Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.374 tác phẩm
2.747 tác giả
756
116.498.265
 
Duyên Tu-2
Trần Kiêm Ðoàn

 

- Thật là thú vị khi nghe Thầy giải thích một hình thức tâm linh, tôn giáo bằng lời lẽ “như thật” mà chỉ có những đầu óc quen lối lý luận Tây dương mới thường nói đến.  Nếu vậy, thì điều Thầy nghĩ có trái với nội dung kinh sách của nhà Phật mà Thầy đang theo không ạ?

            - Nếu ai cho trái thì đó là vì họ nghĩ trái.  Đức Phật đã nói rằng vạn pháp đều là Phật Pháp.  Cách suy nghĩ dẫu có trái với kinh điển cũng là Phật Pháp nhìn theo một lăng kính khác.  Cái đúng chẳng qua là một cách nhìn khác của cái sai mà thôi.

            Ba Gấm vừa cười vui, vừa ôm đầu nói lớn:

            - Ôi! Thầy ơi.  Nếu lỡ con vào chùa mà nhìn sai tượng Phật với một vị hộ pháp thần thông nào đó thì chắc là sẽ bị các thầy trụ trì cho ăn đòn liền…

            Khoác tay như để trấn an Ba Gấm, thầy Tiều nói bằng giọng phóng khoáng, thân mật:

            - Thí chủ Ba Gấm chớ lo.  Chính đức Phật đã liệu trước điều nầy nên ngài dặn dò:

"Nhược dĩ sắc kiến ngã, dĩ âm thanh cầu ngã. Thị nhân hành tà đạo, bất năng kiến Như Lai".

            Ba Gấm vui theo niềm vui của cả nhóm và dịch ngay ra bằng thơ:

- Ai đem sắc tuớng nhìn ta,

            Lấy âm thanh bảo Phật Đà là đây.

            Theo tà đạo chính người nầy,

            Làm sao thấy được bóng thầy Như Lai.

                        Có tiếng cười vui tán thưởng và tiếng vỗ tay bôm bốp.  Dưới ánh trăng khuya vằng vặc, cả nhóm Vườn Thuốc ngồi quanh thầy Tiều và Trí Hải, theo dõi câu chuyện giữa thầy Tiều và Ba Gấm trong im lặng.  Cùng trong nỗi nhớ Phạm Xảo, những người cùng nhóm Trí Hải có tấm lòng với đời, với đạo, với bạn, với mình còn bắt gặp niềm vui chung về một lối suy nghĩ không rời nếp cũ xa xưa; nhưng cũng đầy suy tư và khai phá vào những chân trời sáng tạo riêng mình.

                        Thiện Giả xích gần lại thầy Tiều, lên tiếng:

                        - Thưa Thầy, có phải vì không xem trọng việc xuất gia tu hành, trì trai, giữ giới nên mới có hiện tượng “đồ tể quăng dao thành Phật” không ạ?

                        Thầy Tiều không trả lời mà hỏi lại Thiện Giả:

            - Quý hữu có tin như vậy không?

            - Dạ không, tin làm sao được mà tin.  Thành Phật là một đại sự, đâu có dễ dàng như thế được.

            - Sao là dễ, sao là khó?

            - Đức Phật Thích Ca đã tu vô lượng kiếp mới đạt được kiếp sau cùng làm thân thái tử.  Sau đó xuất gia, đại ngộ thành Phật.

            - Thì người đồ tể kia cũng đã tu vô lượng kiếp và kiếp sau cùng phải qua nghiệp đồ tể.  Thái tử Tất Đạt Đa là thái tử đông cung bỏ ngôi đi tu và đi đến giác ngộ thành Phật; người đồ tể quăng dao để tu theo cách của mình và cũng giác ngộ thành Phật thì có gì khác nhau đâu.  Làm vua hay làm đồ tể cũng chỉ là cái nghiệp nhân sinh mà thôi.  Bỏ ngôi hay bỏ dao đồ tể để giải nghiệp và hành đạo, tuy hình thức khác nhau nhưng ý hướng thâm sâu cũng chỉ là một.

