Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.333 tác phẩm
2.747 tác giả
737
116.007.833
 
Hoa mai chùa cổ
Mai Bá Ấn

                                                             

“Mai Bá Ấn hiện đang sống ở Quảng Ngãi. Anh làm thơ, viết văn. Truyện ngắn “Hoa mai chùa cổ” của anh là câu chuyện tình yêu dịu dàng như một bài thơ, như một kỉ niệm phảng phất khói sương của ảo giác” (Nhận xét của Nhà văn Nguyễn Đình Chính).

 

            Không biết tự bao giờ, chỉ biết khi tuổi thơ tôi bắt đầu nhận biết thì gốc mai kia đã trổ vàng hoa mỗi dịp xuân về. Chùa cách bến sông không xa, khiêm tốn ẩn mình dưới những rặng cây cổ thụ trên lưng chừng núi Đá. Khi tiếng chuông chùa ngân lên, có cảm giác như mặt nước sông chao động. Tiếng chuông u trầm từ núi la đà về với bến sông, vương vít trên mặt sông, tạo cho cái làng nhỏ của tôi một nét đẹp riêng. Đẹp lặng lẽ và buồn.

            Trụ trì ngôi chùa cổ hiện nay là Đại đức Thích Giác Huyền. Là một người xuất gia, lánh đời nhưng Đại đức lại là một nhà thơ nổi tiếng với những dòng thơ vừa nhẹ nhàng vừa vương vướng nỗi đau trần thế, phảng phất hương vị thiền của Phật. Cứ mỗi chiều, thầy Giác Huyền thường mặc bộ cà sa màu khói hương, đi chân trần đến bên gốc mai già, ngồi bên nấm mộ đơn sơ, rồi mải mê nhìn về phía vợi xa như vọng tưởng về một chân trời nào xa lắm. Trong kí ức tuổi thơ tôi, Đại đức Thích Giác Huyền cứ hiển hiện bên cội mai già như một tiên ông nhẹ nhàng thanh thoát. Có biết đâu rằng, trong lòng của vị Đại đức chân tu kia từng ẩn sâu một khối tình đau. Mẹ tôi kể rằng, cũng chính bên gốc mai già ấy, thầy Giác Huyền đã từng lặng lẽ chôn chặt nỗi đau từ ngày người con gái ấy trầm mình dưới bến sông vào một chiều cuối năm u ám.

            Người con gái ấy cũng không phải ai xa lạ. Nhà chị ở xóm Bến còn nhà tôi ở xóm Chùa, cách nhau là một quãng đồng khiêm tốn có tên gọi thật dễ thương và cụ thể: đồng Bé. Chỉ một tiếng hú gọi của xóm Bến bên sông là xóm Chùa bên chân núi như bừng tĩnh dậy. Tôi có cảm giác cái làng nhỏ gồm hai xóm của quê tôi là một sự hài hoà Âm - Dương đến tuyệt vời. Một bên động một bên tĩnh, một bên im lắng không khí chùa chiền lại một bên tấp nập, rộn ràng bến chợ. Chính bến sông này đã từng nhộn nhịp thuyền ghe, nơi trao đổi hàng hoá giữa miền xuôi và miền ngược. “Ai về nhắn với nậu nguồn /Mít non gửi xuống, cá chuồn gửi lên”. Câu ca dao này vận vào chỗ bến sông quê tôi thì quả là hợp tình hợp lẽ.

Nhà chị Thắm nằm ngay bên cạnh bến sông, nhưng khác với cái ồn ào, náo nhiệt của phiên chợ chiều bên bến nước, chị Thắm đẹp một vẻ u trầm. Người dân quê tôi thường ví chị đẹp như sắc mai bên ngôi chùa cổ, bí ẩn, khiêm nhường. Mẹ tôi thì buột miệng: “hồng nhan đa truân” vì cái nét đẹp của con Thắm chứa nhiều u uẩn quá. Người lớn nói thế chứ còn tôi thì chẳng biết gì, chỉ thích nhìn cái dáng tiên ông bên cội mai già của thầy Giác Huyền và thích vô cùng nét đẹp dịu dàng của chị Thắm. Lẽ ra trời sinh chị Thắm bên xóm Chùa của tôi mới đúng, tai ác sao chị lại sinh ra và lớn lên ngay tại bến sông quá lắm eo sèo. Chính vì thế, chị thích lên chùa. Có khi chị thơ thẩn mãi ở vườn Chùa như thể chẳng muốn về bên bến sông nhộn nhịp. Chị Thắm và mẹ tôi rất ngưỡng vọng Hoà thượng Thích Giác Diệu, vị sư trụ trì lâu niên ở cái ngôi chùa cổ tựa lưng núi nhìn ra cái bến sông này. Thầy Giác Diệu tu luyện lâu đời ở đây và đã độ được rất nhiều đệ tử tiếp nối truyền thống chân tu xây dựng ngôi chùa. Khoảng khi tôi vừa tuổi chín, mười thì thầy đã đi về cõi Phật. Trong tâm khảm tôi chỉ vẹn nguyên hình ảnh thầy Giác Huyền - một đệ tử khá đặc biệt cuả thầy Giác Diệu. Và qua lời kể của bà, của mẹ tôi, tôi nghĩ có lẽ thầy Giác Diệu cũng chẳng khác với thầy Giác Huyền là mấy. Cũng nhẹ nhàng thanh thoát như một tiên ông thoắt ẩn thoát hiện trong um tùm bóng cây của ngôi chùa cổ. Có khác chăng là cái u ẩn bên trong của từng người, cái trăn trở tư riêng giữa đạo đời hai nẻo.

