Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.374 tác phẩm
2.747 tác giả
797
116.470.817
 
Nhà văn Nguyễn Thành Long trong ký ức tôi
Lâm Bích Thủy

 

 

        Sưu tầm và giới thiệu

 

Trước đây, tôi từng nghe một vài nhà báo trẻ nói: “Ba chị thật hạnh phúc, vì có chị”. Tôi nghĩ, đó là lời an ủi làm quà. Nào ngờ, mới đây, cô bạn từ thời học chung Trường học sinh Miền Nam, từ Hà Nội gọi điện vào, gần cả tiếng đồng hồ cũng nói y như vậy. Là đọc giả tích cực của báo VNCA, nên có bài nào viết về cha mẹ tôi, bạn rất quan tâm. Bạn kể: “Nhân đọc bài viết trên báo VNCA tháng 2 mới biết mẹ cậu mất; tớ xin chia buồn với cậu”. Tuy đã biết chuyện tình đẹp của ba má tôi, nhưng qua bài báo, bạn không nhớ tên tác giả, khiến bạn càng cảm phục cái nghĩa, cái tình của người vợ đối với chồng như của mẹ tôi. Bạn kết luận:

 

Ba cậu thật hạnh phúc vì có được mẹ cậu và  cậu!”. Bạn lý giải rằng, “Trí thức ở thế hệ ba cậu nhiều người bị hàm oan vì lối qui chụp. Trong bối cảnh lịch sử nước chia đôi, chiến tranh chia cắt, tàn phá, họ gặp khó khăn, trắc trở trong cuộc sống và sáng tác v.v…Tuy vậy, đến giờ này, ba cậu thật sự là người vô cùng hạnh phúc; vì có hai mẹ con cậu. Rằng, khi cụ qua đời; bằng sự nổ lực và tâm huyết của mẹ con cậu, đã ngày một ngày hai, dần dần làm cho mọi người có cơ hội hiểu rõ hơn về con người thật của ông. Trong khi đó, còn rất nhiều người không còn ai để giải mã giùm nỗi oan cho họ …” Sau đó, bạn nêu những cái tên rất cụ thể để chứng minh nữa kia!”

 

Nói đâu xa, nhà văn Nguyễn Thành Long, là người vừa có cái tâm và tầm nhìn xa, nghĩ rộng và sâu sắc; là người chồng, người cha rất mực yêu thương vợ con. Ông mất đi, đã để lại nhiều tác phẩm giá trị tư tuởng cao, tính nhân văn đậm; ông ca ngợi lẽ phải, ca ngợi công ơn Bác, Đảng, nhưng cao hơn cả là tình yêu Tổ quốc, trách nhiệm cao đối với Tổ quốc, quê hương; nhưng,   đến nay đã hơn hai mươi hai năm mà hầu như bị lãng quên.

Tôi biết về chú khi còn là một cô bé 7, 8 tuổi, và đã có cảm tình với chú ngay dạo ấy. Những dấu ấn về chú vẫn lung linh sâu thẳm trong trái tim của tôi.

 

Thuở ấy, nhà tôi, tuy ở tại thị trấn nhỏ thuộc tỉnh Bình Định, nhưng lại là nơi hẹn của giới trí thức trẻ: Có chú Trinh Đường, quê Quãng Nam, Chú Vương Linh, Tế Hanh ở Quãng Ngãi, chú Nguyễn Đình quê Hội An, sống và dạy học ở Nha Trang, còn ở Bình Định, đồng hương của ba thì có các chú Nguyễn Thành Long ở Qui Nhơn, Phạm Hổ ở Hoài Nhơn, Mịch Quang ở Gò Bồi v.v…. Tất cả đều thường xuyên lui tới nhà tôi. Là những tri thức trẻ hiếm hoi của quê hương, họ mẫn cảm với nỗi đắng cay, tủi nhục của kẻ sống trong nô lệ, mất nước. Được chứng kiến những bước chuyển mình sau hàng ngàn năm trải dài của nền văn học dân tộc để bước sang một kỹ nguyên mới; các chú đến đây có thể bỏ ra nửa ngày để bàn chuyện nước non, sáng tác và kể cho nhau nghe những điều mình cảm nhận do đọc hay nghe được.

