Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.384 tác phẩm
2.747 tác giả
613
116.607.145
 
Kinh Tế Phật giáo 3
Quán Như Phạm Văn Minh

 

 

Vài ý niệm kinh tế theo Phật giáo Nguyên thủy

 

Viết theo Buddhist Economics của Hòa Thượng Payutto

 

Giá trị              

 

Động cơ mạnh mẽ nhất của bất cứ guồng máy kinh tế nào là lòng ham muốn. Theo kinh điển Phật Giáo có hai loại ham muốn: Chanda và Tanha. Tanha thường liện hệ đền khoái lạc cảm giác. Tanha thúc đầy con người đi tìm kiếm thỏa mãn các nhu cầu cá nhân và thường được nuôi dưỡng bởi vô minh. Trong khi đó Chanda hướng về các lợi ích đích thực, đưa đến tinh tấn và hành động, đặt căn bản trên ý thức phản tỉnh.

 

 

Tỳ kheo Payutto

 

Hai hình thức ham muốn này đưa đến hai loại giá trị khác nhau, một giá trị đích thực và một giá trị giả tạo. Giá trị đích thực của các sản phẩm tiêu dùng nhằm nuôi dưỡng thân tâm, trong khi giá trị giả tạo của các sản phẩm tiêu dùng chỉ nhắm thõa mãn lòng ham muốn khoái lạc, nói theo thuật ngữ Phật Giáo, chỉ nhằm thỏa mãn ngũ dục.

 

Khi xét đến giá trị của một sản phẩm, chúng ta phải đánh giá xem các sản phẩm này nhằm thoả mãn Tanha hay Chanda. Các loại quần áo thời trang, nữ trang sặc sỡ, các xe mắc tiền là những sản phẩm phục vụ những người có cái ngã lớn thích khoe khoang. Một xe mắc tiền cũng làm nhiệm vụ di chuyển như một xe rẻ tiền khác nhưng chủ xe muốn cho mọi người biết mình giàu sang hay chỉ muốn đua đòi. Gia đình Smiths có xe mới thì gia đình Jones cũng phải có xe mới, như trong một ngạn ngữ Tây Phương. Hiện nay có bao nhiêu sản phẫm như các phim ảnh bạo động, các trò chơi, các thức ăn junk food chỉ nhằm thỏa mãn ngũ dục? Các sản phẩm này gây ra những nguy hại cho xã hội (con người càng ngày càng bạo động và thường ủng hộ các hành vi bạo động) và cá nhân (ăn junk food có thể gây ra những bịnh chết người kinh niên như tiểu đường và tim) Để kích thích lòng ham muốn tói đa, các nhà kinh tế khai thác kỹ thuật tiếp thị bằng cách dùng các hình thức quảng cáo hấp dẫn (thông dụng nhất là dùng các người mẫu sexy ngay đến cả sản phẩm tiêu dùng hàng ngày như ice cream!) Các quảng cáo này dùng các yếu tố tâm lý khiến người ta nghĩ rằng chạy các xe mắc tiền, mặc các quần áo thời trang brand name (Versace, Nike …) là những người thượng lưu, thành công và … hạnh phúc! Phật Giáo dĩ nhiên là một phản đề của các định nghĩa các ý niệm về giá trị của kinh tế tiêu thụ này. Theo Phật giáo con người cần có được những sản phẩm tiêu dùng để thỏa mãn nhu cầu căn bản, chớ không phải thoả mãn ham muốn, bởi ham muốn không bao giờ có thể thoả mãn trọn vẹn được. Nhà nho có ý niệm tri túc. Gandhi ngày xưa khuyến khích dân Ấn dùng khung cửi tự dệt vải, không phải là muốn chống các tiến bộ về kỹ thuật, mà muốn nước Ấn tự lực để xây dựng một nền kinh tế độc lập. Kinh tế không độc lập thì không có chuyện đôc lập về chính trị và toàn vẹn chủ quyền. Không cầu thi không lụy. Chỉ nhìn các quốc gia chậm tiến cả đời ngửa tay xin viện trợ sẽ thấy đưọc chân lý giản dị này của Gandhi. Dưới thời thực dân Pháp, Cu Đồ Chiểu từ chối dùng xà bông cũng nhằm thể hiện thái độ này. Những kẻ chỉ biết cúi đầu làm tôi mọi thực dân thường là những người nghiện xâm banh sữa bò.

 

Tiêu thụ

 

 

 

Câu hỏi về ý niệm tiêu thụ cũng giống như câu hỏi về giá trị. Tiêu thụ được xem như là một ý niệm chính trong kinh tế. Không có ai tiêu thụ sản phẩm sẽ không có hoạt động kinh tế.Tuy nhiên cái nhìn của các nhà kinh tế hiện đại và Phật giáo đối vấn đề tiêu thụ rất khác nhau.

 

Tiêu thụ nhằm thỏa mãn nhu cầu và ham muốn. Kinh tế hiện đại định nghĩa tiêu thụ như là việc sử dụng sản phẩm và dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu cũng như ham muốn mà không cần để ý đến hậu quả của sự tiêu thụ này. Phật Giáo trái lại, dựa trên ý niệm Chanha hay Tanha, tiêu thụ những sản phẩm và dịch vụ chỉ nhằm để duy trì đời sống của con người về mặt vật chất cũng như về tâm linh, chớ không phải chỉ để thoả mãn lòng ham muốn, nhất là ham muốn Tanha.  Đối với một nhà kinh tế hiện đại, tiêu thụ trở thành mục đích của chính, tiêu thụ để tiêu thụ và tiêu thụ càng nhiều càng tốt. Các hoạt động kinh tế lớn mạnh nhờ sản xuất tối đa để đáp ứng với nhu cầu tiêu thụ tối đa. Ai không ham muốn trở thành lạc hậu, quê mùa, thuộc giới hạ lưu trong xã hội? Các trẻ em da đen nghèo mạt rệp ở Mỹ, vẫn muốn cha mẹ mua giày Nike “Just Do It!” cho giống với thần tượng Michael Jordan!  Các xã hội hay quốc gia không khích thích tiêu thụ tối đa là những quốc gia phản tiến bộ, phản kinh tế. Kết quả là các nước nghèo Nam Mỹ, Phi Châu và một số các quốc gia Á Châu, có hàng triệu người sống với mức thu nhập là 1 hay 2 đồng đô la Mỹ mỗi ngày, mà chánh phủ vẫn cổ động việc uống Coca hay Pepsi. Có ít ai chịu hỏi là ở Mỹ có bao nhiêu người da đen giàu có như Michael Jordan hay Michael Jackson!

 

Phật Giáo không chống tiêu thụ, không chống một đời sống dư dã về vật chất, không cỏ võ cho nghèo đói như nhiều người ngộ nhận, hay có tình ngộ nhận. Bao nhiêu người đã dùng hiểu biết về Phật Giáo sơ  đẵng hay lệch lạc, để chế nhạo Phật Giáo chủ trương diệt dục. Diệt dục, tức là không còn nhu cầu, ham muốn thì làm gì còn hoạt động kinh tế! Từ ăn no đến ăn ngon, từ ăn ngon đến ăn uống xa xỉ, chỉ để thoả mãn khẩu vị, bất kể là các thực phẩm này làm hại cơ thể như thế nào, là hai chuyện khác nhau. Từ mặc ấm, đến mặc đẹp, từ mặc đẹp đến ăn mặc thời trang mà giá mỗi bộ quần áo tương đương với một năm lương của một người lao động bình thường, là một sự xa xỉ không có thể bào chữa và chấp nhận được.

 

Lòng ham muốn không bao gìờ có thể được thoả mãn trọn vẹn được. Được voi đòi tiên. Đứng núi này trông núi nọ. Cỏ xanh hơn ở cánh đồng bên kia! Đông Tây đều đồng ý nhau về điểm này. Điều nghịch lý càng tiêu thụ nhiều chừng nào thì con người càng thấy không thỏa mãn chừng đó. Không thoả mãn thì lại muốn tiêu thụ thêm. Càng tiêu thụ thì càng phải làm ra tiền để có phương tiện tiêu thụ và càng tuỳ thuộc vào thói quen tiêu thụ. Đến lúc con người trở thành con người một chiều, đồng hoá và bám víu chế độ xã hội đó. Bởi nếu xã hội đó tan rã chính cá nhân của người tiêu thụ cũng tan rã, theo triết lý one dimensional man của Marcuse. Con người chỉ còn là một thứ nô lệ dục vọng, và theo Phật Giáo, bị hướng dẫn bởi vô minh. Bám víu tức là nguyên nhân của khổ đau, chân lý thứ hai của đạo Phật. Tri túc không có trong tự điển kinh tế tiêu thụ và không phải là thái độ sống của đám đông trong các xã hội tiêu thụ. Chỉ có mấy ông đồ gàn và các nhà tu mới có thể sống quanh năm với tương chao cà muối và một vài bộ nâu sồng giản dị. Chỉ có đệ tử của Đức Phật mới chịu sống ‘tam thường bất túc’. Phật Giáo cho thấy là có càng ít nhu cầu, con người càng ít tiêu thụ, càng ít tiêu thụ thì các khỏi lao tâm khổ trí để bon chen lợi danh và do đó con người càng có nhiều thì giờ để thực hiện các nhu cầu tâm linh.

