Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.384 tác phẩm
2.747 tác giả
782
116.616.859
 
Hồ sơ một vết thương
Võ Ðắc Danh

Hồi con gái nó đẹp lắm!

Ông già kết thúc câu chuyện bằng giọng buồn buồn, hớp một ngụm trà, ông đưa mắt nhìn về phía vườn cam.

-          Ngày mai tôi sẽ lên Sở Thương Binh đề nghị làm lại hồ sơ cho nó. Vết thương như vậy mà xếp hạng bốn trên bốn thì thiệt thòi cho con nhỏ.

 

Ông lại im lặng.Tôi chợt nhớ lại lời kể của chị Ba Phần hôm trước. Chị kể: Hồi năm 1968, chị đang nuôi chồng bị thương cột sống ở bệnh viện Cà Mau. Một hôm, bất ngờ chị thấy cảnh sát khiêng từ phòng mổ xuống trại điều dưỡng một tù bình Việt cộng bị còng cả hai chân, người đầy thương tích. Và chị hốt hoảng khi nhận ra, người con gái ấy chính là chị Bảy Lòng, bạn cùng xóm của chị ở Tân Lộc. Nhận mà không dám  hỏi han chăm sóc. Mẹ của chị Bảy nóng ruột vào liền bị chúng bắt giam.Từ đó thỉnh thoảng chị Phần lén lút gởi tiền, gởi thức ăn cho chị Bảy. Một lần chị Bảy được thay băng và rửa vết thương, chị Phần trộm nhìn rồi bỏ ra ngoài chỗ vắng ngồi khóc.Chị Bảy bị thương khắp cả người, nặng nhất là ngực dài xuống bàn chân, mất hết phần thịt ở hai bên đùi và vùng âm hộ…

 

Ông già đưa tôi về thực tại bằng giọng buồn buồn:

-          Tội nghiệp, hồi đi giám định nó còn con gái nên không dám cho bọn đàn ông xem vết thương chỗ ấy…

 

Tôi mời ông già điếu thuốc rồi từ giã ra về.

Thành phố Cà Mau chìm trong một buổi chiều nắng đẹp. Chiếc cầu mới cong mình đón từng tốp nữ sinh trong tà áo dài trắng muốt, phất phơ, cứ mỗi con gió lùa qua, các em vội vàng đưa tay giữ nhanh vạt áo, mặt đỏ bừng lên như có ai vừa nhìn trộm mình. Những cử chỉ hồn nhiên đó làm tôi chạnh lòng nhớ đến một vết thương…

 

Người kể chuyện cho tôi nghe hôm nay là đại tá quân đội Nguyễn Hoàng Chi, người quen thường gọi ông là ông Tư Mã, chủ tịch hội Cựu chiến binh tỉnh Cà Mau, nguyên chỉ huy phó chính trị Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Minh Hải.

 

Cuối năm 1967, Tư Mã được phân công về thị xã Cà Mau để tổ chức một đội nữ biệt động thành, một phương án tác chiến có tên gọi rất hấp dẫn là “chiến thuật nở hoa trong lòng địch”. Đặc trưng của chiến thuật này là” lấy yếu đánh mạnh, lấy ít đánh nhiều, độc lập tác chiến” và vũ khí chủ yếu là bom và mìn nổ chậm. Tiêu chuẩn của người chiến sĩ biệt động cũng rất khắt khe, ngoài lòng dũng cãm, gan lì, phong cách nhanh nhạy, táo bạo, trí thông minh để xử lý nhanh các tình huống… còn có một tiêu chuẩn khác cũng không thể thiếu được là sắc đẹp. Bởi vì, sừ quyến rũ của nhan sắc sẻ làm cho kẻ thù say mê mà quên cảnh giác.

 

Bảy Lòng là cô gái có đầy đủ các tiêu chuẩn ấy.

