Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.333 tác phẩm
2.747 tác giả
737
115.983.111
 
Cảm thức Tha-Ngã Luận [KÌ 8]
Phạm Tấn Xuân Cao

 

 

 

CHƯƠNG II

TÍNH KHẢ CẤU THỰC TẠI ĐA KHÔNG GIAN

 

 

2.TÍNH QUẢNG DIỄN VỀ KHẢ CẤU THỰC TẠI ĐA KHÔNG GIAN.

 

2.3 CÔNG CUỘC BỔ TÚC CHO HỆ HÌNH THA NGÃ TÍNH (QUA VIỆC THAM CHIẾU NHỮNG GÌ CẦN THIẾT)

 

A.VỀ HỮU THỂ THƯỜNG HẰNG TÍNH.

 

 Tính bất biến của hữu thể với một mức độ hiện diện không trương và cô lập tương ưng thường hằng tính mọi sự đặt định thiết yếu không có sự tái cơ cấu thêm gì nữa ở hữu thể là một cách đặt định không khả quan. Cũng đi từ chính động cơ mong muốn có được những hiểu biết về bản hữu mà tính bất biến, từ đó xây dựng nên, trên tư cách tồn hữu, với sự xây dựng hữu thể bất biến như tương đương trong mức độ hiện diện không trương và cô lập. Nó sẵn sàng câu thông tất cả cách thức để hiểu về bản hữu cũng là cách giải quyết để cho ra đời định nghĩa về tồn hữu. Đó như là thái độ mà qua cách thức hạn định bản hữu trên chính hữu thể bất biến đóng vai trò như điều gì đó là tồn hữu. Tính bất biến hữu thể cơ cấu vào chính tồn hữu để có những cách thức nhìn nhận/giải quyết đến vấn đề liên quan về bản hữu. Không khó để có thể nhận xét về chính tính bất biến đó của hữu thể, mà chỉ mức độ cố kết đạt được đối với mọi thái cách triển thời tối ưu sơ đẳng nhất, trong cưu mang tự định đoạt. Khó mà khi đó nếu có ở đối với tồn hữu chỉ là cách thức xây dựng làm sao cho việc hướng đến bản hữu được thông suốt, để bổ túc cho các căn tố còn thiếu sót khi tìm đến những gì đơn cử như mọi biến thái, đều từ đó trở nên đồng bộ và được triển khai không có khi nào đó nó coi là khó khăn trên từng chặng đường mà nó đi qua. Có đôi lúc, trên chính những chốt chặng mà nó kiểm soát, có thể nó sẽ luôn luôn đảm bảo cho tính toàn trị duy nhất của nó mà thôi! Bản thân bản hữu không đơn nhất đồng nguyên như thế, để nó diễn giải ra là được định hình thông suốt đến như vậy. Cái để cho những gì phát khởi nên và từ đó tìm lại điều gì có ý nghĩa, thì cũng từ đó mà có như nó là những gì được hội lãnh trở nên mà thôi. Trên mức độ hiện diện không trương và cô lập ta thấy được sự bất khả tái thiết đối với chính bản thân hữu thể, xét như là hiện diện ở mức độ tương ứng của bản hữu là khó mà được thực hiện. Hiện diện trong không trương như minh chứng cho hữu thể từ toàn bộ trở nên cụ thể, tưởng chừng như nó đó có thể dễ dàng nắm bắt được. Cũng có thể cho nó, là khó khăn nhưng khi mà mọi cơ hội đến với nó cũng luôn biết trước câu trả lời là sự từ chối, cũng ở chính phía nó mà thôi. Bởi vì, khó mà đặt định sự tái thiết bản thân hữu thể, cho nên mọi cung cách biểu lộ có định hướng đối trọng nó tức sẽ luôn khả thành cho tồn hữu tự tôn xưng nó lên thành một hữu thể bất biến hay là tính bất biến được triển khai quá độ một cách mau chóng nhất, bởi sự sắp đặt luôn là định liệu chu đáo từ trước đó.

Nói một điều gì thường hằng tính thì tốt nhất đừng nói. Khi chính sự thường hằng sẽ rất và khi nào cũng vậy, rất cực đoan. Cái giao phó vào để từ đó đi tìm sự bổ sung cho những thiếu khuyết, sẽ bị đình chỉ ngay khi không cần có một quyết định được ra nào và kể cả ngay khi chính quyết định đó được đưa ra, nhưng chưa đến kì hiệu lực xuất hiện thì nó cũng sẽ không bao giờ màng đến những điều được nói đến như thế. Sự tái cơ cấu là cần thiết để đổ bộ vào và đập phá sự tiêu cực đó, ngay chính mong muốn bảo thủ cố hữu đáng kinh tởm như thế! Không thể có dự tính nào mà được giải quyết một cách sang suốt, khi chúng ta gieo sự ảnh hưởng của quá trình tái dẫn những chỉ điểm đích đến về vô cùng các đối tượng chất chứa các sự kiện khác nhau, vì thế mới có được sức thuyết phục một cách khả thi trước mong muốn tái cơ cấu thêm nữa.

