Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.384 tác phẩm
2.747 tác giả
682
116.608.673
 
Phong vị và phương ngữ miền Nam trong “Giỡn bóng chiêm bao” của Trần Phù Thế
Lâm Hảo Dũng

 

Trải qua một thời kỳ nở rộ của các cây viết học đường sang đến giai đoạn in ấn và ra mắt các đặc san, chúng ta phải kể đến Trần Phù Thế, Lưu Vân, Lan Sơn Đài, Trần Như Liên Phượng, Ngô Nguyên Nghiễm, Hoài Ziang Duy, Nguyễn Bạch Dương… ở miền Tây sông Cửu. Miền Trung có Hoàng Lộc, Hoàng thị Bích Ni, Thái Tú Hạp, Luân Hoán, Hoàng Khai Nhan, Nguyễn Lệ Uyên, Hoàng Xuân Sơn, Tần Hoài Dạ Vũ…Riêng Trần Như Liên Phượng đã bỏ cuộc chơi sớm vào lúc mà thơ anh đang độ chín mùi.

 

Em chưa đầy mười bn

Lòng trẻ thơ đâu ri

Những bước dài bão tố

Vũng nước mn trên môi..

(Đó em của TNLP trên tờ Tiểu thuyết tuần san)

 

Những câu thơ gần như tiên tri, báo trước một giai đoạn trổi dậy của tuổi trẻ, của những phong trào hiện sinh vào những năm kế tiếp, nhất là sau năm 1963, có những đổi thay về thể chế chánh trị.

Những năm đầu thập niên 1960, những tâm hồn mới lớn say mê chữ nghĩa thèm những bước đi xa. Và tờ Tiểu thuyết tuần san của ông Nguyễn thiện Dzai là một trong vài tờ tạp chí đã đáp ứng được khát vọng của các cây viết trẻ như Ngàn Khơi, Văn, Bách Khoa..

 

Cho đến hôm nay, tại hải ngoại,những cây viết vẫn còn nặng nợ với “ văn chương”, vẫn miệt mài với chữ nghĩa, trả cho hết nợ tằm như Thái Tú Hạp, Luân Hoán, Hoàng Lộc, Hoàng Xuân Sơn, Trần Hoài Thư…

Những năm tháng chiến tranh khốc liệt , nhiều anh em nhập ngũ được tung ra chiến trường từ  miền Trung hỏa tuyến đến rừng đước , rừng mắm sình lầy ở Cà Mau, Rạch Gía…Họ là chứng nhân thật của sự va chạm giữa cái sống và cái chết, giữa những trái tim rất người và giữa những khối óc được nhồi nắn căm thù.

 

Từ gĩa mái trường nhập ngũ, tham gia nhiều cuộc hành quân. Tháng tư tan hàng. Nhà thơ Trần Phù Thế, cũng như nhiều anh em quân nhân khác không thoát khỏi cảnh tù đày, gia đình ly tán.

Anh đến xứ người trong tâm trạng “Là ta cách biệt quê nhà - Nghe mưa xót ruột đau và miếng cơm” (Giởn bóng chiêm bao trang 5) hoặc “Phân vân không nẻo quay về - Muốn lên phía Bắc lại lìa phương Nam - Mõi lòng một dấu chấm than - Bâng khuâng một góc trời tàn quê ta - Quê nhà trang 6”.

Nơi tác gỉa ở mùa đông cũng chừng như có tuyết lạnh - nhưng cái lạnh của một nơi có gia đình đoàn tụ, quây quần, có nhiều người cùng nói một ngôn ngữ mẹ đẻ, cái lạnh xem chừng cũng dịu bớt đôi chút. Ngược lại những năm đầu 1980, nỗi cô đơn gậm nhấm tâm hồn, nhẹ nhàng nhưng tàn bạo như nỗi lòng của kẻ xa nhà với “Căn gác lưu đày” của nhạc sĩ Anh Bằng. Sau những giờ làm việc mệt nhọc, những mong có cơ hội giúp gia đình còn ở lại bên kia bờ đại dương. Tâm trạng rã rời hơn khi nhìn căn phòng nhỏ trống trải, buồn một mình không người sẻ chia.