 

Giữa năm 1968, đánh trận đầu tiên, Tư Mã triển khai  cho hai chi đội gồm bốn người chở hai quả bom nổ chậm được chế tạo từ trái bom lép của giặc, mỗi trái từ năm trăm đến bảy trăm ki-lô-gam. Bằng phương pháp thủ công, bộ đội ta tháo một đầu bom, cài vào đó một kíp nổ và một linh kiện hẹn giờ nổ theo ý muốn. Mỗi trái bom được vận chuyển bằng một chiếc xuồng có trọng tải chừng vài ba tấn. Người ta dùng giây dù cột hai đầu trái bom treo phía dưới lườn xuồng, dòng sợi dây lên phía trên để khi đến điểm hẹn chỉ cần cắt dây là trái bom chìm xuống đáy sông tức khắc. Để nguỵ trang người ta chất những bao trấu và lúa lên xuồng sao cho lượng bao tương đương với trọng tải. Những lớp trấu để dưới, lớp lúa trên cùng, xuồng máy cứ chạy ung dung như người ta đang đi chà gạo hoặc bán lúa. Hôm ấy một ngày bình thường như mọi ngày trên sông nước Cà Mau. Cũng vẫn xuồng ghe tấp nập xuôi ngược trên sông, không có ai biết có hai quả bom dưới hai xuồng lúa đang từ từ lao vào thị xã. Một chiếc của anh Sáu Anh và chị Út Hà đi về phía căn cứ hải quân; một của chị Bảy Lòng và bé Trung đi về phía đoàn tàu chiến đang đậu dọc theo ngã ba chùa Bà Thiên Hậu để chuẩn bị cho cuộc hành quân.

 

Bé Trung mười ba tuổi ngồi dưới khoang tát nước làm nhiệm vụ cắt dây khi có lệnh, chị Bảy Lòng lái máy. Đến Giồng Kè, gần thị xã bỗng dưng tắt máy, chị Bảy giật hoài không được. Mấy tên cảnh sát chạy ca nô ngang qua, thấy chị đẹp gái nên chúng dừng lại chọc ghẹo, có một tên muốn lấy lòng người đẹp nên nhảy sang sửa máy, hắn giật thử mấy cái rồi théo nhíp lửa ra rửa xăng, chùi giấy nhám. Máy nổ hắn tán tỉnh lấy oai với đồng bọn. Chị Bảy cũng cười tình, xã giao vài câu rồi cho thuyền chạy tiếp. Xuồng cặp sát đoàn tàu, chị ra ám hiệu cho bé Trung cắt dây. Lúc này trời đang mưa. Một tên lính ngồi trên cabin nhìn xuống nói:” mưa lạnh qua em ơi! Lên đây úm với anh cho ấm”.  Chị Bảy nhìn lên cười đáp: “Hổng sao đâu anh, một chút nữa là ấm thôi!”. Chị cho xuồng lao đi, tên lính vẫy tay chào mà không hiểu chị muốn nói gì với hắn.

 

Mặt trời vừa lặn, xuồng ghe trên sông vừa vắng bóng.

 

Hai cột nước dựng lên cùng với hai tiếng nổ long trời lở đất.

 

Muời hai chiếc tàu chìm xuống đáy sông, một chiếc bị ném lên bờ. Sau lễ mừng công hai tháng, Tư Mã triển khai kế hoạch đánh vào kho đạn của ngụy quân bằng mìn nổ chậm. Khác với bom, mìn nổ chậm được chế bằng thuốc nổ TNT, mỗi trái khoảng nửa ký-lô-gam và định giờ nổ bằng sự tương ứng giữa lượng axít thấm qua một xấp giấy. Vì vậy mà cách tính đôi khi không chính xác, dễ xảy ra những trường hợp rủi ro.

 

Và rủi ro đã đến với chị Bảy Lòng.

 

Sáng hôm ấy, trong vai người đi đám giỗ chị đặt quả mìn dưới đáy giỏ xách rồi bỏ bô mấy chục trái quít và mấy ốp nhang. Chị đang ung dung đi trên đường phố, vừa tách ra khỏi dòng người để đi về hướng kho vũ khí thì bất thần mìn nổ…

 

Dấu ấn cuộc đời bắt đầu từ hôm tỉnh dậy, thấy mình nằm trong phòng mổ bện viện Cà Mau giữa bầy cảnh sát. Chị nhìn chúng rồi khẽ nhấc đầu lên nhìn xuống thân thể của mình. Chị lại ngất đi. Khi tỉnh lại lần sau, chị mới thực sự biết rằng, tất cả những gì kín đáo nhất, tuyệt vời nhất trên thân thể người con gái cùa chị giờ đây đã trở thành những vết thương. Năm ấy chị mới tròn hai mươi mốt tuổi.