            Thiện Giả nhìn Ba Gấm mỉm cười, nói giễu:

            - Tỷ tỷ Ba Gấm với tóc mây, má hồng, xiêm áo đẹp đẽ thế kia mà cũng có thể là đang tu sao?

            Thầy Tiều nghiêm nét mặt, gật đầu:

            - Bất kỳ ai đang làm việc tốt là đang tu.

            Trăng sáng mênh mông.  Trong xóm đêm lại nổi lên tiếng mõ cầm canh đổi phiên.  Nhóm vườn thuốc vẫn chưa ai muốn chia tay về ngủ.  Thiện Giả nói với thầy Tiều:

- Đã qua ngày thứ 49, Phạm huynh hết làm thân “trung ấm” quanh quẩn với chúng ta rồi.  Phạm huynh vừa bước vào một kiếp khác. Thưa thầy, với cuộc đời của tướng quân Phạm Xảo, kẻ thường làm việc tốt cho đời như thế, thì sẽ được về đâu trong 6 nẽo luân hồi?

Thầy Tiều lắc đầu, trả lời:

- Nghiệp lực đưa Phạm hương linh về đâu thì về đó, làm sao biết được.

- Nghiệp lực là gì?

- Là tổng kết mọi việc làm của một người từ vô số kiếp.  Gồm cả việc thiện, việc  ác, tốt, xấu, hay, dở, sáng, tối, cao, thấp, công, tư… không một mảy may khuấp lấp.  Tất cả mọi việc làm lớn nhỏ, tự chúng tác động qua lại chi li và chính xác như phép tính toán cộng, trừ, nhân, chia để đưa ra kết quả sau cùng không sai một ly, không đi một mảy.  Đạo Phật gọi đó là nghiệp lực, đạo Chúa xem đó là sự phán xét cuối cùng của Thượng Đế và dân gian cho đó là lưới Trời, không ai thoát khỏi.

- Như thế thì con người cũng chỉ là một tên nô lệ buông tay, bất lực để cho nghiệp dẫn đi đâu thì đi hay sao, thưa Thầy?

- Nghiệp do mình tạo chứ có ai khiêng nghiệp đến để trên vai mình bắt gánh đâu. 

- Nếu thế thì con người có thể chuyển nghiệp được hay không?

- Nghiệp do thân, miệng, ý phát sinh ra.  Muốn chuyển nghiệp thì phải biết làm chủ hành động, lời nói và ý nghĩ.

- Bằng cách nào vậy, thưa Thầy?

- Hành động lương thiện và ngay thẳng;  nói lời chân thành và nhân ái;  nghĩ điều chính đáng và hướng thượng ấy là đang tự mình giải nghiệp, chuyển nghiệp ác sang nghiệp lành.

- Cuộc chuyển nghiệp đó bao giờ mới xong?

- Không bao giờ ngừng nghỉ.  Cứ tiếp tục duyên nghiệp trùng trùng cho đến khi dứt nghiệp.

- Làm sao dứt nghiệp?

- Đừng tạo nghiệp.

- Nhưng sống là tạo nghiệp mà.

- Cũng có nhiều lối sống.  Sống buông thả cho lòng ham muốn làm chủ thì nghiệp chướng chồng chất.  Sống đời trong sạch trong chánh niệm thì nghiệp chướng sẽ lui dần.  Sống trong giác ngộ thì nghiệp chướng sẽ được dứt sạch.

- Vậy, sống đời tu hành như Thầy thì nghiệp có còn tạo ra cho Thầy nữa không?

Ngửa cả hai bàn tay với nụ cười mở rộng, thầy Tiều hỏi lại như nói đùa:

- Này Thiện Giả, quý hữu có thấy tôi làm đúng như lớp áo cà sa tôi đang mặc, suy nghĩ trơn tru như chiếc đầu tròn và nói năng thích hợp như kẻ tu hành không?