Trong lúc đó ở quê nhà, hoạt cảnh sinh động được Trần Phù Thế ghi lại lúc còn ở trại tù Vườn Đào -  Cai Lậy vào năm nước lụt,những tù nhân phải sống vất vưởng  trên nóc nhà:

Trên trái đất này

nhất định

không trại tù nào

dị hụ “đến thế

(đỉnh cao trí tuệ – trang 14)

Tương tự như cách gọi của Ông Trần Văn Nam, những phương ngữ Nam bộ mà khi viết lên người đọc, người nghe cũng nhận thức được. Chữ “dị hụ” hay “ dị hợm” diễn tả  những đặc điểm khác biệt, không giống ai.

Và trong bài “Biết rót  về đâu” có câu:

Ta và bạn lạ hoắc lạ huơ

Một thằng Huế một thằng Nam bộ

Khi khổng khi không hai thằng gặp gỡ

 Uống cạn ly đầy ly rượu tàn canh”

(Biết rót về đâu trang 21)

 

 

 

 

Trần Phù Thế ngẫu hứng đã đưa phương ngữ lạ hoắc lạ huơ vào câu  mở đề thật tự nhiên lý thú. Đó là những nét đặc thù của các người làm thơ miền Nam, nơi mà đời sống hiền hòa như hai mùa mưa nắng.

Nơi t đim thương h

Nơi hn hò bến đậu

Khẳm lừ” ghe dưa hu

No đầy “ xuồng khoai lang

Con nước rong tràn b

Thuyền anh dừng bến đợi”

(Ngã tư cột lồng đèn)

 

Chữ “no đầy” được tác gỉa sử dụng thật khéo léo đối với chữ “ khẳm lừ”. Khẳm là đầy ắp đến độ hết chỗ chứa.

Trong bài “Chuyện đời ta” trang 25, nhà thơ viết:

Cây mít cây xoài

Ông nội trồng vừa ra trái chiến…”

Trái chiến là trái ra đầu tiên từ khi trồng cho đến ra hoa kết trái. Nó là kết qủa của một qúa trình gian khổ, dày công vun xới.

Tình vợ chồng gắn bó mặn nồng, đôi lúc vì kinh tế gia đình, hoặc thiển cận nhìn lệch lạc vấn đề, sự hờn giận là lẽ tất nhiên:

Cũng như v chng ta cưới nhau t tui đôi mươi

Nhiều năm qua ngọt bùi đều chia xớt

Giận cũng nhiều, yêu cũng lắm: “dễ ợt”

Chuyện thường tình của đôi lứa trăm năm”

(Thư không tem gởi vợ trang 52)

Ôi làm thơ như Trần Phù Thế cũng rất là “dễ ợt”.

Ngôn ngữ bình dân,  đời thường được nhà thơ múa bút quẳng vào thi phú bỗng trở nên dung dị và trác tuyệt đến vô ngần. Có người đặt câu hỏi- còn ngôn ngữ văn chương đâu?. Chúng ta sẽ cảm nhận trong những bài khác. Quan trọng là khi đọc thơ liệu thơ có thẩm thấu qua tâm hồn người đọc được hay không?.

