái ghe nằm chết khô, đang chình ình trên cạn! Tất cả hiện đang, hình như đảo lộn: sông không còn nước, còn “phố bỗng là dòng sông uốn quanh”.  Bởi vì, có lẽ, do cạn kiệt tài nguyên, do đời người đang bị quăng quật vì miếng cơm manh áo, mà nguyên cớ lớn nhất là do thói cao ngạo, hãnh tiến, hám quyền, hám tiền, như Tản văn đã dẫn ra một thực tế là “Khu tưởng niệm Hồng quân Liên xô...một nơi rất it khi có khách Việt đến tham quan (91), rất ít các tour du lịch của người Việt đến đó (105) cũng tại một phần do cái sự nghèo, phần khác là do xa dần cái bản sắc văn hóa, đánh mất dần cái gốc văn hóa ở trong mỗi thực thể người, dẫn tới sự dửng dưng, vô cảm! Trước cảnh người như thế nên: “Ly cà phê chợt đắng!” (132)! Mà như tôi thấy thì không chỉ đắng mà, lúc này đắng ngắt! tuy vẫn biết “hương vị cà phê mỗi mùa mỗi khác đấy” (130)... đang thấy những  ki ốt sách cũ đìu hiu thì vẫn thế...thấy những cuốn sách vàng mặt đang ghìm giữ thời gian, vẫn mốc thếch hiu hiu, vẫn buồn tênh cô quạnh, những cuốn sách vẫn gói hồn thiên thu, vẫn mở lòng trải nghiệm, vẫn vừa cũ và vừa mới tinh tươm, vẫn lặng thinh trải nghiệm, và một câu hỏi lại bật lên trải lòng cùng trang sách cũ biết còn có những ai, những ai đang còn dấm lửa và thổi lửa trong những trang sách ấy?

 

Qua Tản mạn, qua ký ức và hoài niệm tác giả vốn quê nội ở Chợ Mới An giang, ao ước, trở về nơi sống thời thơ ấu là Hà nội với bao nhiêu tâm cảm, bao nhiêu yêu thương, bao nhiêu bồn chồn, thắc thỏm, nhớ một thời sơ tán, nhớ một thời chiến tranh:.. “đã cắt lìa tuổi thơ tôi với ba má(55) với cảm cái giác “bị bỏ rơi”, “sự tổn thương không ai muốn” (56) và bài học của muôn đời là : “sự hy sinh to lớn của các thế hệ chính là để bảo vệ sự sống, sự hồn nhiên của trẻ thơ ở bất cứ nơi nào trên trái đất (109) với: “Cái tôi cần là anh làm thế nào cho người ta ghê sợ chiến tranh,để sống tử tế hơn...cho trẻ con được lớn lên dưới bầu trời xanh”... và bây giờ, trong buổi hòa bình, Hà nội đang thay đổi, nhà cao tầng đang choán chật, những gì là hồn vía thì đang phách tán hồn xiêu...và còn, vẫn còn đang sự hám lợi danh và giầu nghèo quay quắt!

 

Cuộc sống vẫn tiếp tục trôi xuôi. Con người vẫn tiếp tục sống, chấp nhận thực tại như vốn nó là thế... Và tác giả tự bằng lòng với thực tại, tự khẳng định tiếp tục cuộc sống như đã sống “Thôi mình về đi làm đây.” (53)... Và rồi lại cũng sẽ cùng bè bạn, có những buổi chiều ở một nơi nào đó, ngẫm nghĩ bâng quơ, tay lơ đễnh,  nhè nhẹ nâng ly rượu rỗng không, để hồn mình chìm vào hoang vắng,cho đôi mắt nhìn không đâu, xem dòng đời trôi lờ lững ...Và thế rồi thực tại lại trở về là ‘đi ngủ, và mơ.”(31) lại những cà phê, những buổi trưa và những quán...tưởng, thư thái trong bận rộn ngập đầu!

 

Thứ tư, ngày 4 tháng 4, 2012,

 

Mạc Tuấn Đinh Trần Toán
Số lần đọc: 1457
Ngày đăng: 14.04.2012
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Lệ Đá Xanh - Trần Thanh Hà
Hai Bài Thơ Trong Thời-Cuộc Mà Như Ðứng Ngoài - Trần Văn Nam
"Phận đèn", tứ tuyệt thi Kinh Bắc... - Đặng Văn Sinh
Con chim chỉ được hót trong đêm - Nhật Tuấn*
Khúc Tình Buồn - Trần Thanh Hà
Phạm Chu Sa Mênh Mông Cõi Tình - Nguyễn Lệ Uyên
Một Vạt “Nắng trên đồi” - Chế Diễm Trâm
Đánh thức châu thổ - Trần Quang Quý
"Nguyễn Thị Lộ", một tiểu thuyết hư cấu hạ thấp phẩm giá vợ chồng Nguyễn Trãi - Đặng Văn Sinh
Nỗi Nhớ Quê Nhà Trong Thơ Lâmhảokhôi - Trần Phù Thế
Cùng một tác giả
Hậu Tâm Khảo (phê bình)