Chị Thắm năng cùng mẹ lên chùa từ thời còn bé. Thầy Giác Diệu là bạn đồng môn với cha chị, vì thế, từ ngày người bạn thân không may qua đời sớm, thầy đã xem chị như một người con. Mỗi khi lên viếng chùa, chị luôn quấn quýt bên thầy với tất cả niềm kính thương vô hạn. Có phải căn duyên không mà cũng tại nơi đây, chị lại gặp một người - cái người mà chị ngỡ chừng như trời sinh ra là để cho mình ngay từ lần gặp đầu tiên.

Năm ấy, mùa đông, trời bão lũ triền miên. Một sáng thức dậy rảo quanh chùa, thầy Giác Diệu bỗng thấy có một chàng tráng niên đang quỳ trước điện Phật lâm râm khấn nguyện. Đợi cho giây phút khấn niệm thiêng liêng ấy đi qua, thầy nhẹ nhàng đến bên chàng trai, đỡ chàng đứng dậy:

            - Na mô A Di Đà Phật! Con là ai, ở đâu mà lưu lạc đến vùng này?

            - Bạch thầy! Xin thầy hãy rũ lòng thương cho con đến nương nhờ cửa Phật.

            - Tình cảnh của con thế nào? Vào đây, rồi con hãy kể thầy nghe xem.

            Thầy Giác Diệu ân cần cầm tay chàng trai dắt về phòng riêng. Thầy pha nước cho chàng uống, rồi nhẹ nhàng bảo:

            - Bây giờ, chỉ có ta và con, con hãy kể ta nghe tình cảnh của con ra sao mà quyết định đến nương nhờ cửa Phật?

            - Bạch thầy! Cha mẹ con, hai đứa em con đã bị nước lũ cuốn phăng đi cùng chiếc ghe bầu trôi về biển cả. Cho đến bây giờ, con vẫn không hiểu tại sao mình còn sống được…

 Trời vần vũ gió mưa, nước réo sôi quanh mạn thuyền như muốn nuốt chửng vào dòng cuốn của mình cả cái cơ ngơi nhỏ của một gia đình bé nhỏ. Cha mẹ chàng đã chống chọi để cố cứu đàn con, nhưng thuyền thì nhỏ, sóng lại ngày càng lớn lên cùng gió bão. Vì thế, cuối cùng cha đành buông tay. Cả nhà đã bị dòng nước cuốn trôi. Lúc ấy, chàng tráng niên đang đứng trên khoang thuyền phụ cha chống chọi với bão bùng, bỗng ầm ào một con sóng lớn ụp đến nuốt chửng cả gia đình. Anh bị sóng đánh dạt vào một thân cây cổ thụ già đang cuộn trôi trong mưa lũ. Cây cổ thụ sum suê lá cành đã cứu chàng trai thoát khỏi nanh vuốt của thuỷ thần trong gang tấc. Đến lúc tỉnh ra, anh như kẻ mất hồn, chẳng nói chẳng rằng, ba ngày đêm lặng câm như đá, đôi mắt cứ hướng về phía biển mênh mông.

Đói khát lang thang, sống nhờ trong vòng tay nhân ái của dân quanh vùng. Có người mách anh hãy tìm đến ngôi Chùa trên phía núi kia, nơi có cội mai già khẳng khiu cùng một người thầy chân tu khả kính. Chẳng còn cách nào khác hơn, chàng lê bước và lần tìm về phía núi. Vừa bước chân qua khỏi cổng Tam quan, lòng chàng bỗng lâng lâng, nhẹ nhàng như siêu thoát. Ai bảo Nát bàn xa xôi riêng lúc này chàng thấy hiển hiện giữa lòng mình cõi Nát bàn thanh tịnh, trong veo. Người chàng bỗng nhiên nhẹ nhõm, bước lên từng bậc tam cấp hướng về chánh điện, chàng cứ ngỡ như mình đang đi về phía Phật. Hình như là một cơ duyên tiền định: chú bé đơn côi không cha mẹ, người thân; không nơi nương tựa này phải là người đi theo nẻo Phật. Nhưng trên con đường đi về nẻo ấy, chàng bỗng gặp một cô gái làng đang nhởn nhơ bên cội mai già vào đúng cái ngày đông tai hoạ ấy. Chàng trai giật mình đánh rơi mất cảm giác siêu thoát khi vừa bước qua cổng Tam quan. Đúng, chàng đã gặp đúng người con gái bên bến sông với nét đẹp u huyền bên cội mai già đang rụng lá chờ xuân. Ngẫm cho kĩ thì… có cái gì trên đời này đến với một ai đó chỉ toàn là sự suông sẻ. Chàng bắt gặp ánh đạo vàng của Phật ngay sau những ngày hoạn nạn khi vừa bước qua cửa Tam quan, những tưởng Nát bàn đã sát kề bên. Nào ngờ trên dặm đường đến với đạo vàng chàng lại gặp một người con gái. Chao ôi ! Cái giây phút bất chợt mắt nhìn tận mắt, lòng chàng như rối bung lên. Ánh mắt ấy cứ nhìn chàng như một niềm an ủi. Ánh mắt bao dung như thể người con gái kia đã hiểu đến tận cùng nỗi đau mất mát của chàng. Chàng vội vã như trốn chạy, dời mắt khỏi cội mai già xăm xăm băng nhanh về chánh điện nguyện cầu….