- Dạ thưa thầy, hoàn toàn thích hợp.

Tỏ vẻ thích chí, thầy Tiều trả lời:

- Nếu như thế thì nghiệp chướng trên tôi đang nhẹ dần.

- Và khi nào thì hết nghiệp?

- Làm sao tôi biết được những nghiệp chướng do chính mình gây ra trong bao nhiêu đời kiếp trước.

- Thì tu hành là hết nghiệp.  Khi chết sẽ lên ngay chốn Niết Bàn.

- Không đơn giản thế đâu quý hữu ơi!  Như ngài Mục Kiền Liên là đại đệ tử của đức Phật có thần thông bậc nhất, thế mà vẫn bị bọn cướp hung hãn tầm thường đâm chém giết chết. 

Thiện Giả kêu lên:

- Ôi!  Đau quá! Tại sao lại có thể như thế được?  Tu hành một đời đạo cao, đức trọng thế kia mà vẫn bị đọa sao thầy?

- Nói “bị đọa” cũng đúng mà không đúng.  Ngài Mục Kiền Liên phải trả cho cái nghiệp báo vì sợ vợ mà bỏ đói cha mẹ giữa rừng sâu từ trong một kiếp trước xa xưa. 

- Nhưng ngài là bậc tu hành đắc đạo lại không chuyển nghiệp hết sao?

- Không mà có; có mà không.  Nghiệp là món nợ chung thân, không thừa trừ ai cả.  Tu hành nghiêm cẩn hay sống đời đức hạnh có thể giải hết nghiệp trong đời nầy.  Nhưng có những nghiệp quá nặng còn đeo đẳng chưa dứt sạch thì người mang nghiệp phải trả cho hết sạch, ít nhất cũng trả lần cuối trước khi hoàn toàn đoạn nghiệp.

Thiện Giả thắc mắc:

- Thế sao ông Mục Kiền Liên trong chuyện kể nhà Phật có thể nhìn thấy được hóa thân bà mẹ độc ác của mình đang ở địa ngục A Tỳ sau khi bà ấy chết mà lại không thấy được lũ cướp vây quanh?

- Đứng ở đỉnh núi cao thì nhìn thấy hết cảnh đồng bằng phía dưới nên cũng thấy được căn nhà riêng nhỏ bé của mình đang ở đâu.  Chúng ta không biết, không thấy Phạm huynh ở đâu vì chỉ có đôi mắt trần.  Muốn thấy thiên thâu phải có huệ nhãn.  Huệ nhãn là con mắt thật, mắt trần của tuệ giác.  Khi bị ác nghiệp bao vây thì tầm nhìn cũng bị bao vây bởi mây mờ của cảnh trần khi tạo nghiệp.  Sự bao vây của nghiệp báo có khi thoáng qua rồi đoạn diệt như trường hợp ngài Mục Kiền Liên; có khi kéo dài một đời như kẻ mù lòa, câm điếc từ khi lọt lòng mẹ; có khi kéo dài đời đời kiếp kiếp như hàng ngạ quỷ súc sanh… cho đến khi trả hết nghiệp.

- Làm sao để có huệ nhãn?

- Tu!

- Thì thầy cũng đang tu đó mà.

Nói như để chế nhạo chính mình, thầy Tiều trả lời Thiện Giả:

- Có lẽ cũng cần phải tu vài ba tiểu kiếp mới mong có huệ nhãn.

- Thế Thầy tu đã được bao lâu rồi ạ?

- Chừng năm chục năm.

- Một tiểu kiếp dài bao nhiêu năm?

- Mười sáu triệu năm.

- Đại kiếp thì dài bao lâu.

- Có khi là 20 có khi là 1000 tiểu kiếp.

Bày tỏ một sự thất vọng não nề về cái khung thời gian mà thầy Tiều vừa nói, Thiện Giả chỉ còn biết kêu lên:

- Chao ơi!

- Sao vậy?

- Chỉ cần nghe cũng đủ ngộp thở mất rồi!