 

Trung Đạo

 

Điểm căn bản của Đạo Phật là con đường Trung đạo. Kinh tế hiện đại cho rằng chì có một cách kiềm soát nhu cầu tiêu thụ là…nạn khan hiếm, không đủ sản phẩm cung cấp trên thị trường. Thỉnh thoảng các nhà sản xuất làm ra nạn khan hiếm giả tạo để có dịp đầu cơ tích trữ và tăng giá hàng. Tại các nước giàu có như Úc, một số các nông gia đã huỷ hoại nông phẩm và nhiều khi giết các súc vật như bò và cừu để giữ giá thị trường. Phần lớn các nông gia cũng đồng ý sản xuất một số lượng sản phẩm định sẵn (quota) cũng  chỉ nhằm kiểm soát giá cả. Với số ngưòi thiếu ăn hiện nay trên thế giới, hành động này gần như là một tội ác. Phật Giáo đã đề nghị những phương cách tiết dục một cách hiệu quả. Tiêu thụ chỉ là một phương tiện để làm bảo vệ và duy trì đời sống, chớ không phải để thỏa mãn ngũ dục. Con người có thể tìm thấy sự thỏa mãn khi thực hiện được an lạc của thân tâm trên con đường tu tập tâm linh. Khi thỏa mãn tinh thần, con người sẽ tìm thấy hạnh phúc đích thực vì hạnh phúc này không phụ thuộc vào những điều kiện bên ngoài. Dĩ nhiên dùng lý luận này đối một người thiếu ăn thiếu mặc  là một hành động thiếu khế cơ, nhưng khi đã ăn no, mặc ấm, nhu cầu tinh thần là một nhu cầu không thể nào thiếu được. Nghe một bản nhạc, làm một bài thơ, ngắm cảnh hoàng hôn vân vân… vừa không tốn tiền nhưng có thể cho con người những lạc thú không thể nào so sánh được. Các nhà sư trước khi ngọ trai đã niệm những lời sau đây, cho thấy thái độ Trung Đạo của Đạo Phật:

 

Chúng tôi nhận thức ăn Đàn Na Tín Thí, không phải với mục đích vui thú, chìm đắm trong hương vị của thức ăn, mà với mục đích duy trì cơ thể, duy trì sự sống, để tránh đau đớn của thân thể khi bị đói khát và để vươn lên một đời sống cao cả hơn. Khi ăn chúng tôi muốn khắc phục những cảm giác đau khổ khi đói, và đồng thời ngăn ngừa cảm giác đau khổ vì ăn uống quá độ. Chúng tôi muốn sống một cuộc đời tính khiết, không lỗi lầm và thoải mái.

 

Con đưòng Trung Đạo này không phải chỉ dành cho các vị tỳ kheo, mà còn có thể áp dụng cho bất cứ một người nào. Khi ăn, khi uống, khi dùng điện, dùng giấy vân vân… chúng ta có thể quán niệm những sự hủy hoại môi sinh khi sản xuất các món tiêu dùng này (ví dụ bao nhiêu rừng bị đốn để làm ra giấy in một cuốn sách, bao nhiêu than đá dùng để sản xuất ra điện) và do đó đừng bao giờ phung phí sản phẩm tiêu dùng, đúng theo một ngạn ngữ Tây Phương Waste Not Want Not. Đạo Phật không khuyến khích khổ tu (Đức Phật đã bỏ năm anh em Kiều Trần Như vì lý do này) nhưng cũng khuyến khích các đệ tử của mình “tam thường bất túc”. Những giới cấm đầu tiên của Đức Phật nhắm tới thái độ sống giản dị này: chùa không có bếp, tỳ kheo phải đi khất thực, ăn một ngày một bữa, tỳ kheo không đưọc đụng tiền, không được có tài sản riêng như trong Lục Hòa. Dĩ nhiên các giới này nên thay đồi để hợp với hoàn cảnh sinh hoạt bận rộn hiện nay của tăng sĩ, theo tình thần khế cơ, tuy nhiên tinh thần ‘tam thưòng bất túc’ phải đưọc duy trì. 

 

Không Tiêu Thụ

 

Không để ý đến chiều sâu tâm linh, các nhà hinh tế hiện đại cổ võ việc tiêu thụ tối đa. Thực phẫm được sản xuất dưới nhiều hình thức quyến rũ và tiện lợi để thúc đầy mọi người ăn thật nhiều bữa, sáng trưa chiều tối, bữa khuya, bữa lở. Tỷ lệ những người bị binh phì nộn (Obese), bịnh tiểu đường, bịnh nhiều mỡ trong máu lên con số kỷ lục. Các nhà kinh tế Phật Giáo biết rằng ‘không tiêu thụ’ nhiều khi có thể giúp ích cho cơ thể lành mạnh. Các tỳ kheo chỉ ăn một bữa ăn trước giờ ngọ, nên buổi tối thân thể của họ nhẹ nhàng, đầu óc tỉnh táo và chú tâm vào việc thực tập thiền quán. Trong các ngày chay tịnh, các Phật Tử được khuyến khích ăn chay, hay nhịn ăn để dồn nổ lực vào việc tu tập. Trong đời sống hiện nay, chư tăng có thể phải vận động và làm việc nhiều, nên theo khế cơ, họ có thể đưọc phép ăn bửa tối, tuy nhiên vẫn phải là những bữa ăn nhẹ. Việc nhịn ăn có thể là một phương tiện làm tỉnh thức để Phật Tử nhớ là trên thế giới còn hàng triệu trẻ con ở Á Châu, Phi Châu và Châu Mỹ La Tinh còn thiếu ăn hay chết đói. Không chịu để ý đến những đau khổ của người chung quanh, đạo Phật không còn là đạo Phật nữa.

 

Tiêu thụ quá mức

 

Xã hội chúng ta thường được gọi là xã hội tiêu thụ. Đúng ra nên gọi là xã hội tiêu thụ quá mức. Không có tiền mua các sản phẩm tiêu thụ thì các ngân hàng ứng trước qua các thẻ tín dụng. Xài trước trả sau. Không trả nổi thì kéo cầy trả tiếp, nhiều khi làm hai ba công việc khác nhau, không có cả thì giờ sống với gia đình, huống chi là thì giờ giải trí. Sự tiêu thụ quá mức đưa đến một hậu quả quan trong là, mục tiêu của tiêu thụ đã bị phá hủy. Chúng ta ăn là nhằm bảo tồn và tăng mức lành mạnh của cơ thể. Nhưng khi ăn quá nhiều, nhất là các thức ăn nhanh, cơ thể thêm bịnh hoạn. Đó là chưa kể việc tiêu thụ các sản phẩm nguy hại như rượu, thuốc lá, cần sa, ma túy đã làm hủy hoại cơ thể, huỷ hoại gia đình và xã hội. Các nhà kinh tế biện hộ họ không phải là nhà đạo đức. Nhiệm vụ của họ là làm dân chúng tiêu thụ tối đa bằng những phương pháp tiếp thị hấp dẫn, bằng quảng cáo khêu gợi về sex, ngay cả trong những sản phẩm không có dính líu gì đến sex và phần lớn người tiêu thụ là trẻ em (Như các quảng cáo các cô người mẫu liếm ice cream) Ngăn ngừa các hậu quả tai hại là nhiệm vụ của các nhà đạo đức và các chuyên viên y tế cộng đồng. Nếu bịnh hoạn thì đã có Bác sĩ lo. Một điều nghịch lý là, trong khi các đại công ty thế giới về thuốc lá và rượu bỏ hàng tỷ đồng để quảng cáo và quyến rũ người tiêu thụ, chánh phủ bỏ hàng tỷ đồng khác để giáo dục quần chúng, và các tổ chức tư nhân bỏ nhân lực và tài lực để tranh đấu lại các đại công ty. Chánh phủ không bao giờ dám ra lịnh kiểm soát việc sản xuất một phần vì nhận những món tiền thuế lớn lao từ các công ty này, một phần vì các đại công ty bỏ tiền mua các người có thế lực và các đại diện dân cử tham dự vào các quyết định này.

 

 

Một trong những nguyên tăc của kinh tế cổ điển là giá trị của sản phẩm tùy thuộc vào khả năng làm người tiêu thụ thỏa mãn. Kinh tế Phật Giáo cũng đồng ý là giá trị của sản phẩm tuỳ thuộc vào mức thoã mãn người tiêu thụ trong những nhu cầu thiết yếu và việc làm tăng phẩm chất của đời sống. Phật Giáo không hề phản đối một đời sống trong đó mọi người sống tiện nghi hơn (điện khí hóa, sản xuất nước sạch để uống, nhà cửa thoáng khi và sạch sẽ, hệ thống giáo dục tốt…) vì những tiện nghi này tăng phẩm chất đời sống. Nước là một nhu cầu sinh tử của con người, Tuy nhiên uống nước sạch, hay “trưởng giả’ hơn là uống trà có thể làm con người thỏa mãn nhu cầu tiêu thụ nước trong cơ thể. Tuy nhiên không nhà kinh tế Phật Giáo nào khuyến khích trẻ con uống Coca hay Pepsi thay thế cho nước lã, cũng như khuyến khích trẻ em ăn nhanh độc hại như là thức ăn căn bản hàng ngày. Ở Úc theo một cuộc điều tra gần đây, 40% (bốn chục phần trăm!) trẻ em dưới 15 tuổi bị những chứng phì nộn (tôi dịch chữ obese với dụng ý!). Các nhà kinh tế thị trường không cần biết tới những hậu quả này. Và ít thấy có chánh phủ nào của các quốc gia đang phát triển dám chống lại những tổ họp quốc tế này. Các Cartel này chỉ cần dùng viện trợ, Ngân Hàng Thế Giới, Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế lám áp lực (xem phần Toàn Cầu Hóa ở các chương kế tiếp). Nếu ai còn nghi ngờ đây chỉ là những luận điệu “chống tư bản” một cách quá khích. cứ nhin gương hai quốc gia Indonesia và Brazil thì rõ.

 

Thỏa Mãn

 

Ý niệm thỏa mãn thực ra không phải là một ý niệm thuần túy kinh tế và thường bị ngộ nhận. Các nhà kinh tế tuy không nói ra những nghĩ là khi ‘cung’ đáp ứng đầy đủ với ‘cầu’ sẽ làm thỏa mãn ngưòi tiêu thụ. Nếu mức ‘cầu’ tăng lên, và các nhả sản xuất lại cố gắng sản xuất cho đủ nhu cầu, và cái vòng lẩn quẩn này sẽ kéo dài vô tận, như con chó đuổi theo cái đuôi của chính nó. Theo Đạo Phật đuổi theo nhu cầu Tanha là dấu hiệu đầu tiên của đau khổ. Các nhà kinh tế thường nói là nếu không có ham muốn, tất cả những hoạt động kinh tế sẽ bị ngưng trệ. Không phân biệt giữa Tanha và Chanda, nhiều người chỉ trích là Đạo Phật muốn diệt dục, và theo họ, điều này hoàn toàn không tưởng. Một số ngưòi khác dùng sự hiểu biết thiếu sót hay sai lạc của chủ trương diệt dục chỉ trích Đạo Phật là yếm thế, trốn đời, không tưởng và ngăn cản sự tiến bộ. Không phải chỉ có những người hiểu sai lạc về Đạo Phật dán nhãn hiệu ‘phản tiến bộ, phản kinh tế.