Sư Giác Diệu nhìn ngắm chàng trai rất lâu rồi nhẹ nhàng an ủi:

- Thầy chấp nhận cho con tá túc tại chùa trong một thời gian, nhưng chưa chấp nhận để con vội vàng thí phát quy y nương nhờ cửa Phật. Con còn trẻ, trôi dạt đến đây là do sự đẩy xô của hoàn cảnh éo le. Nhà chùa sẽ nuôi con và thầy coi con như một đứa con nuôi, để con có đủ thời gian bình tĩnh nghĩ suy về quyết định của cuộc đời mình. Thầy không ép buộc con. Phải có thời gian để con tự hỏi lại lòng mình trước đã. Đến với Phật phải bằng chính lòng thành, không nên chọn đường tu trong trói buộc bởi sự đẩy xô của hoàn cảnh!

Chàng chắp tay cung kính lạy tạ thầy Giác Diệu. Và chính ánh mắt độ lượng, nhân từ của bậc chân tu đã chinh phục lòng chàng. Chàng muốn quên đi ánh mắt người con gái bên gốc mai vừa mới gặp. Thôi thì… xem như một lần hạnh ngộ do cơ duyên đưa đẩy, đừng nghĩ suy nhiều, đạo đời hai nẻo. Phải chọn và hãy tự mình chọn lấy, hỡi tâm hồn tội lỗi của chính ta.

Tự đấu tranh dằn vặt với chính mình, chàng cảm thấy hình như mình đã dần dần chiến thắng. Xưa nay, lục dục, thất tình của cõi đời là nguyên nhân nỗi khổ. Hãy lánh xa nỗi đau trần thế bởi đời là một bể khổ trầm luân. Lặn hụp làm chi giữa cõi hồng trần. “Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi!”.  Đó chính là lời răn của Thích Ca Phật tổ.

Hơn một tháng trôi qua… lặng lẽ sống trong chay tịnh khổ hạnh của Phật giới, chàng những tưởng sẽ sớm quên ánh mắt người con gái ấy. Nào ngờ… giữa lúc lòng  tạm nguôi ngoai lại là lúc Sư phụ giao cho chàng tuốt lá cội mai già để trổ hoa kịp tết. Trời ơi! Cứ như là thầy đọc được mọi ý nghĩ trong lòng mình mà cố tình thử thách. Phải mà, hơn một tháng qua chàng đã lòng dặn lòng phải cố quên cái phút giây hạnh ngộ buổi sáng tinh mơ hôm ấy. Vì thế, chàng không bao giờ dám bén mảng đến bên cội mai già và thầm mong người con gái kia đừng bao giờ đến nữa. Vậy mà… giờ đây, Sư phụ buột chàng phải đến cái nơi mà chàng đang sợ đến. Nhưng biết làm sao! Âu cũng là một lần thử thách, sẽ cố vượt qua thôi! Lòng tự nhủ lòng, chàng nhẹ nhàng leo lên ngọn mai già đưa tay tuốt những chiếc lá cuối cùng vào cuối mùa đông mai đang rụng lá. Lòng chàng cứ thầm khấn niệm Na mô để Đức Phật từ bi giúp chàng gạt phăng mọi ý nghĩ vương vít. Cội mai già đã cuối đông nên cũng chẳng còn bao nhiêu lá, chàng nhẹ nhàng leo xuống sau khi đã tuốt xong chiếc lá cuối cùng. Chàng vội vã bê giỏ lá về phía sau chùa như cố tình lánh nhanh ra khỏi cái nơi lòng chàng đang lo sợ. Vậy là xong, là đã chiến thắng! Không hiểu thầy có đọc được những dằn vặt khổ tâm trong lòng mình lần nữa hay không? Đổ giỏ lá xong phía sau chùa, chàng đến bên giếng nước rửa tay rồi quay lại phòng thầy để chờ xem thầy còn dạy thêm điều gì nữa. Vừa đến bậc thềm bước lên phòng thầy, chàng dã nghe tiếng một người con gái:

- Bạch thầy! Cái người đàn ông mới đến chùa mình là ai vậy? Sao ở đã lâu mà chưa thí phát quy y?

- Đó là Hiếu - một chàng trai mồ côi sau cơn lũ vừa qua đến xin nương nhờ cửa Phật. Nhưng thầy chưa đồng ý cho xuống tóc bởi sợ đó chỉ là ý nguyện trong nỗi bức xúc thân phận chính mình.

- Na mô A Di Đà Phật!