Thường hằng tính là cách thức mà hữu thể bất biến xác lập nên để bổ túc và trong một chừng mực nào đó, để hội thông với chính tính bất biến đóng vai trò là căn tố làm nên cơ sở dẫn khởi đi chính bản hữu, xét đến ở đây, như là chính hữu thể bất biến. Bản hữu, như thế, đã tự chọn cho mình cách thức hướng đến tồn hữu, mà trong những cách kiềm chế để dọi phóng vào trong nó, tức là cũng đều được đem lại cho một sự khải lộ vào dự phần của huyền nhiệm bản thể. Có những gì mà ngày nào cũng luôn dật ứng để đi đến điều kiện xác lập nên bất kể điều gì từ đó nó bổ sung vào? Nhưng đứng trước sự tấn công nhằm đẩy lùi trở lại một cách gay gắt của tính bất biến đang đứng trên cương vị của sự tự mãn, không gì cản trở được công cuộc điều phối chính bản thân hữu thể, đối với/trong lúc mà nó tiếp thu sự bổ sung. Với mọi cách thức nào, mà từ đó, nó mang lại, thì cũng đều là mức độ thông dẫn đến với việc đặt định thường hằng tính vào trong bản hữu, để từ đó ấn định một hệ quả không gì khác đi ngoài việc xác lập nên tồn hữu. Tính bất biến được dẫn khởi đi để trở thành thường hằng tính thì trong độ mau chóng của nó cũng luôn là nhắm đến địa vị đặc trưng cho chính bản hữu, được hiểu hay được xét đến như là tồn hữu hiện diện tương ưng với hữu thể bất biến. Cách đặt định không khả quan ở đây chính là phương thức mà bất biến tính gieo rắc vào bản hữu, từ đó đi xây dựng hữu thể trong công cuộc truy tầm bản hữu chứa đầy yếu tố cực đoan và bảo thủ. Huyền nhiệm thực tại là đối tượng triệt để của sự hội thông tha ngã tính vào trong nó, để từ đó dẫn khởi đi đến tính hữu đóng vai trò là một căn tố được tiên liệu cho công cuộc tiền định chính bản thân hữu thể phức hợp, xét như dưới khía cạnh biểu hiện của bản hữu.

Bản thân hữu thể không là mức độ xuất diễn của tổ hợp thành phần. Trên luận lí cố kết cực đoan cho rằng, bản nhiên của hữu thể là một cái gì đó mang tính tồn vong không bao giờ đứt đoạn. Thì việc khử trừ đi sự cấu nạp của mỗi thành tố đó có thực sự ở hữu thể là dĩ nhiên. Nhưng chỉ thật tồn tại khi và chỉ khi trong nó là những thành tố đó mà đa không gian được dự định phát động trên định vị cảm thức, chính là một phóng trợ cho từng bước loại đi sự dị biệt có được tiềm thế của luận lí đó, khi nó cho rằng, phân minh là vô nghĩa để hành động phân vùng trong bản thân hữu thể, chính bằng sự tái thiết nên hữu thể sẽ chẳng khi nào được tiếp nhận một cách hợp lí nhất.

Tổ hợp nên thành phần là điều được coi như nguyên tắc kiểm kê đối với mọi mức độ xuất diễn từ bản thân hữu thể, đạt đến trạng thái cực đoan trở đi, ở đó, tụ dẫn đến trạng thái phủ định/bài xích. Tổ hợp mà được xác lập trong chính hữu thể viên mãn thì hy vọng để trực tính tha ngã xâm nhập/khả nhiễm vào chỉ là một chút gì đó nhỏ nhoi mà thôi. Thật khó để có thể xác định được những giao ước đến mức độ quy củ cứng nhắc như thế lại tồn tại với tư cách gì đó hết sức quá hiển nhiên. Điều mà ta thấy thật sự khó nói ở đây, chính là nguyên tắc mà tự trong bản thân nó không thể dành ra mọt chút nào đó, gọi là phân vùng để câu truyền vào chính nơi chốn khó có thể phục dựng ở đó một địa hạt của sự tự tại đích xác, mà bản thân nó phải có khi nó mong muốn có được những mưu cầu sơ khởi và đơn điệu nhất ấy. Không chỉ với những chỉ định cho việc tránh gia tăng mức độ bão hoà thêm nữa, trong phân khu mà nó còn tụ dẫn để đi đến trạng thái phủ định/bài xích chính những thành phần lưu vong cố gắng mọi sự cố gắng, để có thể đổ bộ vào trong nó như quy chiếu của dẫn nhập coi như là khả dĩ di cư rồi an vị trong mọt nơi chốn nào đó, mà có thể gọi như là thoả mãn cho quy tắc hằng sống của các thành phần ấy. Mức độ xuất diễn đó chứa đầy những điều động không hợp lý nên phê phán tính chất hữu thể chứa đựng yếu tố ấy là không thể không phê phán trong một chừng mực/khả năng có thể cho phép đối với chính hành động ấy. Thật sự là đối với chính sự tổ hợp đó, luôn ngày nào cũng có khuynh hướng thấu triệt để khả nhiễm vào, cho dù vấp phải sự kháng cự mạnh mẽ đến chừng nào đi nữa từ phía xuất diễn chính bản thân hữu thể bất biến thông đạt đến trạng thái toàn mãn, như chính nó cảm hiểu về cái coi như đó là an toàn cho chính nó, đối với nó/do nó.