 

Phẫu thuật xong, chúng còng chân chị rồi chuyển qua trại điều dưỡng. Suốt ba tháng nằm viện, chị phải đương đầu liên tục với những đòn tâm lý của bọn cán bộ chiêu hồi. Song, chị chỉ có một lời khai duy nhất: tên Nguyễn Thị Hà, mười bốn tuổi, mồ côi cha mẹ, trên đường đi bỗng dưng bị thương không biết lý do. Chúng đưa mẹ chị vào, chị không nhìn.

 

Sau khi lành bệnh, chúng giải chị qua Ty cảnh sát để tống giam, hỏi cung và tra điện, chị cũng chỉ có bao nhiêu lời khai đó. Cuối cùng chúng bỏ tù chị mười tám tháng.

 

Bốn tháng nằm viện, mười tám tháng tù, chị lên thêm hai tuổi, cái tuổi mà mọi người đang cống hiến và đang yêu.  Nhưng với chị, những vết sẹo thầm kín trong người đã gây ra sự tổn thương khủng khiếp đến tâm hồn và ý chí, ám ảnh cả tương lai, mặc dù nhìn dáng vẻ bề ngoài, chị vẫn còn là cô gái trẻ trung xinh đẹp.

 

Có một anh bộ đội địa phương đem lòng yêu chị, và chị cũng biết rằng mình đã yêu anh. Nhưng chị đã không thể cho ai thì cũng không thể nhận của ai. Và để suốt đời trốn tránh tình yêu, chị cố tạo cho mọi người một sự hiểu lầm về cá tính: cao ngạo, cáu gắt, cộc cằn, gây gổ với con trai… Nhưng nghiệt ngã thay, những lớp diễn ấy, theo thời gian nó đã trở thành tính cách của chị như người diễn viên suốt đời sống trọn với nhân vật của mình.

 

Người thứ hai kể lại với tôi câu chuyện trên đây là anh Sáu Sơn, tức nhà báo Đỗ Văn Nghiệp. Tháng bảy năm 1998, khi tôi còn làm biên tập cho tờ báo ảnh Đất Mũi, tôi có nhờ anh viết một bài cho số báo đặc biệt kỷ niệm ngày thương binh liệt sĩ. Đúng hẹn anh đưa cho tôi bài viết có tựa đề là Bản anh Hùng ca không âm thanh, kể về chị Bảy Lòng. Đọc bài viết của anh Sáu Sơn, tôi thấy chị Bảy bây giờ khổ quá, chị mở lớp học tình thương tại nhà để dạy chữ cho những đứa trẻ không có điều kiện đến trường, chị không ra giá học phí, phụ huynh muốn cho chị bao nhiêu tuỳ ý, ai không cho đồng nào cũng được. Ngoài ra chị ươm giá bán để kiếm sống, vậy mà chị xin một đứa con trai, nuôi nó từ lúc hai tuổi, năm nay nó đã là sinh viên đại học sư phạm Cần Thơ. Không có tiền nuôi con, chị đã cầm cái thẻ thương binh một triệu rưỡi, đóng lãnh một tháng một trăm hai chục ngàn đồng.

 

Anh Sáu Sơn vận động bạn bè xin cho chị Bảy được sáu trăm ngàn đồng, hôm mang tiền vô nhà cho chị, anh mời chị Út Vững, Phó Giám đốc Sở thương binh, chị Út Loan, Phó Chủ tịch Hội chữ thập đỏ, chị Nguyệt Hân, Chủ tịch Hội phụ nữ tỉnh cùng đi với mục đích nhờ các chị ấy xem lại vết thương để nâng bậc thương binh cho chị Bảy. Sau khi dẫn chị vào buồng xem vết thương, lúc bước ra chị nào cũng khóc.

 