 

Những người cảm thấy thỏa mãn thường bao giờ cũng có ít nhu cầu hơn những người cảm thấy chưa thỏa mãn. Và sau khi đã thỏa mãn với các nhu cầu tối thiểu, con ngưòi có thể tìm cách thỏa mãn những nhu cầu hướng thượng. Chưa đủ ăn thì không thể nào đủ chú tâm để nghe giảng pháp. Đức Phật có lần ngưng thuyết pháp chờ một người trong đại chúng được cung cấp một thức ăn trước khi giảng tiếp. Có thực mới vực được đạo. Khi đói thì chỉ nghe tiếng bao tử ked6u rồn rột! Khổng và Phật đều đồng ý chỗ này. Tuy nhiên cứ tưởng tượng một người sống chỉ để ăn uống, rượu chè, trác táng, mua các sản phẩm tiêu thụ chỉ để thỏa mãn bản tính khoe khoang, rồi lại làm việc cật lực để trả nợ, cuộc đời của họ chắc hẵn rất chán chường. Một thế giới không có âm nhạc, thi ca, sách vỡ, nghệ thuật chắc là buồn thảm lắm. Phẩm chất đời sống không tùy thuộc vào các loại xe mắc tiền, các quần áo thời trang giá bằng một năm lương của một người nhân công trung bình. Tệ hơn nữa là có nhiều người vẫn tiêu thụ quá mức khi không có khả năng tài chánh để trang trãi. Đức Phật dạy là một trong những yếu tố hạnh phúc trong đời sống của một cư sĩ là không thiếu nợ. Có bao nhiêu Phật Tử không thiếu nợ các thẻ tín dụng hiện nay? Điều này sẽ đưa đến một câu hỏi tối hậu mà chúng ta cần hỏi vào cuối bài: “Đời sống này có ý nghĩa nào hay không?” Các nhà kinh tế tiêu thụ dĩ nhiên từ chối thảo luận về vấn đề siêu hình vì họ bị chứng ‘mù lòa về siêu hình’ như Schumacher đã chỉ trích.  

 

Lao Động

 

Các nhà kinh tế hiện đại xem lao động như là một ‘điều xấu’ cần thiết. Không có lao động thì không thể làm ra sản phẩm, do đó chủ nhân tìm đủ mọi cách để giảm nhân công và tìm cách để tăng hiệu năng bằng phương pháp dây chuyền. Trong hoàn cảnh ‘toàn cầu hóa’ hiện nay, các hãng sản xuất đi tìm nguồn nhân công rẻ nhất và dùng các guồng máy chính quyền địa phương để hợp thức hoá mức lương rẻ mạt này. Khi hãng Nike lập các xưởng sản xuất giày ở các nước Á Châu và thuê nhân công trong những điều kiện ‘nô lệ’, điều nghịch lý là, chỉ các tổ chức tranh đấu nước ngoài phản đối, một phần vì các công ty ngoại quốc đem công ăn việc làm đến là chánh quyền địa phương mừng rồi, một phần nữa có thể là vì các viên chức lao động tham nhũng. Đạo Phật xem lao động như là một loại thức ăn cần thiết cho sự tăng trưởng của con người về vật chất cũng như tâm linh. Một người không có việc làm sẽ không những không có lợi tức và sẽ chìm đắm mãi trong cảnh nghèo đói vì phải sống nhờ vào an sinh (nếu quốc gia này may mắn có hệ thống an sinh), anh ta còn héo hắt về mặt tâm linh, như một cây thiếu nuớc và mặt trời. Kinh tế Phật Giáo muốn (hay mong ước) thiết lập một hệ thống kinh tế mà ai cũng có thể kiếm được việc làm, nếu họ THỰC SỰ muốn làm việc. Lao Động không phải chỉ để có một tiền lương hay là một trở ngại cho một người chỉ muốn đi tìm lạc thú. Làm việc là một lạc thú. Những người nào bị thất nghiệp dài hạn sẽ có cái cảm tưởng chán ngán, vô vị, đời sống không có một ý nghĩa nào và họ không còn tự tin nữa. Nếu một người đi làm chỉ với mục đích kiếm tiền để mua các sản phẩm tiêu dùng và để có phương tiện ‘mua’ lạc thú, họ không bao giờ thỏa mãn với công việc làm của chính họ, cho dù là việc làm đó có tốt đến bao nhiêu.  Một công nhân chỉ cảm thấy thỏa mãn khi làm việc nếu anh ta “yêu việc yêu nghề” Trong một nên kinh tế tiêu thụ, phần lớn các công việc làm đểu vụn vặt không ý nghĩa và thường làm công nhân bất mãn, tuy nhiên nếu nhận ra được yếu tính của lao động, ít nhất công nhân cũng có thể giảm nổi chán chường và tăng mức thỏa mãn khi làm việc. Những công việc làm thúc đẩy bởi Chanda bao giờ cũng đem đến vui sướng, dù mức lương cao hay thấp. Những người làm việc cho các tổ chức từ thiện quốc tế, những Y Sĩ Không Biên Giới (Doctors Without Borders), có thể minh chứng cho lập luận này

 

Sản xuất

 

Trên thực tế sản xuất không có nghĩa là tạo một sản phẩm từ không ra có, mà là chỉ là một quá trình thay đổi từ hình thái hay năng nượng này qua một hình thái và năng lượng khác. Thường muốn tạo ra sản phẩm các kỹ nghệ phải phá hủy một hình thái-năng lượng cũ để tạo ra một sản phẩm mới. Một sự sản xuất ‘tốt’ khi hình thái-năng lượng sản xuất có giá trị và cần thiết hơn là cái cũ trong mục đích cải thiện phẩm chất của đời sống. Có nhiều sản phẩm chỉ nhắm tới một mục đích duy nhất là phá hoại môi sinh và tàn hại con người, thí dụ như kỹ nghệ vũ khí. Trong trường hợp này không sản xuất tốt hơn sản xuất và không tiêu thụ thì tốt hơn là tiêu thụ! Bất hạnh thay những nưóc sản xuất vũ khí là những nước hùng mạnh nhứt, và nhằm ‘khuyến khích’ tiêu thụ, nếu không có một cuộc chiến này, sẽ có một cuộc chiến khác. Để có thể bán vũ khí, các nước sản xuất vũ khí phải tạo ra lo sợ triền miên, lo sợ thực hay tưởng tượng. Các kinh tế gia định nghĩa sản phẩm chỉ khi nào chúng có thể mua bán. Những nụ cười thân thiện, những bài pháp thoại, những cử chỉ thân thiện chỉ là những sản phẩm phi kinh tế, không đáng để ý tới. Trong quá trình sản xuất các kỹ nghệ đã phải sử dụng nhiên liệu, và thường sử dụng một cách hoang phí các nhiêu liệu không tái tạo được (than đá, dầu lửa, phá rừng để sản xuất nông nghiệp ở các nước đang phát triển). Hậu quả là môi sinh bị tàn phá mạnh mẽ hơn bao gìờ hết. Và không phải tất cả những sản phẩm đều cần thiết. Trong khi còn hàng triệu người chưa có nước sạch để uống, người ta tự hỏi liệu những sản phẩm như Coca, Pepsi có thực sự cần thiết cho trẻ con ở Việt Nam hay Nam Mỹ không? Những biển quảng cáo sản phẩm tiêu thụ đã hiện diện tại trung tâm thành phố Hà Nội, có một bài báo trên tờ Time châm biếm là, sau hơn 20 năm chiến đấu chống sự can thiệp của ngoại bang, ai mới là người thực sự chiến thắng? Quá trình toàn cầu hoá không thể nào đảo ngược được vì thế lực các tổ hợp với sự hổ trợ của các cường quốc, tuy nhiên với một chánh sánh không ngoan, mức tàn hại của một xã hội tiêu thụ. Lý tưởng của Đạo Phật, trung đạo và con đường tâm linh, có thể góp phần tích cực trong việc hình thành chánh sách này.

 

Ý nghĩa cuộc đời

 

Dĩ nhiên là ý niệm này hoàn toàn không hề được các nhà kinh tế đè cập tới vì đây là một sản phầm ‘phi kinh tế’ liên hệ đến các truyền thống tâm linh và tôn giáo. Tuy nhiên chúng ta có thể hỏi mục tiêu của các hoạt động kinh tế là gì?  Tại sao chúng ta lại cố gắng sản xuất cho thật nhiều, bán buôn cho thật nhiều, tiêu thụ sản phẩm cho thật nhiều? Chúng ta sinh ra trên đời chỉ để tiêu thụ?

 

Trong bát chánh đạo, Phật đặt chính kiến vào hàng đầu. Cái nhìn về cuộc đời đưa đến một ‘triết lý’ sống và triết lý này chi phối mọi tư tưởng và hành động của chúng ta. Thuyết trùng trùng duyên khởi cho chúng ta thấy đây mà một liên hệ hai chiều, ba chìều, năm chiều, như trong mạng lưới Đế Thích (Kinh nhật tụng: lưới đế châu, lưới đạo tràng) Cái này phản chiếu cái kía, ảnh hưởng cái kia trong một vòng tròn sinh động.Chánh Kìến là một dòng sông trôi chảy lẫn lộn nhân quả. Ở bình diện cá nhân đó là cái nhìn về đời sống. Ở bình diện quốc gia, đó là ý thức hệ hay lý thuyết chính trị làm nền tảng vận hành guồng máy.

 

Không có chính kiến tất cả triết lý cuộc đời cũng như hành động sẽ tại ra những nghiệp bất thiện. Một cá nhân chỉ tạo biệt nghiệp cho mình trong khi ý thức hệ quốc gia có thể gây ra cộng nghiệp vì gây ra những tàn phá lớn lao không lường được. Chỉ cần nhớ đến chủ nghĩa Quốc Xã, chủ nghĩa “đánh trưóc tính sau” của TT Bush, và các ngưòi lãnh đạo Tân cổ điển thì thấy ngay những hậu quả này.