- Vì kiếp người cho dẫu 100 năm thì vẫn chưa bằng nửa hạt cát trong sa mạc thời gian bao la vô cùng tận phải không?

- Dạ, quả đúng như thế Thầy ạ.

- Tại sao quý hữu lại không tự thắp sáng lên một niềm tin rằng, trong kiếp nầy quý hữu chỉ cần tu thêm một khắc nữa thôi là đủ vài tiểu kiếp mà quý hữu đã tu trong muôn vàn kiếp trước?

- Ồ, dạ. Hay lắm, hay lắm.  Tại sao ta lại không có quyền nghĩ về ta một cách tích cực như thế đã chứ.  Ôi, mẹ ơi!  Hạnh phúc quá.  Nếu con đã từng tu 32 triệu năm, đã trải qua vài tiểu kiếp làm việc tốt.  Với từng ấy thời gian, con đủ tự hào vươn lên như bất cứ ai.  Con cũng đang có chân tâm, có Phật tánh trong con như các sư ông, sư bác, sư huynh, sư đệ trên chùa, như mọi người sống đời lương thiện đang làm việc tốt quanh đây.  Con cũng sẽ có huệ nhãn, có thần thông để biết tôn huynh Phạm Xảo, biết mọi người và biết con đang ở đâu.

Thầy Tiều, Trí Hải, Ba Gấm, Tâm An đều cười chan hòa với niềm vui vô tư gần như trẻ thơ của Thiện Giả.  Lòng tri ân ơn cứu tử của Thiện Giả đối với Phạm Xảo thật sâu bền.  Không hẹn mà gặp, trí tưởng của mọi người trong nhóm đều hướng về Phạm Xảo.

Từ ngày về lại với nhóm vườn thuốc, Tâm An trở nên dễ dãi, nhu hòa và ít nói.  Mắt nhìn phân biệt sắc sảo và lời nói đầy thuyết phục càng có lợi cho việc làm ăn buôn bán chừng nào thì lại càng bất lợi cho việc tu dưỡng định tâm chừng đó.  Khi dáng vẻ đời sống trụ lên đôi mắt; ý nghĩa giao tình gắn chặt vào lời nói thì chân dung cuộc sống chỉ còn là lớp sơn màu tô trét bên ngoài.  Ngày trước, Tâm An đã nhìn Trí Hải và thầy Tiều như nhìn những cây cổ mộc trong khu vườn thiền kiểng.  Dáng trang đài kỳ tú mà vô hồn.  Tâm An hôm nay lắng xuống bề sâu.  Cảm nhận sâu xa nhiều hơn là nhìn nói vội vàng.

Tâm An hỏi trống không, chẳng biết câu hỏi hướng về thầy Tiều hay là về ai trong nhóm:

- Hiền huynh Phạm Xảo không phải là thầy tu, cũng chẳng phải là cư sĩ Phật tử, tại sao lại đi tìm cái chết ngay trên những dòng kinh Bát Nhã vậy kìa?

Im lặng hồi lâu không ai lên tiếng.  Thầy Tiều tự nói lên ý nghĩ của mình:

- Vì khi còn sống, Phạm hữu đã sống đời Bát Nhã.

Câu trả lời hơi lạ lùng của thầy Tiều gây sự chú ý cho mọi người.  Không nghe ai nói gì, thầy Tiều dẫn giải:

 

Ba Gấm hỏi thầy Tiều:

- Bát Nhã Ba La Mật Đa là trái tim của lý thuyết nhà Phật.  Chỉ có các bậc cao tăng thượng trí mới thực hành Bát Nhã thôi, phải không ạ?  Nếu vậy thì tướng quân Phạm Xảo chứ đâu có phải là một vị đại thiền sư mà dám sống đời Bát Nhã, thưa Thầy?

            Lắc lư đầu như vừa phủ nhận và vừa xua tay đùa vui,  nhưng bằng vẻ mặt trầm tư sâu lắng, thầy Tiều nói về cái lý Bát Nhã trong suy tư của Thầy:

- Bát Nhã là mắt sáng nhìn đời đúng như sự thật đang diễn ra chứ có gì ghê gớm lắm đâu mà không dám sống.