Tác gỉa cố gắng tự kềm hảm trong thành lũy cô đơn vì sự thật thà bất hạnh của mình. Đau đớn thể xác chỉ là một sự thể hiện của đau khổ tinh thần

Như là như th đánh rơi -Trái tim rướm máu nm phơi ch đời -Và anh thc mãi một thời – Cơn mê bt cht thành người chiêm bao- Nói năng Bc đẩu Nam tào- Và anh quên tut ngõ vào ngõ ra- Dẫu đi đường lạnh trăng tà- Chia đôi bất hạnh thật thà niềm tin- Dẫu anh giỡn bóng một mình- Cũng không đốt nỗõi cái hình nộm kia…”

(Giỡn bóng chiêm bao trang 71)

Chúng ta bắt gặp chữ: “Bắc đẩu Nam tào”, “ quên tuốt” hay là “ quên tuốt luốt”, chừng như là quên hết , quên tất cả…Người thơ của miền sông nước Hậu Giang, chân chất sống bằng trái tim giản dị hiền hòa, nên những câu, những chữ giao tiếp hằng ngày đã thâm nhập vào tim óc tác gỉa lúc nào không hay?. Cơn mộng đã dẫn dắt tác gỉa đến cơn mê sảng, say thiếp, trách cứ mình rất đỗi thật thà và khi tỉnh dậy:

“Níu chi cái bóng tàn khuya - Để tan theo tiếng động về rạng đông”.

Qua bài “Giỡn bóng chiêm bao”, những ngôn từ phổ cập đã được Trần Phù Thế dàn trải thật điêu luyện, người đọc không cảm thấy khó chịu khi giọng thơ từ câu này chuyển sang câu khác, không bị gò bó, nó xuôi chảy như dòng sông Đại Ngải- Hậu giang tuôn về biển cả.

Trong bài “Tuổi thơ Đại Ngải”, tác gỉa diễn tả rất mộc mạc, ngây ngô thời đi học ở làng quê- thoắt cái mấy mươi năm. Thời gian và kỷ niệm nhạt nhòa, nhưng cũng không ai ngờ bỗng dưng nơi xứ người lại bừng sống dậy:

Em cười n c đôi môi - Bi tôi húi trc m hôi chy ròng” (TTĐN trang 74)

“Húi” trọc hay cắt trọc được người thơ đưa nhẹ vào câu viết tạo nên một hình tượng đầy sống động của một cậu nhỏ, tuổi còn thơ.

Hay:

Ngày qua Trường khánh my ln

Nghe thơm cm gip tng sân nếp nhà”

 

Cốm giẹp là đặc sản của miền Tây, như vùng Sóc Trăng, Bạc Liêu. Thật thú vị khi ngậm một ít hạt cốm giẹp đầu mùa, chúng ta sẽ thưởng thức được mùi nếp mới. Hương vị càng gia tăng nếu chúng ta trộn thêm cơm dừa bào nhỏ và nước dừa. Người Cao Miên vùng Hậu Giang đã góp phần trong thực đơn của chúng ta, lâu dần thành thói quen lúc nào không hay.Ngoài ra, còn có bún nước lèo, bánh ống…

Cho đến bây giờ, người dân Đại Ngải- Sóc Trăng không thể tìm ra và không hiểu vì sao con cá cháy biệt tăm. Cá cháy, một loại cá nước lợ ,to, daì , có vảy trắng, mình hơi dẹp, giống như cá vảnh, nhưng dài hơn nhiều. Cá kho mẳn, ăn với bún, nhất là nếu gặp con có trứng, những chùm trứng chan hòa trong nồi cá kho, sẽ khiến ta thèm thưởng thức. Thêm vào đó, đầu cá mềm, nhai từ từ sẽ thấy chất béo thấm tràn trong dịch vị của người ăn:

Còn tôi biết tới thuở nào - Đợi con cá cháy lội vào sông xưa” ( TTĐN trang 76)

Tâm trạng, xa quê hương nhớ mẹ hiền  vẫn còn vương vít  trong lòng tác gỉa. Người đã tám mươi, tóc bạc, đã hy sinh chịu đựng vì lũ con, giờ lại một lần rơi nước mắt khi tiễn con đi nghìn dặm thắm.Nhớ mẹ, nhớ bát canh rau giản dị. Nhớ me,ỉ nhớ  nồi canh chua cơm mẻ khôn nguôi. Chân tình ấy đã nuôi dưỡng Trần Phù Thế thành hình hài hửu dụng cho nhân quần, xã hội