 

Vậy thì “kiến’ của các nhà kinh tế tiêu thụ là gì? Các tiến bộ trên bình diện kinh tế, xã hội, chánh trị, khoa học trên nguyên tắc giúp cho mọi người theo đuổi hạnh phúc.Tuy nhiên khi định những tiêu chuẩn hạnh phúc, ý kiến khác nhau bắt đầu sinh ra. Hạnh phúc như cái bóng, càng đuổi càng xa. Muốn có hạnh phúc chúng ta phải thấy những nguyên nhân lẫn hậu quả của hạnh phúc và đau khổ. Quan điểm Đạo Phật rất giản dị: chạy theo Tanha, thỏa mãn ngũ dục mà thôi là bước đầu trầm luân trong đau khổ và bám víu vào ngũ dục là nguyên nhân đích thức của đau khổ, sự thực thứ hai trong Tứ Diệu Đế. Xã hội sản xuất và tiêu thụ lớn nhất là Mỹ. Dân chúng Mỹ có thực sự đạt đến hạnh phúc? Tờ Life có lần chụp một tấm hình tính cờ của các người chờ đèn xanh để qua đường. Mặt mũi ai nấy đếu căng thẳng, lo âu, không có vẻ gì là nét mặt của những người sung sướng. Dùng những chỉ số xã hội, kinh tế và chánh trị để đo lường, các nước có ‘hạnh phúc’ nhất là các nước Bắc Âu và Úc đứng hàng thứ năm. Trong 10 nước ‘hạnh phúc’ đứng đầu, không có nước Mỹ!

 

Theo Phật Giáo, nguyên nhân lớn nhất của đau khổ là bám víu những gì mình có. Bám víu là một ‘hành’ từ bên trong. Phá vỡ được các bám víu này tức là phá được xiềng xích đau khổ. Trên bình diện thực tế, Đạo Phật không chống lại sự phồn thịnh giàu sang, nhất là không bao giờ ca ngợi nghèo khổ, tuy nhiên Đạo Phật khuyến khích con người buông xả những cái vô thường bên ngoài. Đức Phật có lần dạy một cư sĩ cách tiêu tiền: tiêu tiền cho cá nhân, tiêu tiền để giúp đỡ cho gia đình, để dành phòng khi trái gió trở trời và phần còn lại giúp vào việc từ thiện công ích. Hạnh phúc không phải là nhắm mắt tiêu thụ bừa bãi. Tiêu thụ chỉ là một phương tiện để đáp ứng với nhu cầu căn bản và có một đời sống thoải mái và do đó con người có nhiều cơ hội theo đuồi các nhu cầu tinh thần và tâm linh. Dĩ nhiên hạnh phúc tối hậu là giải thoát. Giác ngộ nghĩa là tìm thấy hạnh phục tuyệt đối, vì những yếu tố bên ngoài như tiền tài, sự nghiệp, danh vọng không còn làm động tâm mình nữa. Nói như Đào Tiềm, chúng ta không còn đem tâm để hình hài sai khiến.   

 

 

                                                                                                                                                Chương Bốn

 

Kinh tế Phật Giáo theo quan điểm Tịnh Độ Nhật

 

Chủ nghĩa tư bản thành một khuôn mẫu kinh tế và chánh trị duy nhất ‘tượng trưng’ cho dân chủ và thịnh vượng của cả thế giới. Trong tác phẩm The End of History, Fukuyama lạc quan tuyên bố một cách chắc nịch ‘lịch sử đã đến giai đoạn cuối với chủ nghĩa tư bản’. Để dân chúng tại các nước đang phát triển khỏi lở ‘chuyến tàu lịch sử’, quá trình toàn cầu hóa được phát động nhằm ‘khuyến khích’ chánh quyền của các quốc gia này đón nhận mô thức dân chủ kiểu Tây Phương về mặt chính trị và mô thức tự do mậu dịch về mặt kinh tế. Nga và khối Đông Âu, sau một thời gian ngắn ‘dân chủ hóa’, nhà cầm quyền và dân chúng bắt đầu tự hỏi việc đeo đuổi mô thức chánh trị-kinh tế kiểu Mỹ là có phải là một thái độ sáng suốt. Các nước nghèo Châu Mỹ La Tinh cũng sau một thời gian theo chủ trương ‘Mỹ Châu của người Châu Mỹ’, mở rộng cửa cho chánh sách tự do mậu dịch trong, khi nhìn lại chỉ thấy cái hố sâu ngăn cách giữa người nghèo và người giàu càng ngày càng thăm thẵm. Ngay cả các nước Nam Mỹ giàu có nhất, qua một đêm bừng con mắt dậy, chợt thấy mình đang nằm trên bờ vực phá sản, điển hình là Mexico, Brazil và Argentina.  

 

 

Francis Fukuyama

 

Khi thố lộ là đang nghiên cứu về kinh tế Phật Giáo, một người bạn thân nhìn tôi một lúc lâu, rồi nói: “Như vậy đề tài chắc giới hạn lắm!” Giới hạn? Ngoài chuyện trở lại lục lạo giáo lý căn bản của Phật Giáo xem có nguyên lý nào hổ trợ cho ý niệm kinh tế, tôi còn phải theo dõi xem Đức Phật có đề cập gì đến sinh hoạt kinh tế hay không. Khi theo dõi những hậu quả của kinh tế thị trường, tôi còn phải đi tìm hiều lập trường của Phật Giáo về các vấn đề môi sinh, nhất là đối với việc khai thác tài nguyên không tái tạo, thái độ đối với sự nghèo khổ (và những chế độ chinh trị đưa đến nghèo khổ), đối với chủ trương tiêu thụ hàng hóa thả cửa, đối với công ăn việc làm, vai trò của từ bi trong các hoạt động thương mãi và cuối cùng đến một câu hỏi tối hậu mà mọi tôn giáo đếu muốn có câu trả lời: ý nghĩa của đời sống là gì? Tại sao con người tiếp tục trầm luân trong biển khổ và làm cách nào để qua bên kia bờ hạnh phúc. Không những đề tài không bị giới hạn mà càng ngày tôi càng bị lôi cuốn vào nhiều lĩnh vực khác nhau, từ kinh tế, chính trị, tâm lý, đạo đức và siêu hình! Tôi có một người bạn cũng đang nghiên cứu về đề tài kinh tế Phật Giáo để trình luận án tiến sĩ ở đại học Miền Tây Sydney (UWS). Có lần anh nói: ‘Tôi sẽ đưa ra một mô thức để thay đổi tận nền tảng đạo đức Tây Phương”. Lúc đó tôi bán tín bán nghi, chỉ chúc tụng xã giao: ‘Good luck!’  

 

Có một đường lối “thứ ba” nào có thể làm kinh tế phát triển mà không làm tổn hại đến địa cầu và giúp mọi người cùng hưởng những thành quả kinh tế không? Và ngay cả khi con người hưởng thụ tràn trề mọi tiện nghi vất chất, con người có đạt đến “hạnh phúc” không? Con đường “trung đạo” của Đạo Phật có thể đóng góp được gì?

 

Không phải đợi tới khi Schumacher nhắc nhở kinh tế phải phục vụ con người, “as if People mattered”. “As if” là một ước mơ, là một lời kêu cứu!  Kinh tế càng ngày càng trở nên chuyên biệt hóa và có tham vọng trở thành một ‘khoa học’ của những “con số”. Con người đột nhiên biến mất và ‘people don’t matter any more’! Kể từ khi giải Nobel kinh tế đưọc Hội Hàn Lâm Thụy Điển đề nghị từ năm 1968, các kinh tế gia Mỹ (hay có quốc tịch Mỹ) khống chế số người được gìải. Cho đến năm 1996 có 24 kinh tế gia Mỹ trong số 40 người nhận giải Nobel và phần lớn chuyên về kinh toán học (Econometrics). Các nhà kinh tế này thường đề nghị những mô thức toán học để tiên đoán các mô thức phát triển. Ngược lại các nhà kinh tế Âu Châu có cái nhìn dịu dàng hơn về con người. Sir John Hicks (đọat giải Nobel năm 1972) cho thấy trong hàng ngũ của các kinh tế gia Âu Châu đã có những dấu hiệu “bất tín nhiệm” các mô thức dựa trên kinh toán và xem kinh tế không thể nào hoàn toàn là một môn khoa học “phổ quát” “hợp lý” thường được gọi là ‘economic rationalism’. Joseph E. Stiglitz, người được giải Nobel 2001, phó giám đốc Ngân Hàng Thế Giới (World Bank) đã chỉ trích những biện pháp cứng nhắc sai lầm của Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF) và Amartya Sen, người được giải Nobel năm 1998, đã đưa ra một con đường “thứ Ba”, vừa giúp các nước thuộc thế giới thứ Ba phát triển, vừa bảo vệ kinh tế và văn hoá địa phương, cũng như thực hiện một chánh sách phân phối tài sản quốc gia một cách công bằng hơn. Quan điểm của hai kinh tế gia trên rất quan trọng bởi họ là những kinh tế gia từ ‘bên trong’.

 

Nổ lực dùng đạo đức để hướng dẫn đường lối phát triển kinh tế không phải chỉ mới xuất hiện gần đây, ngay chính “cha đẻ’ của nền kinh tế tự do, Adam Smith (1723-1790) cũng đã đặt vấn đề này. Trong khi tác phẩm The Wealth of Nations được khai thác một cách tận tình và được xem như là thánh kinh, tác phẩm The Theory of  Moral Sentiments của Smith, đặt vấn đề liên hệ giữa tư lợi và đạo đức, bị các nhà kinh tế cố tình bỏ quên. Trong khi The Wealth of Nations cồ võ cho một nền kinh tế bất can thiệp (Laìssez-faire) và cho rằng tham lam và tư lợi là “bản chất” của con người và là động cơ chính yếu thúc đẩy các hoạt động kinh tế. Kinh tế bất can thiệp sẽ tạo sự giàu có cá nhân và do đó đưa đến sự giàu có quốc gia. Giả thuyết “bàn tay vô hình” hướng dẫn thị trường của Smith đã bị thách đố và hiện nguyên hình là những ‘giả thuyết’, những ‘tiền đề’, cũng giống như tiền đề “ai cũng có Phật Tính” hay ‘nhân chi sơ tánh bản thiện” của Mạnh Tử. Vào cuối đời, khi cuộc cách mạng kỹ nghệ lên tới mức cao điểm, chính Smith đã chứng kiến bộ mặt trái của nên kinh tế tự do: các nông dân Anh bỏ nông thôn ra thành thị tìm việc làm nhưng thay vì hưởng được thành quả của cuộc cách mạng kỹ nghệ, họ trở thành công nhân vô sản ở các thành phố lớn. Họ sống một cuộc đời lầm than, vất vưởng không gốc không rễ. Chính sự bần cùng do cuộc cách mạng kỹ nghệ gây ra đã biến thành một mảnh đất mầu mỡ cho sự phát triển của chủ nghĩa Mác và sự  thành lập các chế độ Cộng Sản. Các kinh tế gia Anh sau đó ít người còn tin vào “bàn tay vô hình” của Smith, như J.S Mills (1806-1873), Alfred Marshall ( 1842- 1924) và nổi tiếng nhất là J.M. Keynes (1883-1946), đều nghiêng về sự can thiệp của chánh phủ trong trường hợp cần thiết để ngăn chận những hậu quả thái quá của Kinh Tế Thị Trường.