Bản thân thực thể là nguyên uỷ cho một sự liên tục trong vô hạn (không đặt trên cung cách nhìn nhận về phía vô cùng). Liên tục trong vô hạn phản ánh tính khuếch tán của hữu thể, vào trung tâm của sự hạn định không biên vùng vì tính chất thường hằng khoả lấp vào mọi ngóc ngách của hữu thể. Liên tục cấu nạp vào vô hạn mang tính chất chỉ định cho những xung lượng phác thảo ra, hiện trình ở những biên vùng không khi nào xác lập cho được các bờ thửa trong biên độ hạn định. Trong bất cứ một tác động phân lập nào, để từ đó, coi như nó là hội thông với chính bản thân hữu thể bất biến thì cũng chính tự trong bản thân nó, không mang vác vào bất kể hay du nhập vào thêm một yếu tố biến thái cách nào khác. Khi có sự đặt để trong một giả năng hư cấu về phía bản thân hữu thể bất biến mà không thừa hưởng được bất kể điều gì xuất phát từ đó coi như là ngoại vi.

Nguyên uỷ trong liên tục vô hạn là cái có đó ở chính bản thân hữu thể, hiểu như cách nhìn về bản hữu dưới khía cạnh tồn hữu, để xác lập nên tính chất bất biến của hữu thể thì trong cách nhìn nhận về lại với chính bản thân hữu thể là cách thức xây dựng nhắm đến một mục đích lành lặn nhất, đối với mọi phong thái hay cách thức diễn giải thêm nữa, ở chốn dạng, mà từ đó, cũng khó để có thể làm đầy đặn thêm hơn bất cứ một chút cộng tồn nào vào cương vực của chính nó. Nguyên uỷ hữu thể bất biến là trình tự sắp đặt của điều gì đó chính thống trở nên khó phân tranh (ra) trên chính một tiệm vị không quá đỗi ngỡ ngàng như bao người vẫn nghĩ rằng, cái nó có trong chính tính chất bất biến ấy, luôn khi nào cũng hội lãnh với chính điều kiện mà nó mang vác đến một cơ trình thanh thản nhất, mà mọi gắn kết ở trong chính bản thân thì là điều luôn dễ dàng trở thành những mong muốn thôi thúc cho sự an vị của nó, ngay chính tại phương vùng mà nó cát cứ. Khó có thể diễn giải gì đó mà nó coi như vậy là rõ ràng hơn, về phía hữu thể trên trình tự xây dựng nó, về phía cái bất biến nhằm khẳng định rằng, nó liên tục trong vô hạn thì chính cách thức mà mình muốn xác lập nên như thế đến nó cũng luôn là điều được tự nó đảm bảo cho chính nó, mà không cần đến bất cứ một phương tiện nào khác ngoài chính tiềm lực bên trong nó cả. Điều nguyên uỷ chính là cách thức để kết lập nên trên chính tính chất của các điều khoản đặt ra phải thông qua sự giám sát cực kỳ chặt chẽ chính bản thân hữu thể coi như nó là bản thân của sự bất biến.

Hành động khử trừ để đi đến một mong muốn đòi hỏi phải và bắt buộc có cấu nạp chính mong muốn bảo tồn bản thân hữu thể bất biến xét đến như cách hiểu về bản hữu, qua điểm tập kết của tồn hữu dựa vào quy chiếu từ thường hằng tính. Nhưng điều đó là vô bổ nếu được duy trì từ chủ thể và thậm chí vô dụng không đáng được nói như thế nếu nói tiếp. Chính là khi chỉ cần chỉ rõ những gì khởi lập nên hệ hình đa không gian chính thực tại này, thì cũng điều là được đảm bảo như thế để đi đến một kết luận nhẹ nhàng đối với con đường đột nhập vào chính hữu thể bất biến.

Cách thức để huỷ tạo chính hữu thể bất biến này chính là sự kết lập để đổ bộ vào cái gọi là mức độ quy tụ quan trọng nhất từ khía cạnh/phía hữu thể bất biến không gì khác ngoài vấn đề, mà tính mô phỏng của nó được hạn định bởi những cách thức điều hướng, không gì khởi tạo nên bất cứ một điều kiện nào khác hơn là bổ túc đi đến đối với mỗi bộ phận, đóng một vai trò đầy tiềm năng nhằm dật ứng bất kì một điều sơ khởi nào, mà mọi huỷ tạo xem xét dưới phương thức hành động, diễn ra trước đó đều trở nên vô hiệu lực vì đã không tính đến lộ trình xác lập nên hệ hình có đủ cơ sở vững chắc cho công cuộc huỷ tạo ấy. Bằng với chính những hành động lưu dẫn những bộ phận kích xuất việc gia bội để tăng nhanh quá trình trực tính tha ngã xâm nhiễm vào hệ hình thường hằng, có trong lý giới như mức độ kiểm toả từ các mô thức khởi đi nhưng chỉ khi tính đến công cuộc, có cho nó như là điều mà thực sự không nên bàn cãi điều gì đó khác hơn đi nữa, thì cũng luôn là sẽ được thâu tóm trong mức độ hạn định khả kiến bởi cung cách nào, cũng đều sở hữu những ưu trội thì phần hệ quả tất yếu sẽ nghiêng về phía tích cực mà thôi. Đảm bảo cho chiều kích đa không gian công phá vào tính trì vững của hệ hình thường hằng ấy, mà do đó, điều kiện/yêu cầu đặt ra cho chính lộ trình hạn lập nên hệ hình tha ngã tính sẽ được đương lượng bằng với chính điều kiện, mà nó có thể khó có được như thế hay như bất kể cho một sự gạn lọc nào, để nó hiểu như trách nhiệm mà nó cần thực hiện cho toàn vẹn nghĩa vụ thì chính là điều mà tự bản thân nó lấy làm vinh dự. Nếu tìm có được nếu sự xác lập của hệ hình tha ngã tính đầy đủ/toàn diện thì rất khó có thể tính đến việc kiện trản trong mức độ thâu tóm, để vùi dập vào mà mang tính ngây ngất thái quá thì chẳng khác gì là bạo lực để chống bạo lực cả, mà là trong cung cách sử dụng những điều tinh tế nhằm gia tăng sức ảnh hưởng của mình, trên chính phân vùng (mà cũng có thể là toàn bộ phân vùng nào đáng ra mình xứng đáng có dược như thế).