Đúng là tiếng người con gái ấy. Chàng vội vã quay bước khỏi phòng thầy như cố tình trốn chạy. Nhưng mãi đến lúc đã về phòng riêng ngã phịch tấm thân trên chiếc giường riêng, chàng vẫn còn nghe âm vang trong đầu mình giọng nói thanh tao của người con gái. Té ra, nàng không phải là khách thập phương đến viếng chùa mà là một đạo hữu gần gũi của Sư Gíác Diệu! Sợ bị đắm chìm trong suy tư trần thế, chàng vội quờ tay lấy quyển Kinh trên đầu giường rồi đọc to thành tiếng.

- Thắm này! Số phận chàng trai ấy thật đáng thương. Ta không muốn vì cảm ơn nghĩa của chùa trong cơn hoạn nạn mà chàng trai kia phải buộc lòng mình thí phát quy y.

Chị Thắm nhìn thầy với tất cả niềm tin tưởng. Từ trong lồng ngực non tơ của cô gái đôi mươi vô tình thoát ra một tiếng thở phào. Một tháng qua, kể từ cái giây phút chạm mắt chàng trai bên cội mai già, chị đã thấy lòng mình bỗng nhiên xao động. Ôi! Ánh mắt cương nghị mà chứa chất ngập đầy trong ấy một nỗi đau buồn, cho dù hôm ấy, chị chưa hề biết chàng đến đây để ước nguyện điều gì. Vậy là chàng không tự đến để quy y thành con nhà Phật mà chỉ là một sự dun rủi tình cờ của dòng nước lũ. Chị Thắm len lén nhìn thầy hỏi như dò xét:

- Bạch thầy! Vậy thầy định bảo bọc chàng trai ấy như thế nào trong thời gian đến?

- Nghĩ cũng khó tính đây. Ta định nhờ con…

- Thầy nhờ con điều gì ạ? Con thì có thể giúp được gì?

Thầy Giác Diệu nhìn chị tươi cười:

- Chính con chứ không phải là ta, mới giúp chàng có thể bình tâm lại để định đoạt cuộc đời mình. Ta muốn con làm thân với chàng trai và động viên chàng đi học. Ta sẽ nuôi cho chàng trai ấy ăn học để thành tài. Nhìn tướng mạo của người này, ta nghĩ… tài hoa sẽ phát tiết nếu có điều kiện học hành.

- Nhưng nếu lòng chàng đã quyết!

- Nếu lòng chàng đã quyết chí quy y thì… lúc ấy, thầy trò ta sẽ tính tiếp. Bây giờ con hãy nghe ta.

- Nhưng…

- Ta hiểu… Con hãy yên tâm, ta sẽ gọi chàng trai ấy đến phòng này để cùng trò chuyện.

Như là một mệnh lệnh, chú tiểu nhỏ đầu còn để chỏm vâng lời Sư phụ lập tức đến phòng tìm Hiếu. Khi chú tiểu đến, Hiếu vẫn đang còn nằm trên giường đọc to Kinh sám hối. Nghe Sư phụ gọi, Hiếu nửa vui nửa sợ. Vui vì có lẽ thầy chấp nhận cho mình thí phát và sợ là sợ cái chuyện tuốt lá mai lúc nảy. Hiếu càng bối rối hơn khi đến cửa phòng thầy thì người con gái kia vẫn còn ngồi nguyên đấy. Một sự thử thách nữa chăng ! Hãy bình tĩnh. Lòng dặn lòng bình tĩnh, song trái tim chàng trai lại như loạn nhịp.

- Bạch thầy ! Thầy cho gọi con?

- Đúng vậy, con ngồi xuống đây nghe ta bảo.

Sư Giác Diệu ra hiệu cho Hiếu ngồi xuống chiếc ghế trống đối diện với chị Thắm. Đôi mắt chàng trai không dám nhìn vào mắt người con gái, lòng cứ nhủ Na mô để trấn an tư tưởng. Trong khi đó, chị Thắm nhìn anh với ánh mắt dịu dàng như một lời động viên gửi gắm. Một chặp, vị Sư già lên tiếng:

- Hiếu này, ta biết con rất mong sự đồng ý của thầy cho con xin xuống tóc. Nhưng thầy nghĩ, tuổi con còn trẻ, chớ có vội vàng. Bây giờ, ta muốn con nhận cô gái này là bạn để ta gửi cho con theo học hết chương trình cấp ba rồi hãy tính chuyện về sau. Có muốn tu cũng cần phải học đã.

- Nhưng thưa thầy, sau khi quy y vẫn có thể đi học  được mà.

- Ta biết, nhưng với con, ta không muốn thế. Chuyện tu hành là chuyện đường dài, trước mắt con hãy nghe ta, tập trung lo sự học. Ta tin, người bạn gái này sẽ giúp con được nhiều điều.

- Con xin đội ơn Sư phụ, từ bây giờ, thể xác và tinh thần con đã thuộc về nhà chùa, xin Sư phụ cứ chỉ bảo, con sẽ vâng lời.

- Vậy thì các con hãy ra gốc mai già để tâm sự làm quen với nhau đi. Tình bạn đẹp rất cần cho sự học, chắc các con cũng hiểu.

Cứ như là một sự tương đồng, cả hai người đều đồng thanh:

- Dạ, tạ ơn Sư phụ.