 

Nhà kinh tế Anh Joan Robinson (1903-1983) nửa thật nửa đùa nói là mọi người nên theo học kinh tế, không phải để tìm một giải pháp nào, nhưng để khỏi bị các huyền thoại kinh tế đánh lừa. Cũng như nhiều môn tự nhận “khoa học’ khác, môn kinh tế có nhiều “huyền thoại” cần được “giải hoặc”. Thí dụ như huyền thoại lòng tham lam là ‘bản tính con người’, tư lợi cá nhân là động lực chính thúc đẩy các hoạt động kinh tế và “bàn tay vô hình” sẽ tự động điều hợp các hoạt động kinh tế.  Từ lúc Thatcher- Reagan nắm chính quyền, các quốc gia đang phát triển đã được “khuyến khích”, “thúc đẩy” và nếu cần “ép buộc” các quốc gia này chấp nhận mô thức phát triển Tây Phương. Ở đâu người ta cũng nghe ‘kinh tế thị trường, please, please!’ kể cả những quốc gia theo ‘xã hội chủ nghĩa’.

 

Shinichi Inoue, một người lãnh đạo ngành tài chánh và ngân hàng của Nhật, đã dùng tư tưởng của Đạo Phật để nghiên cứu là cổ động cho một nền kinh tế không (hay ít ra cũng bớt) tàn hại môi sinh. Sau khi tốt nghiệp ngành kinh tế tại đại học Tokyo, Inoue gia nhập Bank of Japan và dần dần đảm nhiệm những chức vụ quản lý cao cấp. Sau đó ông được đề cử vào chức vụ Chủ Tịch Ban Quản Trị Ngân Hàng Miyakazi vào năm 1975. Hiện nay ông là chủ tịch phong trào tổ chức Phát Triển Phật Giáo (Bukkyo Shinko Zaidan) và là một thành viên của Viện Nghiên Cứu Kinh Tế Phật Giáo thuộc Đại Học Komazawa.  Cũng như phần lớn các thanh niên tân học, ông chỉ đến với Phật Giáo khi có những xáo động tâm linh lớn lao. Cha mẹ ông qua đời khi ông còn là một học sinh tiểu học. Nhận thấy lời Phật dạy về vô thường, ông bắt đầu nghiên cứu tư tưởng của Đạo Nguyên, tổ phái thiền Tào Động và Thân Loan (Tổ phái Tân Tịnh Độ Nhật), dù thoạt nhìn tư tưởng hai phái này có vẻ tương phản nhau. Trong thời gian theo học ngành kinh tế, ông lấy làm ngạc nhiên vì chương trình học không để ý gì đến mối liên hệ giữa đạo đức và kinh tế, không để ý đến việc phân phối tài sản quốc gia để mọi người có thể hưởng được thành quả kinh tế. Dù Phật Giáo đã thấm sâu vào văn hóa Nhật, chương trình kinh tế tại các đại học không để ý gì đến vai trò của Phật Giáo trong các mô thức phát triển. Chỉ khi ông về hưu, ông mới đọc được một tác phẩm “kinh tế Phật Giáo” do Giáo Sư Tomoji Hirayama thuộc đại học Tsukuba. Sau đó ông hoàn toàn để thì giờ nghiên cứu về kinh tế Phật Giáo tại đại học Phật Giáo Komazawa. Ông thú nhận đã bị ảnh hưởng sâu đậm từ tác phẩm của E. F Schumacher, Small is Beautiful. An Economic As If People Mattered.

 

Sự tương phản giữa một khoa học công khai ca ngợi tham lam là tốt (Greed is Good), cổ động cho lòng ham muốn tiêu thụ và vinh danh luật “chọn lựa tự nhiên về phương diện xã hội”, ai mạnh thì người ấy sống sót, và một tôn giáo chủ trương giảm thiểu ham muốn và lấy từ bi làm căn bản đạo đức đã quá rõ ràng! Sau nhiều năm thảo luận với các lãnh tụ doanh nghiệp và công nhân, Inoue đã hoàn thành hai tác phẩm Buddhist Business Management được phát hành vào năm 1987 và Economics To Save the Earth, phát hành vào năm 1994. Hai tác phẩm trên được tổng hợp và dịch ra Anh Ngữ với nhan đề Putting  Buddhism To Work do nhà xuất bản Kodansha xuất bản vào năm 1997. Như nhan đề cho thấy Inoue không chú tâm bàn luận đến những vấn đề lý thuyết như Schumacher, nhưng đề cập đến yếu tính của một nền kinh tế Phật Giáo cũng như những gì đã được ứng dụng và thực hiện tại Nhật, một nước Á Châu có thành quả về kinh tế không thua bất cứ một nước Tây Phương nào.                                             

 

Theo Inoue, Nhật là một quốc gia thích hợp nhất để tìm một mô thức phát triển kinh tế thị trường “mới”, dựa trên những giá trị đạo đức truyền thống, nhất là Phật Giáo. Cuộc đời của Đức Phật là một thí dụ điển hình để suy nghĩ về mô thức kinh tế. Đức Phật đã từ bỏ những tiện nghi vật chất trong cung vàng để đi tìm một giải đáp cho nhu cầu tâm linh. Sau nhiều năm học hỏi nhiều cách tu tập khác nhau, Phật nhận thấy rằng con đường khổ tu cũng cực đoan như con hưởng hưởng thụ vật chất. Phật Giáo không bao giờ nên được hiểu như một tôn giáo phủ nhận kiếp nhân sinh hay chỉ dành cho những người tu tập trong hang thâm cùng cốc hay quay lưng lại với cuộc đời. Trong khi thế hệ đệ tử sống gần Phật khi Ngài còn tại thế trong có thái độ bảo thủ và xa cách với quần chúng, các tân tăng trong các phái đại thừa hiểu rõ về bài học của cuộc đờì của Đức Phật. Nếu muốn từ bỏ cuộc đời, Đức Phật đâu có bỏ ra 45 năm truyền bá giáo pháp. Đối với các Phật Tử Đại Thừa, Phật Giáo là con đường Phật Giáo Nhập Thế của các vị Bồ Tát. Nói nhập thế là nói gượng ép, vì nói cho rốt cùng, Phật Giáo nào mà chẳng nhập thế. *

 

Một trong những người thấm nhuần Phật Giáo trong hoàng gia Nhật là Thái Tử Shotoku (574-622) và là một trong những người thảo Hiến Pháp Thập Thất Điều của Nhật, trong đó phản ảnh đậm đà tư tưởng Phật Giáo. Hiến pháp Nhật cổ động cho sự hoà hợp và độ lượng giữa các tôn giáo (giữa Thần Đạo và Phật Giáo). Một dấu ấn quan trọng khác trong hiến pháp Thất Thập Điều là việc đặt trọng tâm vào sự an sinh của dân chúng, nhất là những người nghèo. Trong thời kỳ này các tự viện Phật Giáo Nhật thường dựa vào sự cúng dường của giai cấp thương gia. Có thể vì muốn đề cao vai trò của giới thương mại, quan niệm về quyền sở hữu, tài sản và tiền bạc của giới sa môn cũng rộng rãi hơn so với Phật Giáo Tiểu Thừa. Trong thời đại Tokugawa (1600-1868) Nhật bắt đầu bước vào một thời đại phồn thịnh về kinh tế và hệ thống tiền tệ đã bắt đầu có cơ sở vững chãi.  Một nhà nghiên cứu về nước Nhật, Edwin O. Reischauer (1910-1990) nhận xét đây là giai đoạn nước Nhật phát triển một chủ nghĩa “tư bản” cho riêng mình.  Một nhà nghiên cứu khác, Robert Bellah, cho rằng thời kỳ phát triển kinh tế này ở Nhật tương đương với thời kỳ phát triển kinh tế tư bản ở Tây Phương, dưới ảnh hưởng của đạo đức Tin Lành.

                                                                                                                       

Một trong những nhà sư có ảnh hưởng đến chủ nghĩa “tư bản” quốc gia Nhật là Suzuki Shasan (1579-1655) Nhà sư này cho rằng dù làm một công việc gì, cá nhân đó đều đáng tôn trọng vì họ đang hành trì một pháp môn trên con đường giác ngộ. Shasan thường nhắc nhở đến pháp thoại sau: “Những người nào đang làm việc trong các hoạt động kinh tế sẽ được tưởng thưởng xứng đáng cho những cố gắng của họ, bởi vì những công việc làm nảy cũng là một cách thực tập tâm linh”. Ông khuyến khích các thương gia suy nghĩ về những giá trị tâm linh, nên thành thật trong các hoạt động thương mãi, và phát tâm Bồ Tát, hành sử như các vị Bồ Tát,  lúc nào lo lắng đến an sinh của người khác. Quan niệm này cũng tương tự như quan niệm của Schumacher về công việc làm. Công ăn việc làm không những đem lại lợi tức cần thiết để sinh sống, mà còn là thực phẩm nuôi dưỡng tâm linh. Do đó một thương gia chân chính không những xứng đáng có một đời sống vật chất dồi dào, họ còn có cơ hội tu tập tâm linh. Tư tưởng này cũng rất gần gũi với quan niệm của Weber về sự liên hệ giữa giá trị đạo đức Tin Lành và quá trình phát triển kinh tế Tư Bản ở Tây Phương. Trái với hiểu lầm thông thường, Phật Giáo không bao giờ cổ động cho sự nghèo khổ, nhất là sự nghèo khổ đó do một cơ cầu chánh trị và xã hội bất công gây ra. Thành quả vật chất và một đời sống sung túc không có gì sai trái nếu như tài sản kiếm được bằng những phương tiện chính đáng, như cần kiệm, khả năng cao và nhiều sáng kiến.Tuy nhiên một trong những hạnh nguyện của Bồ Tát là Bố Thí, nghĩa là sử dụng tài sản một cách hợp lý và rộng rãi. Bủn xỉn mới là điều đáng trách vì chứng tỏ người này còn chấp ngã và lúc nào cũng khư khư giữ chặt tài sản. Đạo Đức Tin Lành biện chính cho sự giàu sang trong xã hội Tư bản bằng cách cho rằng sự thành công về mặt vật chất phản ảnh ân sủng trực tiếp của Thiên Chúa. Điểm khác nhau giữa hai bên là, trong khi Phật Giáo khuyến khích các tín đồ tiết dục, Tin Lành khuyến khích tín đồ tích lũy tài sản. Càng giàu chừng nào chứng tỏ càng được nhiều ân sũng của Thiên Chúa chừng đó.