Cũng như khi cách thức chống lại thường hằng tính đó, ở trong nó, có được những động lực chống phân minh luôn khi nào cũng được gia cố một cách vững chắc, như chính điều đó đồng nghĩa với sự giải thể mọi tái thiết nên hữu thể để trong cách thức tương đương, nó đặt định tính toàn trị chuyên chế không bao giờ thay đổi. Mà nếu như thế, nó cũng không ngờ đến sức mạnh của lộ trình/hệ hình tha ngã tính với sự biến dịch của chính mình cấu nạp là vô tận, nên vô hạn chỉ là một trong các trường hợp để đối sánh với nó tương tự như bộ phận đem đương lượng với chính toàn thể, cũng chỉ vì tính bảo thủ cố chấp khó có được sự kiện tự triệt tiêu một cách thích đáng.

Hệ quả của lộ trình thiết lập nên hệ hình tha ngã tính đến đây, đã thực sự thành công (coi như nó tương đương như vậy). Khi mà chính hệ hình tha ngã tính chứ không phải là hệ hình nào khác có thể góp sức lực vào để đập tan tường thành của thường hằng tính, có trong bản thân hữu thể bất biến cũng là lúc hay trong thời điểm mà sự kiến lập nên hệ hình tha ngã tính có được cách thức xác định nên điều khoản quy tắc, nhằm định hình cho công cuộc biểu sinh ra những đối tượng mang tính quy ngưỡng, rồi thối chuyển tiệm cận đến sức vóc động lực mạnh mẽ trên công cuộc phân minh, như những điều kiện ra sức tải để hệ hình mà nó phải luôn được cấu nạp và phục dựng không ngừng. Khi ấy, tương đương chính điều đó là kết quả của sự tồn sinh chủ thể mà trong nó là hữu thể bất biến xét như cách thức xác lập trong chính bản thân chủ thể, luôn mong muốn nó được mọi đặc tính công khai cho bước tiến từ đấy khoả lấp đến mọi ngóc ngách, mà việc/cách thức hướng đến định tính  suy diễn cũng đều được thực hiện trong những giả lập vọng đến từ chính cách thức ứng xả xuất phát từ mỗi bước kết lập nên những phân tranh ngoạn mục, đối với phương thức xử lý không có chút dính dáng gì đến điều kiện dự trù ở vào mọi cuộc/lộ trình hướng ngoại, cũng đều có sự bổ túc với nó về phía tự trong bản thân không quy phục vào bên trong của bất cứ một điều kiện, hay đặc cách tiêu chuẩn nào mà sự sai khiến dường như khó có được những mạch ngầm của điều kiện được uốn nắn một cách đầy đặn cho/đối với mọi lưu cụ xuất phát từ chính tâm điểm của những điều, mà hệ hình đó vạch ra khi tiến đến thay thế đi một hệ hình, mà đối với nó là lạc hậu thì chính thực xác minh cho điều kiện hiểu như chính sự biên kiến ấy luôn là điều kiện tự nó minh định cho chính nó.

 

B.VỀ HỮU THỂ THỜI TÍNH.

 

Thời tính của hữu thể là tác động ý hướng tính nhìn nhận về bản thân hữu thể với một hệ quả (sai lầm) khi xây dựng nó nên hữu thể thời tính là không xác thực. Ý chí bản hữu luôn được xác định đối với mọi kết lập nên hữu thể như một khía cạnh hiện diện của chính nó. Bản hữu là cách thức mà mọi tiềm phôi xác định nên bất kì điều gì nó có thể kết lập trong một chừng mực nào đó là tự nó quyết định. Ý chí bản hữu không nên vì thế mà được đem đến hữu thể trong điểm tập kết đối với phôi sinh hiện thể. Hữu thể thời tính khai sinh nên từ thời tính là điều mà bản hữu được gia cố vào trong tính tiệm tuyến đến những phương vùng bất khả phân lập giai đoạn. Mọi ý chí bản hữu vì thế mà với/trong cung cách hình thành/xây dựng hữu thể thời tính, do đó, nó không thể cứ vin vào những cứ lý để một mai ngộ nhận là muộn màng. Thời tính của hữu thể là cách đặt định hữu thể trong tính lịch sử của nó nghĩa là nó lưu động trong tính khả chấp hữu chính nó. Thời tính từ đó trở đi sẽ luôn chứa đựng những diễn dịch có từ bản thân bản hữu thực hiện trong một chiều hướng bản thân hữu thể khi khởi đi xây dựng hữu thể thời tính. Hữu thể được kết tập trong nó tính chất thời tính thì cũng đồng nghĩa với chính nó như hiện trình trước bản hữu một cách thế mới về phong thái kiến lập nên hữu thể mang tính chất như thế. Thời tính là linh động trong phương cách chuyển thể mọi phân ngạch vào những cương mục sinh tồn. Một khi chuyển dịch để đi đến tuyến tính thì có như thế mới mang lại điều gì đó chứa đựng tính bao chứa cho bản hữu có được phong cách khai quật nên mọi dị phức tính có từ đó dẫn khởi đi? Thời tính của hữu thể là mọi phương thức chế tác từ hành động ý hướng tính nhìn nhận về bản thân hữu thể. Ý hướng tính là phong thái không kể đến như bất kì mỗi một tác động nào đó khi hữu thể thời tính từ nó khởi đi xây dựng nên cho chính nó là một hệ quả sai lầm. Sự sai lầm đó là hạn chế trong cách nhìn nhận về bản hữu với tác động nhìn nhận dưới khía cạnh của sự hữu mà không tính đến tính hữu của bản hữu. Hữu thể thời tính là cách thức hướng đến sự hữu của bản hữu cho nên tính hữu không được ngó ngàng đến gì, mà chính thức kế thừa mọi phương hướng kết lập nên từ bản hữu không gì khác đi ngoài tính hữu. Mọi sự phủ định mang tính hoài nghi về tính hữu sẽ là cách thức khó xác định nên được cái nhìn có thể cho là toàn diện đi, để từ đó, nhìn nhận về bản hữu hiện diện như hữu thể, bởi căn nguyên không được dẫn khởi từ tính chất tha ngã của bản hữu.