 

Trong số đó, chú Long là người gầy nhất, mặt dài khắc khổ, tóc xù nên đầu có vẻ to hơn đầu các chú khác. Khi chú đến, ba bảo “chào chú Long đi con”; “Dạ, con chào chú Long”, chú mỉm cười, mặt hiền khô, tằng hắng rồi mới chào lại tôi: “Chú Long chào cháu Bích” (để phân biệt Thủy chị hay em vì  cùng tên, khác đệm là Bích và Tú)  

Các chú hay bàn chuyện chính trị và sáng tác văn chương và kể chuyện phiếm. Chú Nguyễn Đình chuyên kể chuyện Tiếu lâm, bác Quách Tạo chuyện  hình sự, chú Mịch Quang và ba chuyên về chuyện ma. Chuyện tiếu lâm của chú Đình làm chú Long cười run cả người, giọng cười của chú lạ lắm có âm hị hị hị chứ không hì hì hì như các chú khác.

Ngay từ những ngày đầu tham gia hoạt động Văn nghệ thời kháng chiến chống Pháp, chú Long đã có những tác phẩm được lớp thanh niên đón nhận, như tác phẩm “Ta và chúng nó”... Chú được giải thưởng Phạm Văn Đồng do Chi hội văn nghệ Liên khu V trao tặng 1953 cho tập bút ký "Bát cơm Cụ Hồ".

 

Kháng chiến thắng lợi, ba và các chú theo tiếng gọi thiêng liên của Tổ quốc; tập kết ra Bắc, trên chuyến tàu Kilinski của Ba Lan – Chuyến thứ Chín dành cho cán bộ văn nghệ sĩ Liên Khu Năm trở ra

  Ra Bắc, ở và làm việc tại Thủ đô Hà Nội, xa nhà và người thân; chiến tranh chia cắt; cuộc sống vô cùng khó khăn, thiếu thốn đủ thứ; các chú vẫn hẹn gặp nhau tại nơi ở mới, số nhà 37 Hàng Quạt của ba  

Thời gian trôi qua, bỗng có cái gọi là vụ Nhân Văn Giai phẩm, nó như cơn lốc cuốn đi sự bình yên trong tâm tưởng của số đông giới văn nghệ sĩ nói chung. Nhà tôi dần vắng bóng các chú. Tôi không hiểu vì sao?!. Nhưng, chú Long vẫn là người chung thủy nhất, đến với ba tôi đều đặn vào các ngày chủ nhật, lễ, Tết.

Những lúc như thế, sự có mặt của chú Long là nguồn động viên, an ủi đối với nỗi cô đơn trống vắng bạn hiền xa xưa ở trong ba tôi. Tôi thắc mắc, chú Long là Đảng viên, là một nhà văn có nhân cách rất đàng hoàng, giàu lòng nhân ái, sao cũng có tên trong danh sách nhóm NVGP phản động, mang tư tưởng chống  Đảng. Chính điều đó đã làm cho gia đình tôi trân trọng chú, bởi không vì sợ liên lụy vì mối quan hệ với những phần tử có vấn đề về tư tưởng (như người ta nói) mà né tránh, xa rời, để chứng minh là mình trong sạch, vì không còn dây dưa với những kẻ đó nữa.

Suốt những năm điêu đứng ấy, chú gần gũi và cùng ba động viên nhau cố  vượt qua mọi khó khăn, trở ngại, để sống, làm việc và gìn giữ lương tri của một trí thức trong niềm đam mê cống hiến cho văn học nước nhà. Tôi thấy nỗi khổ tâm của ba và chú rất giống nhau; đó là vì cái triết lý về đạo làm người dệt nên trong họ nhân cách sống, để chuyện gì cũng bận tâm, nghĩ ngợi miên man. Lúc nào trông họ cũng ở trạng thái suy nghĩ, tìm tòi. Có lẽ do cái chất của người Bình Định là: lo xa, cần cù, chăm chỉ, hay giúp đỡ người cơ nhỡ đã ăn sâu vào từng tế bào trong thân xác họ.