Hơn na đời người tóc bc lưa thưa

Ngược xuôi tt bt

Dù ở nơi đâu

Cùng trời cuối đất

Mỗi buổi chiều

Con còn nhớ mãi

Cái vị thơm nng cơm m nu canh chua

(Canh chua cơm mẻ - 84)

Ngoài những cây trái thân quen, những đặc sản của mỗi địa phương hằng có dù còn tồn tại hay đã thành qúa vãng. Nơi con người Trần Phù Thế, tâm hồn anh chàng chân quê không thể nào gột rửa được. Chúng ta hãy nghe tác gỉa nâng ly:

“Nầy Bằng uống chút mà say - Chúa hay gỉa bộ kéo dài cuộc chơi - Mầy đi lính vác dùi cui - Lính như lính cậu rong chơi Sài Gòn“. (Uống rượu ở vườn trầu Bà Điểm- 86).

Hoặc: 

Nầy Dự, rượu hết hay còn - Đừng chơi tao nhé! tiếng đồn đế ngon”

(UROVTBĐ-86).

 

 

 

Những câu nói bình dị, nửa như giận dỗi, nửa như pha trò. Mọi người ai cũng hiểu chữ “ chơi” theo nghĩa đen hay nghĩa bóng, đã ăn sâu vào trong tâm trí dân Việt, không phân biệt trình độ, giai cấp: “ mầy chơi tao hả” hay “Đừng chơi tao nhé”. Ở đây chữ “nhé”ùmang hơi hướm của miền Bắc, làm dịu lại chữ “ chơi”. Có gì không hài lòng, vừa ý, cũng đành xuống thấp ở cuối chữ “ nhé”.Nghe lịch sự và thanh thoát hơn.

Bên cạnh những câu đầy chất giản dị, địa phương tính, chúng ta không thể không thưởng thức những chữ, những câu rất “ đượm”của tác gỉa.

Một lần ở lại Kiên Lương - Khói xi măng th bi đường Hà Tiên. (Lỳnh Quỳnh -19)

Như đã có dịp bàn về chữ “ thở” trong một bài viết khác của Trần Phù Thế. Tôi vẫn không thể không khoái cảm khi mường tượng ra nhà máy xi măng chạy đều, bụi khói phủ đầy những con đường làng quê, thôn xóm. Nó cũng tạo ra công việc nuôi sống nhiều người. Nó cũng đánh dấu một thời chánh trị, kinh tế an bình của  miền Nam.

Trong bài “Chuyện đời ta”, TPT với nỗi sầu ray rức khôn nguôi:

Ngày ra tù

Ta về đứng trước sân

Nghe mẹ nói

Con vợ mày đi biệt

Hai đứa con ba bốn tuổi làm sao biết

Lỗi ba đi tù

Hay lỗi mẹ còn son“

(CĐT-29).

Người thơ cuối cùng chỉ tự trách bản thân. Ai cũng phải vất vã vì cuộc sống và lo toan nhìn về tương lai cho cá nhân mình.

Chuyện gia đình ly tán, bè bạn chia xa, kẻ ở người đi, kẻ còn người mất. Nhà văn Nguyễn văn Ba cựu sinh viên Trường đại học Cần Thơ, định cư ở Saskatoon - Canada, viết nhiều bài về miền Nam, nhưng chẳng may anh mất ở vào tuổi trung niên, nhiều hứa hẹn cho sự nghiệp văn chương. Trong nỗi xúc động nghe tin Nguyễn văn Ba mất, TPT thảng thốt kêu lên:

Nha Mân em có về không?

Phương Nam xa lc nhưng lòng là đây

Một đời mê tỉnh cuồng quay

Mối hờn vong quốc biết ngày nào nguôi”

(Lời ru Nguyễn văn Ba-33)

Một câu nói nghe ra làm chết được lòng người

Hoặc: 

Chút lòng đau, nát lòng đau

Nén hương c x bay vào cõi xa

Trái tim em để quê nhà

Nợ văn em để làm qùa mai sau

(LRNVB-034)

Vâng, đúng như ước nguyện của Nguyễn văn Ba và cũng là ước nguyện của tất cả mọi người dân Nam nước Việt. Bước chân đi còn nhớ quê nhà. Văn chương là món qùa tặng vô gía cho đời sau trong cũng như ngoài nước.