Thời tính hữu thể như chính đạo lộ của hiện tượng luận về bản thân “hiện hữu kiện tính”. Trên mức độ thông diễn về chính thời tính để từ nó dẫn khởi đi xây dựng hữu thể thời tính là khó có được sức đảm bảo thuần lý. Đối ngẫu trên những khả năng xảy ra và tuyến tính chẳng qua chỉ là một giả năng hư cấu, cho nên khó lòng có sự rơi rớt lại của hữu thể, ở những phân đoạn, trên chính những gì được coi là qua đi hay sẽ là như thế đó. Thời tính, bản thân nó đi từ vô cùng đến vô cùng để rồi hạn định chính phương thức biểu hiện của bản hữu là hữu thể thời tính vận động trong quá trình chính nó như một lịch sử được dẫn nhập đến/vào. Mà thời tính, không những bỏ quên trong đó những điểm tập kết quy hướng vào bên trong. Mà thời tính còn lưu động trong những tính năng khó có sự câu phối đầy đảm bảo. Khi thời tính xây dựng nên từ đó hữu thể thời tính thì như chính tính chất thông diễn về thời tính, đem dồn hết sức lực cho mức độ lưu dẫn đến bản thân hiện hữu kiện tính của bản hữu là chính thực trong lúc biểu hiện dưới hữu thể, hẳn là một phương thức tập kết trong vô vọng. Mọi bản hữu được nhìn dưới tính hữu mới thực sự đầy đủ.  Thời tính khởi đi xây dựng hữu thể thời tính đã căn cứ trên sự vô xác định, khi chính nó hiểu về chính bản hữu một cách phiến diện, cũng từ chính hy vọng mà nó có được khi chứng minh về bản hữu thông qua sự hữu đó phủ quyết/chỉ trích về tồn hữu, được căn cứ trên thường hằng tính khởi đi xây dựng hệ hình hiểu về bản hữu là tồn hữu dưới khía cạnh kiến lập nên hữu thể bất biến. Thời tính là công cuộc chuyển đoạn, vì thế, trong nó luôn đầy ắp một gia lực xác lập nên độ quy hồi mà nó cho như thế là mạnh mẽ. Hữu thể thời tính là kiến lập nên mức độ hành trình, trên chính những đạo lộ hiện tượng luận hướng đích về định tính khả cường chính bản thân “hiện hữu kiện tính” dưới khía cạnh bản hữu hiện diện như chính hữu thể. Trong cách thức mà thời tính xác lập nên thông qua lộ trình hiện tượng luận, chủ thể đồng quy với chính bước giới hạn lại/đến chính điểm đích quy lập nên mọi cách thế của mức độ thông diễn, về chính thời tính, để từ đó dẫn đi xây dựng hữu thể thời tính. Mức độ thông diễn về thời tính khi kết lập trong chính bản hữu hiểu như phong thái hạn độ trên chính hữu thể thời tính và do đó nó tự hạn định nó trong vòng xoáy của tính phiến diện chính bản thân nó. Hữu thể thời tính không những đảm bảo cho mức độ lưu động chính tư tưởng về bản hữu, hiển nhiên, dưới khía cạnh hữu thể, điều đó là đáng khích lệ nhưng hạn chế của nó thì không thể không được nhìn nhận như những gì nó có là hiển nhiên như thế.

Ngẫu phát đoán định sự kiện dự phần của hữu thể được kết lập trong thời tính ưu trương của chính nó. Nhằm khẳng định bản chất của hữu thể mang vác trong mình tính khả nhiễm của thời trường luôn luôn là một luận lí đứt đoạn. Bởi một khi, hữu thể mang vác trong mình khả nhiễm thời tính của thời trường, thì đương độ đó, luôn cấu nạp vào trong bất kể một thành tố nào của suy diễn luận lí trên, khi luận lí đó thực hiện một cuộc quy nạp lộn ngược dòng. Thì chính hệ quả của quá trình lộn ngược đó, sẽ rất khó đảm bảo cho được tính chặt chẽ của liên tải trong khi gia bội hóa, qua các mức độ lưu vong tha ngã tính của chủ thể là luôn luôn vượt mọi mức độ cấu nạp ấy. Nếu nó được truyền hưởng cho một phôi sinh hữu thể khi khơi dòng nên cuộc hiện hữu có thời tính thì bản thân hữu thể đó há chẳng phải chính nó thực hiện một hành động hư vô trong lòng nó để rồi (tự) nó là một phồn tạp phi lý?