  

   Đối với gia đình chú Long còn có chút niềm an ủi là, dù bị liệt kê vào danh sách “bọn NVGP phản động”, nhưng có người được đi học nước ngoài, nên trong nhà chú cũng đầy đủ các thứ: quạt máy, bàn là..; con chú có đồng hồ pôn-dốt hoặc slava và xe đạp favorit để đến lớp. Còn con nhà ba tôi! chẳng có gì sất! Muốn vượt qua số phận, tất cả ba phải tự mình chế ra đồ dùng bình thường hàng ngày từ những thứ người ta bỏ đi như, bàn là ba làm từ vỏ đạn bom bi, bếp dầu làm từ những võ họp sữa, bàn ghế học từ những thùng gỗ đựng táo của Trung Quốc….

Sở dĩ sau này nhà tôi cũng có được chiếc quạt ngoại là, hôm đến chơi nhà, thấy cha con tôi vã mồ hôi, thay nhau kéo chiếc quạt  trần ba làm từ tấm vải bạt của ông Đại tá Niên biếu. Động lòng trắc ẩn hoàn cảnh bạn; bận sau, vợ chồng chú đến, cầm theo chiếc quạt tai voi nhỏ; quà của nhạc sĩ Bích Ngọc mang từ Liên Xô về. Chú cho lại ba. Đúng là:

 “lá lành đùm lá rách, Lá rách đùm lá te tua”:

   

 Tôi muốn nói thêm một điều là, Họ tộc nhà chú thông minh vô cùng! Gien thông minh rãi đều ở con cháu họ hàng, cô, cậu, dì. Gia đình chú là những nghệ sĩ công thành danh toại, nổi tiếng trong và ngoài nước: Cô Qui, chị chú, là Phó hiệu Trưởng Trường HSMN số 13-nơi tôi học cấp I. Cô thông minh, dạy giỏi, sau được đi Liên Xô nghiên cứu. Em trai là giáo sư-nhạc sĩ Bích Ngọc, chồng NSND Trà Giang, cha nghệ sĩ dương cầm Bích Trà rất nổi tiếng, hiện sống ở ngoại quốc.

Con gái Quê Hương và Hoa Hồng của chú; từ nhỏ đã bộc lộ trí thông minh hơn người. Quê Hương, bỏ lớp 4 lên thẳng lớp 5 mà vẫn luôn đứng đầu lớp. Trường hợp này, ở thế hệ chúng tôi hiếm, nên Chủ nhật nào, bác Phạm Văn Đồng cũng cho người đến đón em vào Thủ Tướng Phủ chơi.

  Còn vợ chồng chú, Tết nào cũng tới xông đất và mừng tuổi các em tôi. Tội nghiệp, có lần thấy tôi chú tỏ ra lúng túng, như có lỗi, hẹn: “quà cho cháu để lần sau, hôm nay, chú không mang theo”. Tôi tự trách mình làm chú phải áy náy; bởi, lúc này, tôi đã là cô kỹ sư Chăn-nuôi, đâu còn bé bỏng nữa, song, cái gì chú cũng cố vơ vào mình để mà áy náy và lo nghĩ như vậy.

 

Thống nhất, ba tôi chọn quê hương để sống, chú vẫn trụ lại Hà Nội. Hai con chú ở rất xa, nhà chỉ còn vợ chồng chú. Khi ốm đau bệnh tật, chú cô đơn lắm! Chú  viết thư khuyên ba tôi nên vào Sài Gòn hay ra Hà Nội sống cùng các con để đỡ hiu quạnh như chú. Quê tôi hồi đó, còn nghèo lắm, nhưng ba không chối bỏ. Ông tâm sự: “sống ở quê dễ thương lắm con à, lâu lâu hàng xóm mang cho bát canh dưa; tránh nắng nóng thì vào làng nằm nhờ võng bà con nông dân. Phiền muộn nào trước đây giờ cũng trôi đi hết rồi còn gì để mà lo nghĩ nữa. Chắc gì ai đó rời xa quê, sống ở đô thành hoa lệ lại được diễm phúc như ba.. !”