- Mắt sáng đó có phải là con mắt của trí tuệ ở bên trong không Thầy.  Người thường làm sao có được?

- Con mắt trí tuệ khởi từ cái nhìn bình thường của nhục nhãn; tiến lên cái nhìn thiên nhãn và đạt tới tuệ nhãn của hàng Bồ Tát, Thanh văn, Duyên giác là một vòng chuyển hóa nội tại mà mọi chúng sanh đều có khả năng vươn tới được.  Bát Nhã là sự chối bỏ toàn triệt những biên giới phân biệt của thân, tâm, ý, thức.  Đó là những biên giới, rào chắn, ý niệm chủ quan được dựng lên do ảo tưởng sai lạc của con người.

- Ảo tưởng sai lạc đó do đâu mà có?

- Tâm, tưởng sai lạc do lớp lớp bụi trần trong nhiều kiếp đóng thành núi, thành đồi cố chấp có khi được gọi đầy vẻ tự hào si mê là… kinh nghiệm.  Chính thói quen tích tụ nầy đã dẫn dắt con người mang mộng tưởng điên đảo đi đào bới để tìm cho bằng được cái búa của “ông Thiên Lôi” sau cơn sét đánh làm cây đổ, người chết.  Ai cũng lý sự được rằng, nếu không có một “ông Thiên Lôi” với sức mạnh ghê hồn vác búa từ Thiên Đình xuống đánh thì làm sao có ánh sáng chói lòa từ trên trời cao xẹt xuống đất; rồi có tiếng nổ long trời;  rồi có cây đổ, người chết… cháy đen thui?  Ai dám nói “không” khi có nó.  Ai dám nói “có” khi nó là không.  Và nếu cứ đi mãi, rồi đi mãi tìm ngọn nguồn và nguyên nhân của cơn sấm sét thì ai dám bảo là có, ai dám bảo là không?  Muốn nói gì thì nói nhưng chắc chắn cái ông Thiên Lôi mạnh vô song đó là… “đồ giả thật”!  Nó có thật đó mà lại không có thật.  Cái giả, cái không cuối cùng của sự thật ông Thiên Lôi đó không thể thấy, không thể tính, không thể bàn mà chỉ có thể hiểu ra và cảm nhận qua ý niệm “tri kiến” trong vô hình vắng lặng.  Chỉ có cái nhìn của tuệ giác mới thấy được đó là lý Bát Nhã.  Chẳng có một ông Thiên Lôi thật sự nào cả mà chỉ có tánh điên đảo hợp lại thành sấm sét và mộng tưởng điên đảo hợp lại thành ông Thiên Lôi.

- A! Thầy ạ.  Thuở nhỏ, Ba Gấm con từng biết một ông thầy pháp có được cái búa thiên lôi để trừ ma diệt quỷ đó mà.

- Thế ngày đó Ba Gấm có tin đó là búa thiên lôi thật không?

- Dạ, tin lắm thầy ơi!  Cả làng, cả xã đều tin như vậy vì ông thầy pháp có cái búa Thiên Lôi bỏ trong túi xách thật mà.

- Nếu đó chỉ là cái búa thợ rèn giả thì làm sao biết được?

- Ơ! Mà… ơ! Thật tình là không biết vì có ai ngoài ông thầy pháp đó có “búa Thiên Lôi” đâu.

- Thì Bát Nhã cũng chỉ là lời xác định một cách quả quyết rằng, không có cái búa Thiên Lôi thật; mà cũng chẳng có gì thật cả.  Nên đừng sợ sấm chớp, đừng sợ tiếng nổ, đừng sợ Thiên Lôi vì thật ra mọi hình tướng đều là sự va chạm hay kết hợp của âm dương, ngũ hành mà sinh ra, rồi tan biến và về lại với Suối Nguồn Vũ Trụ mà thôi. Ngay cả tam thiên, đại thiên thế giới cũng chỉ là một trường sinh diệt liên tục.  Cái gọi là Ta Bà thế giới hôm nay biết đâu sẽ tan thành đám bụi mờ bay tỏa trong không gian vô cùng và thời gian vô tận.