Đoán định sự kiện dự phần trong tính ngẫu phát của hữu thể có rất nhiều cách, tuy nhiên, trong số cách thức đặt ra như chính nó sẽ được thực thi cho mọi hiểu biết có được về mặt bản thể sẽ trình hiện ra tính chất hữu thể, được kết lập trong thời tính ưu trương của chính cảm thức là một trong những cách đặt định về chính bản thân hữu thể hiểu như cách nhìn nhận về bản hữu. Kết lập trong thời tính ưu trương của cảm thức, chính vì thế, ngẫu phát càng có giá trị của riêng nó khi thực hiện quy trình có đoán định đến sự kiện như vậy. Bằng mọi cách thức công phá truyền thống mà thời tính được tìm đến như lời giải cho việc điều hướng về/tới những dự phần của hữu thể. Tính ngẫu phát được cân đong là trong tính tự tại của chuyển dời mọi biến dịch, trên hoặc trong chính nó hiểu như cách lồng ghép vào nhau, của phương hướng nhắm đến. Kết lập trong thời tính ưu trương, như chính nó vạch ra trong miên trường của tâm hệ những dòng chảy biểu sinh nơi công cuộc, coi như đó là ngoạn mục. Cũng khó có thể để mà xâm nhập vào như chính hành động kết lập nên được hiểu cho chính hành động mang tính dựng xây xuất phát từ nó, thì đều là cách giải quyết khó đoán định đi thêm một bước tiến nào nữa cả. Khó đoán và chính cách thức mong mỏi như kết lập trong chính điều kiện dựng xây từ mọi/mỗi tính chất nào, cũng đều là khả nhiên khó vượt thoát khỏi thời tính, nếu như theo cách biểu đạt về hữu thể hiểu như cách nhìn nhận về bản hữu.

Khả nhiễm tính thời trường, từ đó xây dựng nên hữu thể thời tính được kết lập trong ưu trương cảm thức chính chủ thể, do vậy, ở vị trí được điều động với mức độ khải minh hợp lý, có cho đó là cách thức giải quyết vấn đề định hình bản hữu được hiểu với tư cách như chính hữu thể. Thời tính kết lập trong ưu trương cảm thức vì thông qua thời trường mà bản thân cảm thức giữ sự không trương tương ứng như đẳng trương, còn phần hơn lại căn cứ từ nó để nhắc đến thời trường như biến điệu trong chính bản thân nó, nhằm cho ra thời tính chính hữu thể. Trong bản chất của thời tính được hữu thể tạo dựng nên trên tuyến tính của miên trường tâm hệ đáng bằng chính với những phân lập giải quyết được cho chính/với tư cách không gì đó coi như là thành phần góp vào. Dưới mọi chỉ định có liên quan đến thời tính, nhằm xây dựng nên hữu thể mang thời tính trong tiến trình lịch sử của chính nó, lại luôn là tư cách mà thời tính được kết lập trong chính ưu trương cảm thức (dưới khía cạnh thời trường) chính chủ thể. Khả nhiễm tính thời trường là mức độ gia nạp định tính đó, vào bên trong hữu thể coi như hữu thể được triển khai trong tiến trình vô cùng âm đến vô cùng dương trên trục số. Khi đó, thời tính là tính chất hữu thể có được chính lúc mà nó bung vỡ để thụ nhận vào mình đặc tính sở hữu không chia chẻ gì nữa, bất kể một điều gì đó có đi ra từ nó hay là gì đi nữa. Bằng với chính cách thức kết lập trong ưu trương thời trường, mà hữu thể xây dựng nên từ thời tính mới có đủ can đảm, để thực hiện bước tập kết mọi sự tổng hoà trên toàn bộ các phương hướng cấu nạp. Do vậy, với cách thức điều động nên mức độ khải minh về vấn đề hữu thể, được hiểu như mong mỏi tìm kiếm một mức độ kiện toàn nhất, ít ra là trên chính vấn đề đó đã cho ra đời một sự nhìn nhận tất nhiên khó có thể là đầy đủ và căng tràn như vươn đến hay tìm ra mọi sức vóc lĩnh hội, được tất cả để rồi coi như đó là cái tối cần thiết, mà dùng toàn bộ mọi sức lực dồn vào những bước tiến có coi như đầy đủ và tiên nguyên trên nguyên tắc nào, cũng không là kể đến một cách sâu sắc nhất. Khi chính sự kết lập đó, để khải lộ cho con đường xác minh thời tính nhằm nâng cấp chính bản thân những điều đang được nói đến ở đây, như chính nó bảo đảm tự bên trong không nhằm mong mỏi hay giải đáp bất kể một sự kiện cấu hình hoá nào, ngoài việc dựng lên một hữu thể thời tính để đáp ứng chính mong mỏi như thế, và trên hết là để mọi quy tắc đưa vào đó trên lộ trình thiết lập hữu thể thời tính là coi như đầy đủ và căng tràn như chính điều định liệu ẩn sâu trong thời tính di mãn đi, cũng không thể không như coi chẳng có chuyện gì từ phía  xuất phát nên toàn cục dẫn dắt trong hữu thể thời tính.