Và, nếu ai đó hỏi về chuyện cũ, thì ba bảo: Cháu đừng hỏi ông nhiều / Những cái chưa cần biết / Đôi phần ta thua thiệt …

Có lẽ đó là thực tế. Bạn ba đấy, chú Quang Dũng, chú Nguyễn Thành Long rất cô đơn nơi xứ người! Chú Đào Xuân Quí đã viết:

   “Lúc ốm nặng nằm một chỗ nhớ lại, thời còn sức đã đi gần khắp đất nước, tới cả những nơi ác liệt nhất. Giờ yếu đi rất nhiều, cả ngày ở nhà, nằm là chính, ngồi dậy hay đi tay, chân run rẩy ... Thế mà, giữa lòng Hà Nội “nhiều khi không biết gì đến những sự việc xảy ra chung quanh Hội Nhà văn và Đại Hội sắp đến cả! Vì chán chường hay nằm một chỗ mà không có ai thông tin? Có thể cả hai. Chỉ biết khi hỏi đến những chuyện đó thì Long cứ ngơ ngơ ngác ngác như người từ trên trời rơi xuống” .

 

Trong chú là cái tâm và trách nhiệm. Ngay từ nhỏ, chú đã truyền đạt cho con tư tưởng tự lực cánh sinh, không chọn việc nhẹ cho mình,  đẩy khó khăn cho người khác. Chú nói: “Nếu dễ thì ai cần đến mình” Các con chú được sống trong một gia đình hạnh phúc, nên trong họ đã sớm hình thành người có nhân cách. Mặc dù truyền thống của gia đình làm Văn hóa Nghệ thuật, nhưng họ lại trưởng thành ở đỉnh cao của ngành khoa học Vật-lý: Nguyễn thị Quê Hương từng là giáo sư giảng dạy tại Trường Đại học Marshall (Virginia, Hoa Kỳ). Nguyễn thị Hoa Hồng là Tiến sĩ Vật lý, đang sống và từng làm việc tại Trường Đại học Tours (Pháp). Từ xứ người, các cô viết thư về, báo cho cha biết: “Mọi việc của con đều bình thường”. Chú không đồng ý với cái bình thường đó, vội trả lời con: “Các con phải vượt lên cái bình thường. Quê hương này, đất nước này đòi hỏi các con phải như vậy”.

 

Dẫu ở rất xa quê, nhưng các cô luôn đau đáu về một thành phố nhỏ, hiền hòa bên biển, với những hàng dừa lay động trước gió, chiều về thuyền cá tấp nập bên bờ với những con người Bình Định hiền hòa, yêu thương nhau. Ở đâu hai chị em vẫn tự hào mình là người Việt Nam, luôn nhắc nhỡ nhau cố gắng làm được cái gì đó cho đất nước. Họ hiểu rằng, bất cứ nơi đâu, nếu mình làm tốt công việc của mình là đã gốp phần làm vinh dự cho quê hương, tổ quốc rồi ./.  

Lâm Bích Thủy
Số lần đọc: 2378
Ngày đăng: 27.03.2013
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Huy Phương – Nhà Thơ, và Thơ Huy Phương - Trần Trung Thuần
Chóe, nhà hí họa bút sắt số một Việt Nam - Ngô Nguyên Nghiễm
Nhà thơ Ngô Nguyên Nghiễm: một thời khai phá và những người đồng hành - Lương Thư Trung
Bửu Chỉ , tiếng vọng một đời người - Đinh Cường
Wilbert Rideau : KẺ TỬ TỘI THẤT HỌC TRỞ THÀNH MỘT CÂY BÚT LỪNG DANH - Phan Bá Thụy Dương
Tự Truyện Osho 12 – hết - Đỗ Tư Nghĩa
Tự Truyện Osho 11 - Đỗ Tư Nghĩa
Tự Truyện Osho 10 - Đỗ Tư Nghĩa
Thái Tuấn Nghệ Sĩ (1918-2007) - Nguyễn Xuân Sơn
Tự Truyện Osho 9 - Đỗ Tư Nghĩa
Cùng một tác giả
Tình lên ngơ ngác (truyện ngắn)
Chàng Ngốc (truyện ngắn)
Thư cảm ơn (sự kiện)