Họ chào thầy Giác Diệu. Và chị Thắm chủ động đưa Hiếu ra mé hiên chùa, nơi cây mai già đang trơ cành chờ đón tết. Cả hai đầy tâm trạng nhưng cũng chưa ai nói với ai lời nào. Khi đã ngồi yên vào hai chiếc ghế đá đặt dưới gốc mai, chị Thắm mới mạnh dạn nhìn chàng trai:

- Em thành thật chia buồn cùng anh về chuyện hoạn nạn của gia đình. Bây giờ, anh hãy cứ bày tỏ suy nghĩ của mình về chuyện đi học của anh theo ý thầy Giác Diệu!

Hiếu ngước lên nhìn vào khuôn mặt đang ửng hồng của chị Thắm. Chao ôi! Đôi mắt ám ảnh này đã từng làm khổ ta bao đêm nay đến bây giờ ta đã lòng dặn lòng quên đi mà sao cứ mỗi lần nhìn vào là mỗi lần ta bị ánh mắt kia như thu mất cả hồn. Trời ơi! Sao lại éo le đến thế này, ta muốn lánh em thì vẫn cứ phải gặp em; ta muốn tránh xa cội mai già, bây giờ lại phải ngồi ngay dưới gốc mai già để tâm sự cùng em! Phải chăng trời đất xui ta đến ngôi chùa này là để gặp em chứ không phải để trở thành kẻ chân tu thoát tục! Nghĩ đến đây, Hiếu thấy mình tự nhiên hơn đôi chút, anh trả lời chị Thắm mà mắt vẫn đăm đăm ở tận cõi mơ hồ:

- Mình thành thật cảm ơn bạn! Mình tên Hiếu, chắc Sư phụ đã nói…. Còn đằng ấy? Em tên gì vậy?

- Là Thắm, nhà bên cạnh bến sông gần đây, lúc rảnh rổi, Hiếu cứ tự nhiên ghé chơi. Bây giờ anh trả lời chuyện đi học đi, Sư phụ đang chờ kết quả bàn bạc của chúng ta.

- Được Sư phụ bảo bọc trong hoàn cảnh này đã là một đại phúc với tôi. Bây giờ, ý Sư phụ thế nào, tôi cũng nguyện theo lời Sư phụ.

- Vậy là tốt rồi, từ bây giờ, xem như chúng ta đã là bạn học của nhau. Mình tin thầy Giác Diệu sẽ xin được cho Hiếu vào học. Mà năm nay, Hiếu đang học lớp mấy rồi vậy?

- Thú thật, mình đã học xong lớp 11 từ năm ngoái, nhưng cuối năm đó, gia đình  lâm vào hoàn cảnh khó khăn nên mình đành nghỉ học để phụ cùng cha mẹ nuôi đàn em nhỏ. Mình sợ sẽ học không giỏi, phụ lòng mong đợi của thầy và của Thắm.

- Thì anh chỉ tiếp tục học lại lớp 11 cùng em để ôn lại kiến thức đã học thôi mà. Anh yên tâm đi, sự cố gắng của anh cùng với sự giúp đỡ của em và cái thanh tịnh của chùa chiền sẽ giúp anh vượt khó khăn trong việc học.

- Cảm ơn Thắm rất nhiều, ơn nghĩa này chắc muôn đời mình sẽ không bao giờ quên được.

- Hiếu đừng nghĩ thế mà đâm ra tự ti trong vịêc học, không tốt đâu. Thôi, ta về phòng Sư phụ đi.

Cả hai cùng rời khỏi ghế đá và lặng lẽ sóng bước về phòng riêng sư Giác Diệu…

Từ đó, Hiếu và chị Thắm trở thành đôi bạn thân của nhau. Họ cùng động viên nhau trong học tập. Chẳng bao lâu sức học của Hiếu đã vượt xa bạn bè cùng lớp. Thầy Giác Diệu rất vui mừng và thầm nhủ lòng: mình đã đoán không nhầm… Thằng bé có khả năng thành một nhân tài.