Ba Gấm hồi tưởng lại những cuốn sách bàn về yếu lý nhà Phật quá cao siêu đến độ mơ hồ và tối tăm khó hiểu mà mình đã đọc, liền hỏi thầy Tiều:

- Thưa Thầy, như thế có loại kinh sách nào bàn về kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật đơn giản và dễ hiểu với tất cả mọi người, ngay với cả người mù chữ không?

Thầy Tiều giải thích:

- Bát Nhã là sự thật của thể lý, là cội nguồn của ý thức, là tính không của vạn pháp.  Đó là một ý niệm hoàn toàn tự tại, an nhiên và rỗng lặng, không đào bới hồi ức từ quá khứ, không chạy đuổi theo ước mơ về tương lai.  Quán tự tại nơi ta và trong chính ta ngay trong lúc nầy.  Bát Nhã đơn giản như hơi thở và gần gũi thật thà như máu của ta. Tâm vắng lặng, trí thản nhiên trước tất cả những mảnh đời đang trôi theo dòng sống là đang sống đời Bát Nhã.  “Từng trang nghĩa lý phân minh.  Kim Cang kinh thật là kinh không lời”!  Vì kinh thật không lời nên khi đem “xích tử chi tâm”, nghĩa là cái tâm nguyên sơ, hồn nhiên, trong suốt của đứa bé sơ sinh và một đầu óc không vướng bận nhị nguyên đối đãi (như khen chê, tốt xấu, có không… ) thì dòng Bát Nhã có sẵn trong mỗi người tự nhiên hiển lộ. 

Ba Gấm cúi đầu lẩm bẩm:

- Kim Cang kinh thật là kinh không lời.  Kim Cang vô tự thị chân kinh! 

Tâm An không nhịn được, liền hỏi:

- Thầy ơi!  Nếu Bát Nhã mà gần gũi và đơn giản như thế thì tôi đâu có bỏ chùa ra đi trôi nổi đến hai lần như thế.

            Đặt một bàn tay nhè nhẹ lên vai áo của Tâm An, thầy Tiều nói như an ủi:

            - Tâm An vẫn còn tiếc nuối những năm tháng sống xa chùa à?

            Giọng ấm lại đầy vẻ cảm động và chân tình, Tâm An nói nhỏ:

            - Dạ, tiếc lắm Thầy ạ.

            - Lại vướng mắc hình tướng nữa rồi.  Sao quý hữu không xem thế gian nầy là một ngôi chùa rộng lớn.

            - Tam Bảo nơi đâu?

            - Phật là Tâm thương người, thương đời. Pháp là Trí tỉnh táo, sáng suốt. Tăng là việc tốt đang nghĩ, đang làm.

            - Tìm ở đâu?

            - Tất cả đều có sẵn trong ta.  Không cần tìm.  Chỉ cần thấy.

            - Tôi chưa nghe ai nói đơn giản như vậy bao giờ.

- Bởi vì người ta đua nhau nói những điều cao siêu về Bát Nhã nên chẳng ai hiểu Bát Nhã như Bát Nhã mà cứ hiểu Bát Nhã theo những điều cao tột nằm tận đâu đâu bên ngoài Bát Nhã.  Dần dần, vọng tưởng Bát Nhã trở thành cung tên của ngôn ngữ khải đạo và tư tưởng ngự trị.  Hễ người xạ thủ vô minh bắn ảo ảnh Bát Nhã vào đâu là ý nghĩa thâm sâu của Bát Nhã ấy sẽ mất sự hồn nhiên trong sáng và biến thành vọng tưởng. Bát nhã, tánh không, chân như… không có gì xa hơn là sự thật.  Nó là nó chứ không phải ai khác, cái gì khác, hay thể tính khác.  Quán tưởng, suy niệm về sự thật để tiến tới một đối tượng không phải là chính nó mà cao hơn hay thấp hơn nó; đẹp đẽ hay xấu xa khác nó là phi Bát Nhã.