Trong “Giỡn bóng chiêm bao”, không thiếu những câu thơ đẹp, thoang thoảng như nụ tình trai gái tuổi thanh xuân. Bài “ Mùa xuân” chan chứa biết bao niềm hy vọng:

Thưa em ngày mi tinh khôi- Nng biêng biếc chy vàng phơi n tình - Trên cây mùa đã cựa mình- Con chim lạ hót trên nghìn nắng xuân.” (Mùa xuân trang 41).

Sự quan sát vô cùng tinh tế theo từng chút biến đổi của  cảnh vật, thời tiết và ngay cả chính tâm hồn:

Thưa em ngày đã lặng im- Gío xuân rất nhẹ thổi mềm nắng tơ- Lòng em cỏ rối đôi bờ- Anh hôn lên đó như ngờ hôn em” (Như ngờ hôn em-42).

Còn nỗi vui nào hơn khi nhìn con ngủ. Đứa trẻ là đất trời bao la; là tiếng thôi thúc gọi ta về     

mỗi khi lang bạt.;là ta làm hàng dương , phi lao ngăn sóng bảo. Tất cả dâng hiến cho:

Trong nôi con nhoẻn miệng cười - Giang tay con n mt tri tháng tư - Xoãi chân con đợi gío mùa - Tiếng ru của mẹ chưa va gic con - Đỏ hng tí xíu chân son - Nâng niu cha ẳm đời con vào lòng” (Khi con đầy tháng- 48).

 

 

 

Quan sát, quan sát và quan sát như Pavlov đã nói. Trần phù Thế có là nhà quan sát không, chúng ta hãy:

Bờ vai em những lông tơ mm mi- Cũng sượng sùng khi nghĩ đến la nhau” ( Thư gởi người yêu ở xa – 67). Tác gỉa có liều lĩnh để phỏng đóan không?.

Thu là đề tài muôn thuở của thi nhân. Phác thảo qua văn chương, chúng ta có Nguyễn Khuyến với Thu điếu, Thu Vịnh:

”Thu ăn măng trúc đông ăn gía - Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao”. Lưu trọng Lư với ”Tiếng thu”. Huy Cận với “Thu Rừng”: Nai cao gót lẫn trong mù - Xuống rừng nẻo thuộc nhìn thu mới về. Họ là những người đi tiên phong, làm cách mạng cho ngôn ngữ…

Thu của Trần Phù Thế đầm thấm như cốc trà đậm nồng hương đời, như kẻ lữ hành dày dặn kinh nghiệm và ở một lúc nào đó, có thể trở thành người ẩn dật sau hàng phong:

Ở đây trời chẳng trong xanh - Ngày thu cuối đã quẩn quanh tuổi gìa - Rừng phong đầy lá hiên nhà - Vàng phai sắc nhớ chiều pha sắc vàng - Biết ta cõi sống muộn màng - Vơi đi lá úa bên ngàn đầy thu - Đã nghe tiếng thở sương mù - Tan trong cô qunh vi t bit tăm (Thu muộn- 92).

Tâm tình chân phương rất mực, tác gỉa phó thường dân miền Tây Nam Bộ đang diễn trò “ sơn đông mãi võ” đang cổ động mời gọi, rao giảng cùng Hắc Bạch giang hồ:

Tôi biết tôi không có quyền lựa chọn

Người tt- k xu đến vi mình

Nên tôi vui lòng đón nhận như một niềm hạnh phúc”

(Tâm sự một con đường- 96).