 

Một khuôn mặt khác đóng góp nhiều cho chủ nghĩa “Tư Bản” quốc gia Nhật là Rennyo (1415-1499) Ông là tổ khai sơn thứ nhì của phái Jodo Shinshu thuộc tông Tịnh Độ. Nhà sư này đã khuyên các thương gia: “Khi hoạt động thương mãi, nên xem công việc của mình như là công việc hoằng hoá của Phật”. Các thương gia khắp nước Nhật trân trọng lời khuyên này, nhất là ở hai khu vực Ohmi (Shiga) và Osaka, nơi ảnh hưởng của vị sư này mạnh nhất.  Ngay cả đến ngày nay, một doanh nghiệp được sáng lập ở khu này, Itochu, đã phát triển thịnh vượng nhờ chấp nhận lời khuyên này.

 

Những kinh nghiệm về kinh tế tư bản ở Nhật              

 

Kinh tế Nhật phát triển từ thời đại Tokugawa và mặc dù cần nhiều tư bản và nhiên liệu để sản xuất, nhưng đó là một mô thức kinh tế “tái chế biến” và tránh làm ô nhiễm môi sinh, khác với nên kinh tế hiện đại của Nhật.

 

Đây là triều đại võ sĩ đạo sứ quân, kinh đô được đặt ở Edo. Lúc đó triều đình và các sứ quân nơm nớp lo sợ thế lực thực dân Tây Phương vì Nhật chứng kiến các nước thực dân đến xâm chiếm các quốc gia Đông Á, đàn áp chánh trị, bốc lột kinh tế và dùng các nhà truyền giáo dùng mọi phương thức cải đạo tập thể dân địa phương. Tin Lành lẫn Thiên Chúa, trở thành khí cụ xâm lăng văn hoá và nhắm bứng gốc rễ tinh thần của các dân bản địa. Chánh quyền sứ quân do đó đã thi hành một chánh sách đóng cửa, chỉ buôn bán với Hòa Lan và chỉ mở một cửa cảng, Nagasaki, để giao thương. Edo trở thành trung tâm kinh tế quốc nội và chánh quyền trung ương áp lực các sứ quân địa phương để có những giao hoán thường xuyên giữa kinh đô và các thành phố địa phương. Người ta chứng kiến các giao lưu nhân sự và thương mãi nhộn nhịp, hàng hoá, tiền bạc và khiến kinh tế quốc nội phồn thịnh. Bấy giờ Edo là một có thành phố đông dân và hoạt động kinh tế làm các thành phố càng ngày càng nhộn nhịp. Thế nhưng chánh quyền áp dụng chánh sách tái chế biến để giảm ô nhiễm môi sinh và là một kinh tế tái chế biến có hệ thống qui mô so với thời bấy giờ. Phân người được thu nhặt và tái chế biến thành phân bón và chuyên chở đến các nông dân tại các vùng xa xôi. Phân bón được hoán đổi với rau cải hay các hoa màu khác. Một hệ thống các ống bằng gỗ được dùng để dẫn và phân phối nước một cách có hiệu năng và tránh phung phí. Các rác thãi từ các thành phố cũng được đốt và tái chế biến thành phân bón. Các dụng cụ được chế tạo bền bĩ lâu hư để khỏi phải sửa chữa. Các nước dơ thay vì thãi ra có thể làm dơ bẩn sông lạch, được dẫn về các nơi nhất định để nước tự thấm vào lòng đất. Các kỹ thuật tái chế biến này từ thời kinh tế Edo được viện nghiên cứu Nishihara Eisei, được thành lập từ năm 1916, tiếp tục cải thiện để chế biến các rác rến thãi ra từ các hệ thống rãnh hiện nay ở Nhật. Những nguyên tắc tái chế biến để giảm mức ô nhiễm một cách tối đa này được gọi là Mottainai. Từ ngữ Nhật này có nghĩa là con người cảm thấy nhỏ bé trước thiên nhiên vĩ đại và đồng thời cũng cám ơn thiên nhiên đã cung cấp tài nguyên cho mọi chủng loại sống còn. Ý niệm này phát nguồn từ sự kính trọng thiên nhiên của Đạo Phật: tất cả chúng sinh, từ đất đá cỏ cây đều có đời sống riêng và có Phật Tánh.

 

Một nhân vật nữa, Ishida Baigan (1685-1744) đã phối hợp đạo lý của tam giáo tại Nhật (Thần Đạo, Phật và Khổng) để làm nền tảng đạo đức cho giới thương gia ở thời Edo tại Nhật.

 

Đến thời Minh Trị (1868-1912) Thần Đạo bắt đầu thắng thế và vai trò của Phật Giáo bắt đầu lu mờ. Các tư tưởng Tây Phương cũng bắt đầu du nhập vào Nhật. Trong giai đoạn này một người được xem như là nhân vật đóng góp rất nhiều vào kinh tế tư bản Nhật hiện đại, Eiichi Shibusawa (1840-1931). Gốc nông dân, nhưng sau ông cố gắng vươn lên một địa vị chính yếu trong chánh quyền, Shibusawa tin tưởng rằng thương mại và đạo đức phải song hành với nhau. Một nhân vật khác, Zenjiro Yasuda (1838-1921) đã thành lập một ngân hàng tư nhân lớn nhất ở Nhật, the Fuji Bank. Ông là một tín đồ thuần thành của Phái Tịnh Độ và bắt đầu sự nghiệp từ vai trò của một người đổi tiền. Không như những ngân hàng lớn khác thường đối xử với khách hàng tuỳ theo địa vị xã hội, Yasuda đối xử với mọi người hoàn toàn như nhau. Đối với các tín đồ trong phái Tịnh Độ, mọi người đều tuyệt đối bình đẵng dưới mắt Đức Phật A Di Dà. Châm ngôn của Ngân hàng của ông là “khi hoạt động thương mại, phải biết quên mình và đặt mình vào địa vị của khách hàng”.  Ông tặng nhiều số tiền lớn cho các Hội Từ Thiện nhưng không cho ai biết tông tích. Đến khi ông mất, mọi người mới biết ông đã giúp đỡ cho nhiều hội từ thiện.

 

Người kế thừa Yasuda là Kichizaemon Takemura (1900-1984), tiếp tục xây dựng công ty bảo hiểm Yasuda Mutual Life Insurance và tiếp tục cổ động nhũng ý tưởng Phật Giáo trong các hoạt động kinh tế. Ông xuất bản tập san Kokoro no Kate (Thực Phẩm Tâm Linh) và thành lập tổ chức Hoằng Hoá Phật Giáo (Bukkyo Shinko Zaidan).  

 

Những nguyên tắc nền tảng     

 

Không như tỳ kheo Payutto dùng kinh điển để giải thích các ý niệm kinh tế, Inoue dùng một số nguyên tắc căn bản của Phật Giáo Đại Thừa để thành hình một mô thức kinh tế mà trọng tâm là phục vụ con người. Kinh tế hiện đại sa lầy vào con đường định lượng và cố gắng chứng tỏ tự thân là một loại khoa học không bị ràng buộc vào một giá trị nào (value free). Nguyên tắc đầu tiên Đại Thừa dựa trên lời nguyện của Bồ Tát. Bồ Tát từ chối theo con đường Độc Giác Phật, quyết ở lại cõi ta bà để cứu độ tất cả chúng sinh. Nguyên tắc kinh tế đầu tiên do đó là ‘lợi mình và lợi người’. Kinh tế thị trường chỉ thúc đẩy con người nhắm mắt chạy theo tư lợi và làm tất cả mọi cách để đạt đến mục đích này. Đó là một thứ ‘luật rừng xanh’ về mặt xã hội, như luật sống còn của những chủng loại mạnh nhứt trong thuyết tiến hoá của Darwin. Thân Loan (Shinran 1173-1263), người sáng lập ra tông Tịnh Độ ở Nhật, nhấn mạnh đến nguyên tắc lợi mình-lợi người trên bình diện tôn giáo, nhưng nguyên tắc này có thể áp dụng vào mục tiêu kinh tế. Một vị sư khác, Đạo Nguyên, cũng nói: “Khi đạt đạo thì không còn phân biệt đâu là ta- đâu là người”. Nhà kinh tế Schumacher cũng nhấn mạnh đế nguyên tắc này trong Small is Beautiful. Nhiều người lo ngại là nguyên tắc này đã bị lợi dụng qua câu khẩu hiệu: “Một vì tất cả, tất cả vì một” của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Họ lý luận là một nền kinh tế nhấn mạnh đến quyền lợi chung đã thất bại và sự phá sản là một bằng chứng quá hiển nhiên.

 

Nhiều người nghĩ lòng vị tha- bố thí (hiểu như hạnh Bồ tát) có thể giúp cá nhân trong việc tu nhân tích đức để kiếp sau được tái sinh vào một giai tầng ‘khá’ hơn, nhưng không đóng một vai trò tích cực nào trong hoạt động kinh tế. Inoue dẫn chứng trường hợp của Henry Ford (1853-1947), một nhà sản xuất xe hơi lớn nhất ở Mỹ. Các quản lý doanh nghiệp thông thường tìm cách giảm sở phí nhân công càng nhiều càng tốt và trong trường hợp của kinh tế toàn cầu, dùng nhân công ở các nước đang phát triển vì tiền lương rẻ mạt. Tuy nhiên Ford nhận thấy rằng hàng hóa sản xuất phải có người tiêu thụ, nên trả lương nhân công ở mức khá cao để họ thu nhập đủ để mua xe và đồng thời tìm cách kiện toàn kỹ thuật sản xuất hàng loạt để hạ giá thành của xe hơi ở mức tối thiểu. Inoue cũng đưa ra một thí dụ khác liên hệ đến một nhà kỹ nghệ Nhật, Tadao Yoshida (1908-), chủ nhân kỹ nghệ sản xuất zipper. Ông ta vừa cố gắng giữ giá thành ở một mức hợp lý để cho có nhiều người tiêu thụ và đồng thời dùng tiền lời đầu tư vào việc nghiên cứu để hoàn thiện kỹ thuật sản xuất zipper và công ty của ông hiện nay trở thành một công ty đứng hàng đầu thế giới về ngành này.