Hơn hai năm sau khi đăng bài báo, một hôm, anh Sáu Sơn rủ tôi đi thăm chị Bảy. Chúng tôi đi xe honda đến Cầu số 3 rồi lội bộ theo bờ sông khoảng hơn một cây số thì đến nhà chị. Một gian nhà xiêu vẹo nằm trong vườn tạp, cỏ dại bao quanh. Cách nhà chị một con mương có một căn nhà gỗ bỏ hoang, ván phên bốn bề mục nát, trên cửa có tấm bảng nhà tình nghĩa do ngân sách tỉnh cấp năm 1992,thấy tôi định lấy máy ảnh ra chụp, anh Sáu Sơn giải thích, đó là nhà của bà Tư Thâu, bà mẹ Việt Nam anh hùng, mẹ của chị Bảy Lòng, bà có 4 người con ruột và một người con rể đã hy sinh. Nhà mục không có tiền sửa chữa, tuổi già không ai chăm sóc nên ông bà về Thới Bình sống với người con gái thứ ba, một cán bộ hưu trí. Chúng tôi bước sang nhà chị Bảy, chị đang hì hụi cắt rau muống dưới mương. Gọi là nhà theo cách gọi thông thường, thật ra đó chỉ là cái chòi khoảng bốn chục mét vuông được cất bằng nhiều loại cây tạp trong vườn. Tôi nhìn quanh không có món đồ nào đáng giá năm chục ngàn đồng. Hỏi ra mới biết, cái thẻ thương binh chị cầm hai năm rưỡi nay chưa chuộc được, còn chuyện nâng bậc, hồ sơ đã làm xong hai năm nay nhưng chưa có kết quả gì, có lần chị ra ngoài Sở, người ta nói chị được xếp loại 2/4 nhưng phải chờ trên Bộ ký mới xong. Chị Út Vững có nhã ý đưa chị vào sống ở Trung tâm bảo trợ xã hội, chị có đến đó xem, thấy cái cảnh mỗi người một cái giường tám tấc, không có chỗ cho chị làm bánh bò được mười ngàn, buổi chiều cắt rau muống được bốn ngàn nữa, nhờ vậy mà nuôi thằng nhỏ học đại học suốt bốn năm nay. Chị nói mấy năm trước chị dành dụm mua được bộ cột tràm để cất nhà, nhưng năm đầu tiên thằng Đẳng vào Đại học, phải bán đi, năm sau cầm cái thẻ thương binh, năm sau nữa bán vườn, giờ chỉ còn cái nền nhà trọi lõi. Suốt buổi nói chuyện hầu như chị chỉ kể chuyện thằng Đẳng, chị nói, hè có nó ở nhà vui lắm, buổi sáng ngủ dậy thì nó đã hấp xong thau bánh bò, buổi trưa đi bán về thì nó đã dọn sẵn mâm cơm. Nhiều lúc nghĩ cũng thấy tự hào, mình nghèo mà có con học đại học, vài tháng nữa là ra làm thầy giáo cấp III. Xứ này cũng có nhiều nhà giàu mà con cái họ có làm nên trò trống gì đâu… Cả hai buổi chiều liên tiếp ở nhà chị, mấy lần tôi cố gợi lại chuyện xưa nhưng chị chỉ trả lời qua loa rồi lại quay sang chuyện đứa con trai, tôi chợt hiểu nó đã trở thành lẽ sống duy nhất của chị… Ra về, đầu óc tôi miên man, căng thẳng, khi nghĩ về chị, cả cuộc đời con gái chị đã cống hiến cả sự sống còn cho đất nước. Vậy mà đã 25 năm đất nước thống nhất chị vẫn còn lận đận sống dưới mức nghèo khổ, lại còn chắt chiu nuôi cho xã hội một đứa con-một công dân trí thức. Bất giác tôi nhớ: Có lần đồng chí Đặng Thành Học- UỶ viên ban chấp hành trung ương Đảng- Bí thư thành uỷ Cà Mau nói rằng:”Từ đáy lòng chẳng có ai trong chúng ta không xốn xang, day dứt. Đâu thể kéo dài được nữa tình cảnh một bộ phận người có công với nước, nhà cửa còn rách rưới nghèo nàn. Nó đòi hỏi tất cả mọi người không phân biệt lương hiếu nghĩa bác ái, yêu mến bà mẹ Việt nam anh hùng, thương binh và gia đình liệt sĩ, gia đình có công mà sẵn sàng giúp đỡ, chăm sóc ân nhân dân tộc”. Xin được nhắc lại lời nói đầy tâm huyết này và rất mong tất cả chúng ta hãy xem đây là mệnh lệnh-mệnh lệnh từ trái tim mỗi con người…

Võ Ðắc Danh
Số lần đọc: 3760
Ngày đăng: 05.05.2004
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Cùng một tác giả
Mùa trái mắm (tạp văn)
Nhớ đồng (tạp văn)
Nồi cháo trắng (truyện ngắn)
Thư Sài Gòn (tạp văn)