Đi từ khả nhiễm tính vào thời trường hiểu theo cách biểu đạt về hữu thể thời tính sẽ luôn được đoán trước cách thức tiếp theo, bằng phương hướng cấu nạp thời tính đó vào tính luận lí của suy diễn, trên bước đường lộn ngược dòng quy tụ trong điều phối nên sự kiện đầy rẫy những vấn đề hàm chứa và có liên quan đến mọi phương thức, trên lộ trình truy tầm bản hữu không gì khác đã thông qua chính đối tượng tính thể.

Tính thể như đưa ra đặt căn nguyên cho toàn bộ hiện hữu kiện tính, ở đây, truy xét về tính thể hiểu như nguyên uỷ của cách thức đệ trình đến hệ mẫu coi như yếu tố chủ đạo của nó đóng vai trò nền tảng trong công cuộc khởi sự để đưa đến kết lập trong cương mục thuần thành nhất. Chủ đạo cho tiến trình tìm về bản hữu theo cách hiểu như chính từ đó khởi đi sự hữu để hướng đến công cuộc dựng lên hữu thể thời tính, trong cung cách riêng biệt biểu hiện bản hữu. Tính thể là mong muốn thâm nhập vào mọi trình diễn có được để hiểu về phía hữu thể như nó chính nó là vậy. Tính thể luôn được tiếp biến đối với mọi sự lưu dẫn hội thông với chính sức tải đưa đến lộ trình tìm về căn nguyên hiện hữu kiện tính. Nói như những gì được thiết lập nên, để rồi, trình ra bản chất thì đi đến nhìn nhận về tính thể cũng như chính sự vạch rõ cương mục nguyên uỷ trong tự tồn bản hữu, mà mọi sự đả động đến nó đều kết lập trong huyền nhiệm thực tại, dưới khía cạnh đặt định trên một cơ sở nhất định nào đó. Khó có thể nói như khi mà tính thể xác lập nên điều gì đó, có vẻ như là, để rồi tự trong đó nó dọi phóng ra thành mọi kết cấu hoá liên tục đến hội thông với huyền nhiệm bản thể thực tại. Trong cách thức xác lập đến đường hướng mà tính thể tìm về huyền nhiệm bản thể thực tại, coi như đó là bản hữu thì tính thể dưới mọi khía cạnh cách thức đã chỉ rõ ra, được hướng đi, đến với bản hữu thông qua sự hữu mà tính hữu không được nói đến để rồi bị vùi dập đi trong chính định tính phủ lấp theo dĩ vãng. Tính thể không thiên di như bất cứ khải lộ nào, cũng làm nên công cuộc chỉ dẫn đối với mọi biểu phần tự tại, trên mỗi đường đi nước bước chính bản thân mỗi đối tượng như chúng đóng vị trí là thành phần. Khó có thể chỉ dẫn ở bất cứ một vị trí mà tính thể coi như đó là mức độ hiện tượng luận đi đến bản hữu, thông qua sự hữu không kết lập hay bổ túc thêm một điều gì ở đó (ngoài nó nữa). Với chính định mức thông diễn về tính thể, mà từ đó khai phóng nên hữu thể điều đó bằng với chính mức độ kiện tính chính bản thân hữu thể.

Và chính trên bước đường lộn ngược dòng ấy, chính bản thân hữu thể thời tính không nắm bắt được tính chặt chẽ của hệ hình đích thân thực tại này (mà đó là liên tải) trong khi gia bội hoá, qua các mức độ lưu vong tha ngã tính bên trong chủ thể, luôn sẵn sàng phá bỏ/đạp đổ để vượt qua mức độ cấu nạp đầy cứng rắn đó. Chính tại đây, như hệ hình tính chính thức sánh vai cùng với thời tính khả nhiễm trong hữu thể thời tính hiểu như cách thông dẫn về sự biểu đạt đến bản hữu; chủ tha thể (hiểu như dưới khía cạnh của khả thể) đặt cạnh tính thể tương đương với đẳng lượng cho sức vóc cân bằng mọi điểm nhìn nhận về cặp đôi, muốn đi tìm khuynh hướng thắng lực để từ đó khởi dẫn nên từ chủ tha thể chuyển dịch thành tính hữu và sự hữu như cách thức cho ra đời từ chính tính thể. Ngang bằng đó là tạm thời, để mỗi sự gia cố vững chắc đối với lộ trình kết lập tha ngã tính, sẽ cừu xuất nên những tính chất có tính phê phán, vì coi như nó là hợp lý hơn mà nhắm đến hữu thể thời tính được xây dựng theo cách nhìn về bản hữu, như thế là sẽ luôn bị chính lộ trình hướng đến chủ tha thể trên bước đi, trên vai trò của tha ngã tính đóng chặt vai trò làm quân tiên phong thực hiện nhiệm vụ cường sát trong đạo lộ phê phán có quy tắc đó.