Người hiểu Phạm Xảo nhất là Trí Hải, chỉ im lặng theo dõi , bây giờ mới lên tiếng:

- Quả thật là Phạm huynh đã có “duyên tu”.

Trước sự im lặng đợi chờ, Trí Hải không nói gì thêm.  Thầy Tiều giục:

- Chẳng hay Phạm quý hữu có duyên tu như thế nào, hoàng thân?

- Để có thể trả lời Thầy, có lẽ tôi phải mượn ý kinh nhà Phật. Hình như là Kinh Đại Pháp Cú thì phải, đại ý có nói đến Duyên Tu rằng: Dẫu cho tụng kinh ngàn lời mà không thực hành, tu dưỡng thì ích gì? Chẳng bằng nghe một lần, rồi tự mình siêng năng lặng lẽ chuyên tu cho chính mình sẽ được ích lợi hơn. Tụng kinh ngàn lời, không hiểu thì ích gì? Chẳng bằng hiểu một lời kinh, rồi áp dụng, tất sẽ đắc độ. Tụng kinh ngàn lời, mà lòng bất kính, thì ích gì? Chi bằng thực hành, vui vẻ, phụng tu đầy tin tưởng. Tụng kinh ngàn lời, mà cái tôi không bớt, chi bằng theo tu một lời, mà bỏ kiêu mạn, buông lung. Tụng kinh ngàn lời, cầu danh thêm chấp, chi bằng nghe một lần, rời bỏ chấp trước.  Nếu tu vì hình tướng, vì danh vị, vì tiếng tăm, vì lợi lộc, vì đối đãi phân biệt phe ta, phái người thì đấy là “nghiệp tu”, càng tu nghiệp chướng càng nặng nề.

- Phải.  Phạm Xảo quý hữu đã sống thật với chính mình trước khi sống thật với người khác trong mọi tình huống, trước mọi hoàn cảnh.  Tu không hình tướng là duyên tu và cũng là một cách sống đời Bát Nhã.  Dẫu cho đấy chỉ là một trong tám vạn tư lối về bến Giác thì khi đi trọn đường cũng sẽ đến được bờ bên kia thôi.

Cả nhóm nhìn ánh trăng nhạt dần để đón một bình minh đang về.  Một sớm mai bình thường, nhưng sẽ trở thành đến muộn với những người thức trắng đêm và đến sớm với người nông dân đang ngủ say sau màn sương mỏng dưới chân đồi Thái ấp.

 

(Trích Chương 27, truyện dài Tu Bụi)

Trần Kiêm Ðoàn
Số lần đọc: 2950
Ngày đăng: 04.08.2006
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Ẩn số cuộc đời-1 - Lê Xuân Quang
Ẩn số cuộc đời -2 và hết - Lê Xuân Quang
Ngày đùa - Nguyễn Ngọc Tư
Khúc sonate đêm trăng - Nguyễn Thành Nhân
Đá cũng cần có nhau - Đinh Lê Vũ
Chị em ruột thịt - Bích Ngân
Con đường - Nguyễn Quang Nhàn
Cảm giác khi rời biển - Tiến Đạt
Dưỡng chất trần gian - Thu Trân
Đêm của thiên thần nhạc Jazz - Vũ Ngọc Tiến
Cùng một tác giả
Cầm chầu HÁT BỘI (truyện ngắn)
Cơm Hến, (dân gian)
Bờ bên kia (truyện dài)
Duyên Tu-1 (truyện ngắn)
Duyên Tu-2 (truyện ngắn)
“Thế à ! ” (phê bình)
Nam mô A-ME-RI-CA (truyện ngắn)
Xuân trong ta (văn hóa)
Thế Hệ Kế Thừa (đối thoại)