Trong những tháng năm cận kề ấy, cả hai cùng quý mến nhau, hay nói đúng hơn, là họ đã cùng nhau tự đào sâu chôn chặt tình yêu và đối xử với nhau trước mặt mọi người chỉ như là tình bạn thân thiết. Con đường tu vẫn đang vẫy gọi Hiếu. Chàng trai vẫn ước mơ mình được theo chân thầy để trở thành một bậc chân tu, cho dù mỗi lần nghĩ đến việc đã thí phát quy y thì không còn cơ hội để gần gũi Thắm, chàng thấy lòng bỗng dưng trống vắng đến não nùng. Còn chị Thắm thì lại càng khổ sở hơn vì phải dấu kín trong lòng bao ước mơ, dự định. Chị yêu Hiếu đến cơ chừng như trên đời này chỉ có một người đàn ông là Hiếu. Tình yêu đã làm choáng váng chị ngay lần gặp đầu tiên bên cội mai già. Giờ thì… theo năm tháng gần gũi, nó ngày càng lớn lên trong trái tim người thiếu nữ. Nhưng nó bị kìm giữ lại, bị đè nén trong ánh mắt nhân từ của sư Giác Diệu và trong bao nhiêu những ràng buộc khác trên đời. Thấm thoát năm học cuối cấp cũng đã đến. Họ cùng chuẩn bị cho kỳ thi vào đại học. Và kết quả: Hiếu đã đỗ vào đại học ngành Văn trong khi đó chị Thắm lại không đỗ được vào đại học. Chị buồn đến không còn thiết gì trên đời này nữa, cho dù chị thừa biết sức học của mình không thể sánh với Hiếu. Nghĩ đến việc phải chia tay Hiếu, chị càng thêm buồn tủi. Bao nhiêu đè nén trong lòng bấy lâu nay càng khiến chị nhận ra sự vô nghĩa của cuộc đời này. Tại sao cái mình muốn lại không dám vượt qua, vươn đến ! Mà thực ra có đến được với nhau cũng đâu phải là tội lỗi. Nhưng nếu, chỉ riêng chị yêu một cách đơn phương khi nói ra Hiếu từ chối thì chị còn khổ biết dường nào! Không, chị quả quyết không bao giờ là một tình đơn phương vì đọc trong cử chỉ, thái độ và ánh mắt Hiếu, chị thừa biết Hiếu cũng đã yêu mình từ lâu lắm. Vậy thì tại sao chẳng ai nói được nên lời? Sư phụ cũng không hề cấm đoán kia mà vì dù sao Hiếu vẫn chỉ là một người mộ đạo bình thường chưa hề xuất gia hành đạo! Hình như có một màn sương vô hình giữa hai nẻo đạo - đời ngăn trở hai người trong một hoàn cảnh mà chẳng ai dám nói cùng ai. Ngày Hiếu từ biệt thầy vào đại học cũng là ngày chị Thắm trùm chăn nằm khóc đến lạnh cả bến sông. Vậy là mình thật sự xa chàng rồi đó sao! Chị chỉ còn biết tự trách mình quá e dè để chưa một lần nói lên tiếng tình yêu thật sự. Nhưng chuyện tỏ tình phải là của Hiếu chứ? Đành là thế! Nhưng Hiếu lại là một chàng trai đang phân vân giữa hai nẻo đạo - đời! Và hẳn nhiên, cả chị Thắm cũng hiểu rằng, chàng nghiêng về phía đạo hơn vì công đức dưỡng nuôi, bảo bọc của sư Giác Diệu. Hay là ta hi sinh để cho chàng được trọn đường tu? Nhưng thực ra khi đã yêu thì dù chàng đã khoác áo cà sa, ta vẫn không thể giết chết được tình yêu ấy. Bộ áo nâu sòng kia đâu che nổi nhịp đập rộn ràng của trái tim trai trẻ đang yêu! Nhưng giờ thì tất cả đã trở nên vợi xa, chàng không thể từ bỏ con đường học vấn trong niềm tin yêu của sư Giác Diệu. Nghĩa là, Thắm phải thực sự lìa xa Hiếu. Và không biết rồi tình xưa trôi dạt về đâu? Đang trở trăn trong nỗi giày vò rối như một mớ bòng bong, thì Hiếu đến. Nhìn gương mặt xanh xao của Thắm, hình như Hiếu đã hiểu ra tất cả. Chàng nhẹ nhàng đến bên Thắm nói như an ủi:

- Anh rất hiểu nỗi buồn của Thắm, nhưng… mong Thắm đừng quá buồn phiền. Hãy cố vượt lên mình và luôn nghĩ rằng, dù ở bất kỳ nơi đâu, anh vẫn không bao giờ quên được những ngày đôi ta chung sống nơi này. Anh sẽ thường xuyên trở về đây thăm thầy và Thắm.

Thắm nhìn Hiếu, tiếng nói mỏng manh như hơi gió thoảng:

- Em rất mừng cho anh, thầm mong anh thành đạt trên con đường đi tới. Còn em, có lẽ, bến sông này sẽ muôn đời trói chặt em lại nơi đây. Anh hãy về để chuẩn bị mai sớm lên đường. Báo giúp với Sư phụ rằng em đang ốm chưa lên thăm Sư phụ được.

Hiếu nhẹ nhàng cầm lấy bàn tay xanh xao của chị Thắm. Đây là lần đầu tiên mà có lẽ cũng là lần cuối cùng, Hiếu dám nắm trong tay mình bàn tay bé nhỏ của Thắm. Dường như cũng cảm nhận được điều ấy, Thắm để yên tay mình trong tay Hiếu. Chị nhắm mắt lại để cố giấu nước mắt đang chực trào ra. Hiếu buông hờ tay chị ra và vội vàng nói như trốn chạy:

- Thôi! Anh về đây, kẻo Sư phụ đợi. Ngày mai anh đi rồi, vì niềm vui của anh mong em sớm lành bệnh. Lúc nào anh cũng nhớ về em.

Thắm mở mắt nhìn Hiếu như cố nhốt hết hình ảnh anh lần cuối cùng:

- Anh yên tâm! Em không sao đâu, chúc anh thành đạt. Tạm biệt…

Thắm nhắm mắt lại để cố không cho mình được khóc. Hiếu cũng vội vã ra về như để trốn chạy một cảm xúc là lạ đang trào dâng nghèn nghẹn trong lòng. Vậy là mình đã thật sự mất chàng rồi chăng! Nhắm mắt lại để cố lắng nghe những bước chân cuối cùng của Hiếu, chị Thắm không còn kìm giữ được lòng mình. Chị trùm kín chăn và khóc vụng một mình để chẳng ai hề hay biết. Ngoài bến sông, chiều đang xuống, lại rộn ràng mua bán, huyên náo, ồn ào, chỉ riêng chị, lòng tịnh không cơ hồ như chẳng còn nhận ra cảm giác.