 

Cũng như Schumacher, Inoue nhận ra đặc tính thứ hai của kinh tế Phật Giáo là độ lượng và hoà bình. Các nước theo Phật Giáo có thể liên hệ đến các cuộc chiến tranh vì những lý do khác nhau nhưng chưa bao giờ nhân danh Phật Giáo để liên hệ vào một cuộc ‘thánh chiến’. Giới sát là giới quan trọng đứng hàng đầu trong các giới cấm và nếu giải thích trong hoàn cảnh hiện đại, người Phật Tử không những không trực tiếp sát nhân, mà cũng không được cổ võ hay ủng hộ một cơ cấu chính trị gây chiến tranh. Giới sát này đã gây hứng khởi cho Gandhi khởi xướng nguyên tắc bất bạo động. Một trong những Phật tử thi hành chánh sách độ lượng và hoà bình là Asoka, một hình ảnh đúng nhất của ẩn dụ ‘đồ tể buông dao thành Phật’. Sau khi gây ra cảnh máu sông xương núi. Asoka cố gắng xây dựng một nền kinh tế và chính trị trong đó mọi người có đủ ăn đủ mặc. Vị hoàng đế này thừa biết rằng bần cùng sinh đạo tặc, chính sự nghèo đói đã gây ra những bất ổn xã hội. Ông cũng tạo ra những chế độ an sinh xã hội cần thiết, đi trước chế độ an sinh Tây Phương gần 20 thế kỷ.

 

Trong quá khứ có nhiều Phật Tử Nhật kêu gọi chánh phủ không nên giao dịch với những quốc gia sản xuất và buôn bán võ khí. Tuy nhiên những lời kêu gọi này chỉ là những tiếng kêu lẻ loi không thực tế, nhất là trong hai thế chiến vừa qua, các chánh phủ quân phiệt Nhật xếp hàng với các chế độ trong trục Quốc Xã và cũng trong hai cuộc thế chiến, có nhiều nhà sư Nhật đã dùng kỹ thuật thiền định để huấn luyện có các võ sĩ đạo và quân nhân. Tuy nhiên điều này không có nghĩa là những nguyên tắc bất bạo động không còn áp dụng được nữa. Trong lịch sử Nhật có nhiều vị hoàng đế ‘phản chiến’ như Kammu (781-806). Mặc dù bị Đại Hàn đe dọa trên mạn Bắc, vị hoàng đế này đã cố gắng hành động theo những nguyên lý đạo đức Phật Giáo. Ông giải tán quân đội Nhật và chỉ giữ lại một quân đoàn phòng vệ biên giới Nhật-Đại Hàn. Các lãnh chúa địa phương chỉ được quyền tổ chức một đạo quân kiểu ‘dân phòng’, đóng vai trò cảnh sát ngày nay. Trên thực tế Nhật không có một quân đội chánh thức nào cho đến thời đại Kamakura (1192-1333). Sau thế chiến thứ Hai, hiến pháp Nhật có ghi một điều trong Hiến Pháp luật cấm chính quyền không được tổ chức một quân đội có khả năng tấn công. Rất tiếc gần đây chính quốc gia chiến thắng (Mỹ) lại là nước ‘khuyến khích’ Nhật trở lại hàng ngũ của chủ nghĩa quân phiệt. Cái viễn ảnh vừa là một cường quốc kinh tế, vừa là một cường quốc quân sự có thể quyến rũ các chánh phủ Nhật trong thời gian sắp tới tái võ trang và không ai biết hậu quả sẽ đến mức nào.  

 

Một kinh tế cứu vãn địa cầu

 

Như Weber chứng minh, giữa kinh tế tư bản và đạo đức Tin Lành có một mối liên hệ mật thiết.  Thần học Ky Tô Giáo nói chung tạo ra một lối suy nghĩ và lối sống của người Tây Phương. Nói một cách khác, văn hóa Tây Phương tất nhiên đưa đến kinh tế tư bản. Và theo Schumacher những quốc gia thấm nhuần văn hóa Phật Giáo lẽ ra có thể thực hành mô thức kinh tế Phật Giáo. Mơ ước viễn vông? không tưởng?

 

Schumacher tin là điều này có thể thực hiện được. Nếu đạo đức Tin Lành làm sản sinh ra kinh tế tiêu thụ, văn hoá Phật Giáo (lẽ ra) phải phát sinh ra một nền kinh tế Phật Giáo. Nhưng Bụt nhà không thiêng! Các chính quyền các quốc gia Đông Nam Á đang phát triển ‘trân trọng’ mời các ‘cố vấn’ Tây Phương để lập ra những kế hoạch vĩ đại 5 năm hay 10 năm, và hăm hở chấp nhận kinh tế thị trường. Không ai chịu chậm chân vì không ai muốn trễ ‘chuyến tầu lịch sử!’ Không ai chịu hỏi chuyến tầu đi đâu? 

 

Thần học Ky Tô đặt con người là trọng tâm duy nhất (anthropocentrism). Con người là “sản phẩm” của Thượng Đế nên chiếm một địa vị tối thượng và địa cầu là trung tâm vũ trụ. Vào năm 1989 tạp chí Time, thay vì chọn một nhân vật xuất sắc nhất trong năm, đã chọn địa cầu là Planet of the Year. Đó là những năm mà chủ trương tự do mậu dịch và toàn cầu hóa cùa Thatcher và Reagan trở thành chủ nghĩa “vô địch”. Khủng hoảng môi sinh lên đến mức trầm trọng và viễn ảnh của mối đe dọa Greenhouse Effects có thể đưa địa cầu đến chỗ hủy diệt. Một trong những bài viết do một thượng nghị sĩ Mỹ, cho là việc diễn dịch một đoạn trong Thánh Kinh một cách cứng nhắc có thể là một trong những lý do đưa đến chính sách kinh tế hủy diệt các chủng loại trên mặt địa cầu một cách không thương tiếc. Đó là đoạn thánh kinh Genesis 1:27-28:

 

Thượng Đế tạo người Nam và người Nữ theo hình ảnh riêng của Ngài. Thượng Đế ban phép lành và nói với họ: “Các ngươi phải sinh con đẻ cái cho thật nhiều, tràn đầy mặt đất và chế ngự địa cầu. Khuất phục cá dưới biển, chim trên trời và tất cả các sinh vật sống ở địa cầu.”

 

Dĩ nhiên đoạn này có thể chú giải nhiều cách, nhưng có nhiều người hiểu một cách chắc nịch là Thượng Đế đã bật đèn xanh cho con người thống trị và tàn sát những sinh vật khác.

 

Phật Giáo trái lại không xem con người là quan trọng nhất mà chỉ là một cõi trong lục đạo, dù Đức Phật nhiều lần nhắc các đệ tử việc được sinh vào kiếp người là một điều may mắn, vì chỉ có con người mới có nhiều cơ hội nghe Chánh Pháp và do đó có nhiều cơ duyên để giải thoát. Khi nhìn nhận tất cả chúng sinh, đất đá, cỏ cây, vi sinh vật và muôn thú, đều có Phật Tính, tức là một hình thức chấp nhận sự bình đẵng giữa mọi chủng loại.

 

Nguyên tắc thứ hai, nguyên tắc quan trọng nhất trong kho tàng kinh điển, thường hay gọi là lý duyên khởi. Không có một chủng loại nào có thể tồn tại biệt lập, cái này sống nhờ cái kia, trong chuổi nhân duyên trùng trùng không đầu không cuối. Ẩn dụ xâu chuỗi Đế Thích, hạt chuỗi này phản ảnh hột chuỗi khác, không làm gì có một xâu chuỗi chỉ có một hột. Có một là có tất cả, từ một hạt bụi, cho đến tam thiên đại thiên thế giới. Lý thuyết này trong một chừng mức nào đó đã được hai khoa sinh học và vũ trụ học hổ trợ. Nhỏ nhất là genomes, lớn nhất là vũ trụ- có thể có những vũ tru song song- ngoài vũ trụ- mà các nhà thiên văn vẫn chưa khám phá ra. Như Nguyễn Công Trứ nói: ‘nhỏ không trong mà lớn cũng không ngoài’ hay như Từ Đạo Hạnh ‘có thì có tự mảy may. Không thì cả thế gian này cũng không’.

 

Trong bình diện kinh tế, việc khai thác tài nguyên không tái tạo như than đá, quặng mỏ và dầu lửa sẽ gây ra những tổn hại không thể cứu chữa được đối với địa cầu. Rừng cây bị phá hủy (chỉ để làm gỗ vụn hay đũa gỗ!) một cách thô bạo khiến bao nhiêu chủng loại sinh vật không còn đất sống và bị diệt chủng dần dần. Thần học Ky Tô chỉ để ý đến con người nên không thấy việc tận diệt các chủng loại sinh vật khác là ‘tàn ác’, nhưng dưới con mắt của Phật Tử thì có khác. Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi! Làm sao em biết ghế đá không đau? Phật Giáo Đại Thừa, nhất là Thiền, nhấn mạnh tới thể giới ở đây và bây giờ.  Khai thác các tài nguyên không tái tạo và nhất là xài tài nguyên một cách phung phí là một cách tự hủy diệt quê hương duy nhất của tất cả ‘chúng sinh’. Thay vì chờ đến ‘kiếp sau’, chúng ta nên xem địa cầu như là quê hương duy nhất ở đây bây gìờ và xem hành động hủy hoại sinh vật và tài nguyên như chuyện một đứa con hư, châm lửa đốt nhà của cha mẹ mình. Chặt cây cũng phải được xem như là hành động sát giới. Các nhà Sư ở Thái Lan chống đối việc chánh phủ hủy hoại rừng một cách vô trách nhiệm, đã làm lễ qui y cho các cội cây lớn. Dân Thái Lan phần lớn theo đạo Phật nên các phu đẵn gỗ ngần ngại khi ra tay sát thủ, dù là sát thủ một cội cây. Bất cứ môn phái nào trong Phật Giáo đều đồng ý với nguyên lý trùng trùng duyên khởi. Một tượng Phật vĩ đại được xây ở đền Todaiji ở Nara. Phật ngồi tĩnh tọa trên một đài sen lớn và nếu đến gần và nhìn kỹ, chúng ta thấy trên mỗi cánh sen, chúng ta thấy đều có một vị phật nhỏ khác đang tĩnh tọa. Dù con người là một chủng loại khôn ngoan nhất trong quá trình tiến hóa, con người cũng phải cộng sinh với hằng hà sa số chúng sinh khác. Địa cầu bắt đầu tỏ những dấu hiệu giận dữ vì sự tàn ác của con người trong việc khai thác tài nguyên: khi hậu bất thường, hạn hán, ngập lụt, bão bụi… tóm lại là những dấu hiệu của hiện tượng trái đất nóng dần (global warming) Và không ai nghi ngờ gì nữa chính kinh tế toàn cầu (global economy) đã gây ra nạn trái đất nóng dần. Như Trịnh Công Sơn chép miệng “Làm sao em biết bia đá không đau?”  Bia đá còn đau nữa là cây cỏ. Á Đông với nền văn hóa Tam giáo, chủ trương ‘chúng sinh chủ nghĩa’. Các học giả Phật Giáo Mỹ có lúc đề nghị một từ ngữ êm tai hơn để gọi tăng già: Eco-Sangha.