Gia bội hoá các mức độ lưu vong tha ngã tính bên trong chủ thể sẽ khử trừ đi, sự kết lập của thời tính trong chính bản thân chủ thể, nhằm giải phóng tất cả các tiểu vi đối tượng đi ra khỏi chính lộ trình quy tập nên chủ thể tính chính chủ thể đang hướng theo dự phóng kết lập hữu thể thời tính. Thì chính quá trình gia bội hoá mức độ lưu vong ấy, đã xác định được mọi quy chiếu/chuẩn  và hệ luỵ, từ đó, thời tính trên chính đạo lộ/trên mỗi chặng đường mà nó bước đi coi như những bước đi tràn đầy niềm kiêu hãnh, về một sự xác lập, cho nên nó như chính yếu tố lưu vong ấy, mà lại có được những quy hướng về với chính xác những dữ kiện được thảo sẵn đối với chính đạo lộ tìm về hữu thể thời tính là luôn luôn hiện diện những thiếu khuyết. Để đáp ứng được cho mức độ lưu vong đó, khỏi bị đặt cho cái tên là lưu vong, tha ngã tính đã không ngần ngại thực hiện một cuộc đổ bộ vào trong miên trường của tâm hệ, chính tại đây, sự hợp pháp hoá của chính nó đã thực sự được thực hiện như khi chính điều kiện quy lập nên phương cách hình dung về hệ hình tha ngã tính, hẳn là được hạn định trong những hệ quả khả độ cố kết một cách mạch lạc, vào chính tiến trình xác lập nên hệ hình tha ngã tính đưa đến thế chỗ cho thường hằng tính, bằng cách biến những gì theo dĩ nhiên thì đi về trên chính những gì mà nó coi như lựa chọn, từ đó có được một trong hai cách thức: tự nhiên hay là siêu nhiên?

Hướng đến một sự gia bội về phía thực tại đó, tạo nên một phồn tạp phi lý chính là cách thức thời tính khởi đi xây dựng trên phương hướng hiện tượng luận xây đắp nên hữu thể thời tính đặc cách cho hệ quả mà lộ trình nó hướng tới, như chính những gì nó đã hiểu hiện là không thể không nói nó không tràn đầy những thiếu sót và hạn chế nhất định.

Luôn hướng về phía thực tại để từng bước thụ nạp vào đó, những chuyển tải trong khuynh hướng có chủ đích là xây dựng nên một phần lộ trình nhằm thiết lập ở chính bên trong bản thân thực tại, có được sự định hình của khía cạnh xuất phát từ chính tính chất thời tính của hữu thể. Như thế, ở đây, đã có sự gia bội hoá trên chính chặng đường ấy, mà cách thức của nó được xác lập trên/nếu như là một thực tại tương đương với chính đối tượng của cách thức xác lập đó, là thực sự một phồn tạp phi lý. Cái có ý nghĩa như khi chính việc định hình nên một điều gì đó, có cho là ý nghĩa như chính nó vẫn mang sẽ được kích thích trên chính những gì, mà coi như đó là đồng bộ nhưng xác lập đến một hệ quả (tức một phồn tạp phi lý) thì coi như công sức đổ ra bao nhiều đều hỏng bét cả.

Chính trên sự gia cố hoá về phía thực tại ấy (dẫu chăng, hệ quả nó có đáng hay hợp lý, sai hoặc là không hiệu quả mà có cho dù không hợp lý cũng như nếu có thì có trong một chừng mực nào đó đi nữa thì cũng coi như nó là thuộc dạng hệ quả của chính nó rồi) đã khởi đi xây dựng nên hữu thể thời tính, có thể nói chưa được thoả đáng. Khi trên góc nhìn của hệ hình đa không gian dưới khía cạnh cảm thức, nhìn nhận về nó hợp với cách thức xác lập nên lộ trình theo sự vô hạn, và thực sự rõ ràng như thế khi cơ sở tha ngã tính đặt quy chuẩn hệ hình ra làm nền tảng. Tất cả đều đi qua và lấp đầy. Đi qua không phải là đi trên chính tuyến tính của lịch sử, rồi khái quát nên chất thời tính của hiện hoạt mà đi qua là chỉ lộ trình biến dịch chính đối tượng, trên những ngã đường khác nhau, từ đó khởi đi xây dựng những hệ hình mới mẻ hơn (kiểu như đó được coi là nắm bắt dù chỉ trong mức độ khả năng/xác suất) khi chính sự có mặt của những hệ hình, làm cho ta đặt ra được nhận định đồng thời về tính chất của sự biến dịch đó là đồng thời với mọi cố gắng để lấp đầy. Hữu thể phải đặt trong bản hữu để qua tính hữu quy hồi theo hệ hình tha ngã tính, từ đó đi đến xác lập một lập trường chung cuộc của hữu thể không là gì khác đi chính là hữu thể tha ngã tính.

 

Phạm Tấn Xuân Cao
Số lần đọc: 1580
Ngày đăng: 13.04.2014
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Cảm thức lưu vong trong tiểu thuyết của Milan Kundera - Trần Thanh Hà
Cõi thế là hình ảnh hóa thân đi từ tử cung cứu chuộc - Võ Công Liêm
Dục tính trong tiểu thuyết của Kundera - Trần Thanh Hà
Tri thức thức tỉnh: về màu sắc - Nguyễn Hồng Nhung
Cảm thức Tha-Ngã Luận [KÌ 7] - Phạm Tấn Xuân Cao
“Câu chuyện vô hình” – Sự trỗi dậy của Con Người cá nhân - Hà Thủy Nguyên
Cảm thức Tha-Ngã Luận [KÌ 6] - Phạm Tấn Xuân Cao
Cảm thức Tha-Ngã Luận [KÌ 5] - Phạm Tấn Xuân Cao
Linh hồn là gì? - Cư sĩ Minh Đạt
Tại sao Tân Hình Thức? - Nguyễn Đức Tùng