Trước khi lên đường, Hiếu đã cố thuyết phục thầy cho mình được quy y trước khi vào trường đại học. Sư Giác Diệu, nhìn chàng:

- Tất cả còn đang ở phía trước. Con hãy lo học hành cho tốt, chuyện quy y chưa phải là đã muộn. Nếu từ giờ phút này con đã phát tâm  theo Phật thì đã xem như tự quy y lấy chính lòng mình. Phật không có ở Chùa mà ở chính ngay trong tâm mình vậy.

- Bạch Thầy, Thắm đang lâm bệnh, chị ấy nhờ con bạch lại cùng thầy là chưa thể lên chùa thăm thầy và tiễn con đi học được. Hình như Thắm rất thất vọng và buồn về chuyện thi hỏng của mình.

- A Di đà Phật! Đó là nỗi buồn tất yếu như chân lý khi con người không được toại nguyện chính ước mơ cháy bỏng của mình. Ngoài chuyện buồn thi hỏng, Thắm có nói gì với con trước lúc chia tay không ?

- Bạch thầy! Thắm không nói gì, chỉ chúc con học hành thành công. Và…

- Thắm buồn lắm chứ gì? Ta hiểu, kề cận nhau và quý mến nhau như thế thì chia tay nhau, buồn là chuyện hiển nhiên. Con nhớ siêng viết thư về động viên, an ủi Thắm.

- Con xin vâng lời thầy chỉ dạy.

Sáng hôm sau, có một chàng thanh niên khăn gói lên đường nhập học mà lòng nặng trĩu buồn thương. Đường tu cũng chưa thành. Đường tình đã mở vẫn còn nhiều trái ngang vướng mắc. Anh tự mâu thuẫn với chính anh. Bước chân lên đò rời bến sông quê mà lòng chàng ngổn ngang trăm mối. Chàng chờ đợi một người tiễn đưa nhưng mãi giờ phút cuối cùng khi đò rời bến, nhìn vào nhà Thắm chàng vẫn thấy lặng im. Hiếu đâu biết rằng, ngay lúc chàng đến bến sông, Thắm đã len lén nhìn chàng lần cuối cùng rồi chạy bay lên chùa như ma đuổi. Giờ thì Thắm đang ngồi dưới tượng Quan Âm lộ thiên để lâm râm khấn nguyện: Na mô cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm bồ tát! Cô muốn thét lên để giải toả bao uất ức trong lòng nhưng rồi trước Phật đài, Thắm chỉ lặng im ngồi khóc. Nước mắt  tuôn như mưa hoà vào câu Na mô ai nghe được cũng điếng tê trong dạ. Ngang trái thay cho mối tình đầu. Sống mõi mòn trong nhớ thương, Thắm chỉ còn biết chờ mong những cánh thư Hiếu gửi về từ trường đại học. Những bức thư đầy ắp yêu thương nhưng mông lung tình cảm. Càng cắt nghĩa, Thắm càng rối mù trước lời lẽ của Hiếu trong thư. Phải mà, bản thân Hiếu đang đứng giữa hai ngả đường mà chỉ được chọn một trong hai để mà đi, hỏi làm sao chàng có thể nói rõ lòng mình với người con gái ấy. Nhưng nói cố quên để quyết chí tu hành thì Hiếu cũng đã bao lần định chẳng viết thư mà rồi đêm nào hình ảnh Thắm cũng hiện về buộc chàng phải viết. Không thể chịu đựng nổi tình cảm mơ hồ của Hiếu, Thắm ngày càng đi dần về ngõ cụt  Chờ mãi đến cuối năm mà cũng chẳng có trường nào gọi chị nhập học. Mẹ  chị lập tức quát như ra lệnh:

- Con gái quê, học chi nhiều. Hãy có chồng. Có chồng là hết ước mơ, hết buồn thương vô cớ.

Từ đó, tối nào mẹ chị cũng đón chàng trai xóm Chợ bên kia sông sang chơi như cố tình để cho con gái mình hiểu ý. Mỗi lần như thế, Thắm vội vã chạy lên chùa. Gặp lúc Sư phụ đang hành lễ, chị chỉ còn biết ngồi im dưới gốc mai già mà nghe ngọn gió cô đơn thở dài trên tàn lá. Sự lánh mặt ấy của chị càng khiến mẹ chị tức tối trong lòng. Bà đe doạ, vỗ về đủ kiểu, Thắm vẫn kiên quyết không thể yêu cái người mà chị chưa hề một lần tiếp chuyện. Mẹ chị thì kiên quyết sẽ cho phía nhà trai đi lễ đúng vào chiều 30 tết. Bà nghĩ rằng chỉ vào dịp này mới có điều kiện để hai đứa trẻ gần nhau. Hoảng loạn, Thắm lên chùa nhờ Sư Giác Diệu khuyên ngăn mẹ. Sư nhìn chị với đôi mắt ắp đầy tình thương yêu nhưng chỉ lặng lẽ thở dài:

- Ta đã nguyện lánh xa trần thế để nương thân vào chốn chùa chiền. Giờ con nhờ ta can thiệp vào chuyện ái tình trần tục thì quả là khó vô cùng cho kẻ tu hành. Ta thương con như con ruột, nhưng trong chuyện này, con hãy thông cảm cho ta.