 

Một nền kinh tế giản dị

 

Động lực của kinh tế thị trường là tư lợi và tích lũy tài sản. Thay vì là một phương tiện, tài sản biến thành mục đích chính của đời người. Dần dần tích lũy tài sản trở thành mục tiêu tối hậu của các hoạt động kinh tế. Tây phương nghĩ là “tiến bộ” khoa học, kỹ thuật, kinh tế làm đời sống con người càng thoải mái và hạnh phúc. Với những sự tiến bộ vượt bực về kỹ thuật và mức sống kinh tế được nâng cao như chưa hề có như hiện nay, con người lẽ ra có rất nhiều hạnh phúc!  Dùng chỉ số chánh trị, xã hội, mức sống, văn hóa và tâm lý để thăm dò, nước Mỹ là nước giàu có nhất nhưng dân Mỹ không cảm thấy hạnh phúc nhất. Các nước Phi Châu là những nước ít hạnh phúc nhất vì chỉ số kinh tế quá thấp và thể chế chánh trị vừa bất ổn vừa độc tài (nghèo đói nhất nhưng chiến tranh vẫn xảy ra thường xuyên nhất). Mười trong những nước mà dân chúng cảm thấy hạnh phúc nhất là các nước Bắc Âu. Các quốc gia này có chế độ chính trị dân chủ, ổn định và cởi mở, chỉ số kinh tế dù đứng hàng đầu (dù không nước nào trong G7 hay G8) nhưng dân chúng cảm thấy hạnh phúc hơn vì nhờ vào chỉ số an sinh xã hội tuyệt hảo: lợi tức được phân phối hợp lý hơn ở Bắc Mỹ và Tây Âu chế độ an sinh rộng rãi và thuế khóa công bình. Đây mới là những quốc gia thực sự theo xã hội chủ nghĩa.

 

Phật Giáo thường bị hiểu lầm cổ động cho sự nghèo khổ qua lý thuyết nghiệp báo. Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều đã từng thú nhận “cái quay bún sẵn trên trời”, “vẻ chi ăn uống sự thường” cũng đã được ‘Trời’ định sẵn, huống chi là chuyện giàu hay nghèo, sang hay hèn, thành công hay thất bại! Cách giải thích nghiệp báo kiểu này gây ra những ngộ nhận về sự u lì vô cảm của Phật Giáo. Nghiệp không bao giờ nên được hiểu như “tiền định tất yếu” hay chấp nhận một lối sống an phận, thụ động. Nghiệp phải được hiểu như là sự tự do lựa chọn để chuyển đổi hướng đi của đời mình. Nếu chấp nhận một lối sống thụ động ‘trời cho bao nhiêu ăn bấy nhiêu’ thì làm sao chuyển nghiệp? Nếu chỉ ngồi chờ sung rụng, làm sao có chuyện ‘ai giàu ba họ, ai khó ba đời’. Ambedkar, người đã đứng ra cải đạo cho hàng triệu dân Intouchables ở Ấn, quyết liệt chống đối thái độ dùng nghiệp báo để biện chính cho các cơ chế xã hội và chánh trị bất công. Chỉ đổ lỗi cho cái ‘nghiệp báo’ của hàng triệu người Tiện dân (untouchables), theo Ambedkar, là một thái độ bất công, chẳng khác nào đổ lỗi cho nạn nhân, thay vì đi tìm đích danh thủ phạm. Nền thần học của Bà La Môn Giáo đã dùng làm nền tảng đạo đức biện chính cho chế độ đẵng cấp ở Ấn, và biện hộ cho những cơ chế chính trị đã kềm giữ bao nhiêu người đời đời trong kiếp lầm than. Tuy nhiên Phật Giáo không đồng hóa sự giàu có và hạnh phúc. Đối với Phật Giáo mục đích tối hậu của mỗi người là có một cuộc sống an lạc (nguyện ngày an lành, đêm an lành). Nghèo thường đi đôi với khổ, nhưng không phải người giàu nào cũng sung sướng. Một người có đủ yếu tố để có ‘hạnh phúc’ như tiền tài, danh vọng, gia đình yên vui như tài tử Mel Gibson, gần đây thú nhận có lúc ông muốn tự tử! Gần đây một tạp chí Úc tiết lộ là tất cả 6 tài tử trong TiVi tập ăn khách của Mỹ, Friends, không có người nào cảm thấy hạnh phúc. Yếu tố để có một cuộc đời hạnh phúc, theo lời Phật dạy, là biết thiểu dục, tri túc (tri túc tiện túc), biết lúc dừng lại khi cần phải dừng lại (tri chỉ nhi hậu hữu định- biết dừng đúng lúc mới yên ổn) như nho gia thường nói, biết nguyên lý vô thường- (giàu sang phú quý như mây nổi), đừng ôm chặt tài sản- thân người còn như mộng huyễn bào ảnh huống chi là tài sản.  

 

Con đường Trung Đạo của Phật Giáo là con đường giản dị: không hoang phí mả cũng không keo kiệt. Phật có lúc dạy cách sử dụng tài sản cho hàng cư sĩ để có một cuộc đời an lạc, hạnh phúc. Chi tiêu một phần lợi tức cho bản thân và gia đình, để dành một ít phòng khi trái gió trở trời, bố thí giúp đỡ những người khác để nuôi dưỡng tâm từ bi và nhất là đừng thiếu nợ! Phật không bao giờ nói tham lam là một điều tốt, không bao giờ đề cao tư lợi, cũng không thơ mộng hóa sự nghèo khổ. Hạnh phúc chỉ nửa vời nếu chúng ta quên lãng con đường tu tập tâm linh. Đó là một lối sống với những nhu cầu đơn giản trong một nền kinh tế giản dị. Nền kinh tế giản dị là nền tảng của xã hội an lạc. Không còn ai lo dành giựt hay tìm cách cướp đoạt tài sản của người khác. Không quốc gia nào tìm cách khống chế và dành giật tài nguyên của các quốc gia khác. Nghĩa là không có chiến tranh. Một kinh tế giản dị là kinh tế hòa bình. Một đời sống giản dị là một cuộc đời an lạc.  Hiện nay ai cũng thấy, dù có che đậy bằng những danh từ hoa mỹ như thế nào, mục tiêu chính của cuộc chiến tranh ở Trung Đông và Iraq hiện nay là cuộc chiến tranh dành tài nguyên, nhất là dầu hỏa.

 

Sự tương phản giữa kinh tế Phật Giáo và kinh tế tiêu thụ quá rõ ràng. Kinh tế tiêu thụ kích thích lòng tham lam. Chúng ta hiện nay bị choáng ngợp bởi những hình thức quảng cáo, xem tiêu thụ đồng nghĩa với hạnh phúc, trong khi kinh tế Phật Giáo nhằm tạo hoàn cảnh giúp con người an lạc và hạnh phúc. Định nghĩa hạnh phúc thường bị ảnh hưởng bởi những yếu tố chủ quan, nhất là tùy thuộc vào một triết lý sống riêng của mỗi người. Không có một hệ thống kinh tế nào không bao hàm một hệ thống giá trị. Chúng ta cần giải hoặc huyền thoại xem kinh tế là một thứ khoa học khách quan (value free) Kinh tế Phật Giáo có thể bị chỉ trích là dựa trên một nền tảng đạo đức không phải ai cũng đồng ý và có thể “chứng minh” được. Lời phê bình này cũng có thể áp dụng vào kinh tế thị trường-tiêu thụ: tham lam-tư lợi không phải lúc nào cũng tốt và không phải lúc nào cũng làm tăng sự giàu có của quốc gia như Smith ‘mơ ước’. Cả Smith và đức Phật đều ‘mơ ước’ con người có một cuộc đời hạnh phúc. Trong khi Smith thiếu một triết lý về hạnh phúc, đạo Phật hiện diện trên đời chỉ vì một ‘đại sự nhân duyên’. Nhân duyên đó không có gì khác hơn là diệt khổ. Diệt được khổ tức là hạnh phúc.  Cả ba tôn giáo lớn ở Động Phương đều đồng ý muốn diệt khổ phải tri túc (Khổng), thiểu dục (Lão) và diệt dục (Phật).   

 

Quán Như Phạm Văn Minh
Số lần đọc: 1235
Ngày đăng: 18.06.2012
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Kinh Tế Phật giáo 2 - Quán Như Phạm Văn Minh
Bích Khê và chủ nghĩa tượng trưng - Mai Bá Ấn
Kinh Tế Phật giáo 1 - Quán Như Phạm Văn Minh
Sài Gòn Xanh Ký Ức - Thiên Hà
Đã Hơn 70 Năm, T.T.Kh. Và Chuyện Tình Thơ “Hai Sắc Hoa Ti Gôn” Vẫn Tươi Nguyên Màu Bí Ẩn. - Nguyễn Cẩm Xuyên
Nguyễn Du Không Dịch “Kim Vân Kiều Truyện” Của Thanh Tâm Tài Nhân Ra Tiếng Việt - Nguyễn Cẩm Xuyên
Tế Hanh – Người Trò Chuyện Cùng Hoa Cỏ - Mai Bá Ấn
Từ “Kim Vân Kiều Truyện” Của Thanh Tâm Tài Nhân Đến “Truyện Kiều” Của Nguyễn Du - Nguyễn Cẩm Xuyên
Từ Ghi Chép Về Vương Thúy Kiều Trong Minh Sứ Đến Truyện Kiều Của Nguyễn Du - Nguyễn Cẩm Xuyên
Nhất Phiến Tài Tình Thiên Cổ Lụy - Nguyễn Cẩm Xuyên
Cùng một tác giả