Con người là sinh vật đáng yêu hay đáng ghét. Phạm Duy cứ khản cổ hát:” Giết người đi thì ta ở với ai?...”.Trần Phù Thế phóng khoáng, cao ngạo:

Hởi những con người đáng yêu

Đang thở bầu trời xanh ngát

Hoặc những người xa

Hãy đến với tôi

Dù chỉ một lần

Tôi xin tự nguyện

Làm một con tàu chung thủy

Chuyên chở suốt đời “

(TSMCĐ trang 96).

Dường như tác gỉa đang lang thang trên núi Sam- Châu đốc vào mỗi tháng ba nhân dịp Lễ Vía Bà. Có đi mới thấy núi non, cây đá chập chùng. Không hùng vĩ so với những nơi khác, nhưng cũng đã tạo nên một sắc thái trang nghiêm, huyền bí cho dân chúng miền Tây và dân chúng từ Sài Gòn đổ xuống . Thất Sơn, bảy ngọn núi- linh địa của miền nam- Có Tây An Tự ( Bửu Sơn Kỳ Hương), có lăng Thoại Ngọc Hầu. Nơi an vị Phật bà khói hương nghi ngút. Khách thập phương nam nữ vui vẻ bầy đàn, rộn rịp cả một góc núi.

Ước gì ta được hóa thân - Thành mưa tưới mát núi Sam ngàn đời - Hi lòng lòng có đổi dời - Như cơn gío thoảng trên đồi Bạch vân”. ( Hỏi lòng- 98).

Buổi chiều cô độc, ngồi nhớ mông lung, khách giang hồ nơi xứ người vẫn còn mang mang tình hận khôn nguôi;

Nghìn năm một chữ vô thường

Bóng anh nhòa nhạt bên đường thu phong

Lá bên đời lá chạy rong

Trăm năm kiệt sức mình không thấy mình”. (Mùa thu và lá trang 102).

 

 

trần phù thế

 

 

Qua hơn năm mươi bài thơ trong “ Giỡn bóng chiêm bao” của Trần Phù Thế, dàn trải qua các đề tài về thân phận, tình yêu và quê hương. Đặc biệt là tình yêu trai gái vẫn không làm mờ nhạt đi tình yêu của cha mẹ và con cái. Sợi dây ràng buộc mà mối thắt mở không thể tìm được đáp số.

Ngoài ra, tâm sự kẻ xa quê hương, tự nhận mình là kẻ lưu đày hay dưới bất kỳ danh xưng nào, cũng nói lên rằng mình không còn trên xứ Việt.

Ta cười ta n núi sông

Xẩy tay mất nước lưu vong x người

Ta cười ta mt trn cười

Trăm năm hồ dễ mấy người như ta” (Ta cười ta  trang 104)

 

(VGH - 8-2012)

 

 

Lâm Hảo Dũng
Số lần đọc: 2051
Ngày đăng: 06.07.2013
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Phụ nữ dưới chế độ Đức Quốc Xã - Trịnh Ngọc Thìn
Tĩnh-vật/ Still-life - Nguyễn Quỳnh USA
Nhân Có Tập Văn Đưa Triết Học Vào Sáng Tác, Nhớ Lại Đặc Điểm Một Thời Kỳ (Bài viết khi đọc cuốn cảo-bút của Trần Nhựt Tân, sáng tác năm 1973, xb. Năm 1996) - Trần Văn Nam
Cảnh Cửu và sự cô đơn đến tận cùng - Nguyễn Lệ Uyên
Hoài vọng và ngu ngơ trong tác phẩm của Franz Kafka* - Võ Công Liêm
Di dân và địa lý đô thị hiện đại - Đinh Lê Na
Nhận thức về tâm linh của cá nhân mình . - Nguyễn Hồng Nhung
Đại thừa / MAHÀYÀNA / Greater Vehicle Lòng thương xót và Siêu hình học - Võ Công Liêm
Lý thuyết tiếp nhận: không chỉ là vấn đề học thuật - Phạm Quang Trung
Các bậc thang phép thuật - Nguyễn Hồng Nhung