Những lời nói chí tình chí lý của Sư Giác Diệu khiến Thắm càng rối bời tâm trí. Chị lủi thủi trở về nhà. Và ngay lúc họ nhà trai đến, chị lặng lẽ mang theo những bức thư của Hiếu lẻn ra bến sông. Chị trầm mình dưới bến sông lạnh ngay chiều Ba mươi tết sau khi đã khóc khô nước mắt lúc ngồi bên bờ sông đọc lại lần cuối những lá thư của người mình yêu mến. Tàn một đời hoa. Nghe tin, đến Sư Giác Diệu cũng không thể ngờ. Dường như quên mất cái dáng khoan thai hàng ngày, Sư vội lao ra bến sông, miệng cứ khấn nguyện Na mô. Và khi tận mắt nhìn gương mặt nhợt xanh của Thắm, Sư Giác Diệu đã oà khóc như quên mất mình là một kẻ chân tu. Dân làng tôi, mãi đến bây giờ, mới là lần đầu tiên nhìn vị Sư già đáng kính khóc than trước cái chết của người thân. Hình như Sư đang ân hận vì sự nhu nhược của chính mình khi từ chối khuyên can theo yêu cầu của Thắm lúc ban chiều. Người mẹ tội lỗi chỉ biết chết lặng trong lòng… Và từ đó bà trở thành một người đàn bà điên, chiều nào cũng ngồi bên bến sông nhìn nước trôi và khóc.

Tin dữ đến với Hiếu khi chàng đang tranh thủ những ngày nghỉ tết xin sư phụ được về quê tìm lại người thân. Đoạn trường thay cho cuộc đời. Cơn lũ dữ đã cướp đi của chàng tất cả những người thân yêu, rồi ném chàng lên cái bến sông bên nhà Thắm để tiếp tục vui sống. Vậy mà giờ đây, người thân mến cuối cùng giữa cuộc đời cũng đã ra đi. Phật dạy: Đời là bể khổ. Trầm luân thay cho kiếp con người. Sư Giác Diệu hiểu hết nỗi đau đớn tột cùng của Hiếu. Ngay buổi chiều khi Hiếu trở về chùa, Sư phụ đã dẫn chàng ra mộ Thắm. Cả hai thầy trò chỉ lặng im ngồi khóc. Mộ Thắm được Sư phụ trang trọng an táng bên cạnh gốc mai già mà dân làng thường ví: Thắm đẹp như hoa mai bên ngôi chùa cổ. Ba ngày đêm liền sau đó, Hiếu không còn thiết đến chuyện trở về trường. Anh quẩn quanh mãi bên mộ chị Thắm. Đến ngày thứ ba, như ngộ ra tất cả, anh vội vã trở về phòng riêng Sư phụ và bày tỏ nguyện vọng da diết của mình: xin được thí phát quy y. Đến nước này, giữa lúc này thì Sư Giác Diệu không còn lý do từ chối. Ông thương Hiếu và như để giúp Hiếu nguôi ngoai nỗi đau tiếp tục sự nghiệp học hành, ngay nửa đêm hôm ấy, Sư quyết định cho Hiếu xuống tóc đi tu để  sau tết, chàng trở lại trường tiếp tục việc học hành đang dang dở.

Tốt nghiệp đại học trở về Chùa, Hiếu (bây giờ thì pháp danh của chàng đã là Giác Huyền) chí nguyện lao vào nghiên cứu kinh sách nhà Phật với khát vọng đọc cho ra chân lý của những lời Phật dạy. Và bây giờ, khi đã trở thành một nhà thơ, một vị đại đức đáng kính trong mắt đạo hữu, Sư Giác Huyền vẫn thường thơ thẩn dưới gốc cội mai già bên ngôi mộ nhỏ để mà hoài niệm một quá khứ đau. Người ta bảo, Sư Giác Huyền chính là hiện thân của Sư Giác Diệu sau khi vị Sư già chân tu về cõi Nát bàn.

Ai có biết đâu rằng, trong lòng nhà sư ấy, cứ mỗi độ đông về, lòng cứ khóc thầm khi đứng bên cội mai già trơ vơ cành chiều giáp tết…

Mai Bá Ấn
Số lần đọc: 1895
Ngày đăng: 21.09.2015
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Tiếng hát cô bé bán rong - Thiên Thanh Xanh
Mắt cũ - Trần Băng Khuê
Kha công tử - Thái Quốc Mưu
Những Bình Minh - Tru Sa
Mất tích - Vũ Dy
Những truyện ngắn Nguyễn Đức Tùng - Nguyễn Đức Tùng
Người lấy ma - Thái Quốc Mưu
Khói - Tru Sa
Đôi chim câu trên cây bàng - Trần Văn Bạn
Quả bong bóng lợn - Nguyễn Hồng Nhung
Cùng một tác giả
Hoa mai chùa cổ (truyện ngắn)