Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.384 tác phẩm
2.747 tác giả
900
116.625.098
 
Đọc thơ Nguyễn Sĩ Cứ
Nguyễn Trọng Tạo

Có người làm thơ dễ dàng như suối nguồn tuôn chảy không bao giờ vơi cạn. Có người làm thơ khó khăn như đàn bà vượt cạn trong cơn đau sinh nở. Có người không đầy cảm xúc cũng làm được ra thơ. Có người cảm xúc dâng tràn mà trước thơ ngồi cắn bút. Thơ hay, thơ dở, thơ dở dở ương ương tràn ngập chợ thơ như trên trời dưới đất chỉ có thơ. Thơ nhiều đến ngạt thở chứ thơ chẳng còn tự nhiên như hơi thở mà ta vẫn hoài vọng một thời. Trong cái trường thơ hỗn mang đó, Nguyễn Sĩ Cứ có muốn trở thành một nhà thơ hay không? Anh dè dặt như một kẻ biết điều. Anh lặng lẽ như một người chiêm ngẫm. Anh sợ hãi như một chàng trai tân vừa chạm tình trường: “Ngực ai rờn rợn chạm nơi tay”...

      

Còn nhớ ba năm trước, Nguyễn Sĩ Cứ đưa tôi 30 bài thơ nhờ đọc xem có in thành tập được không. Đã tuổi “tri thiên mệnh” mà trong tay có 30 bài thơ thì quả là quá ít so với gia tài thơ của bao người làm thơ khác; nhưng nếu in thành tập thì 30 bài kể cũng hơi nhiều. Tập Đầu súng trăng treo của Chính Hữu chỉ có 20 bài mà làm cho các nhà văn học sử không bao giờ dám bỏ sót tên tuổi của nhà thơ. Tôi đọc 30 bài thơ của Cứ, phân vân mãi, cuối cùng bảo anh nên đợi một thời gian xem có thêm được một số bài nữa không? Ý tôi muốn tập thơ cần có thêm một sức nặng về chất, nghĩa là phải gây được ấn tượng riêng mạnh hơn nữa. Cứ nghe tôi nói, hơi hẫng một giây, rồi anh im lặng. Ba năm sau, tập bản thảo thơ của anh đã dày gấp rưỡi. Những bài thơ mới đã đến độ “”chín tới”, với những xót đắng của yêu thương và chiêm nghiệm:

Cái cây trước nhà bị chặt

Ra giêng chim lại tìm về

Bơ vơ đánh rơi tiếng hót

Tiếng hót loang dài mặt đê

 

Sang năm rồi sang năm nữa

Hết cây, chim chẳng tìm về

Chim hót trong băng cát-xét

Tiếng chim bán đầy chợ quê.

                                                     (Tiếng chim)

 

Trong lời vô ngôn

nỗi niềm

vỡ tung

ngực khát

em nói yêu tôi

ngoài tầm thể xác

 

nhưng có khi

cơn mưa tôi

không dịu em

cơn khát

chính là điều bất hạnh

vô ngôn.

                                               (Vô ngôn)

 

Thơ Nguyễn Sĩ Cứ đa cảm, đa nghĩ. Những hồi nhớ quá khứ bám đuổi, cật vấn. Những chiêm nghiệm thực tại xoáy lật, róng riết. Những yêu thương rạo rực trong kìm nén. Và vì thế, thơ anh mang chứa nỗi buồn buốt nhói khuất ẩn – một nỗi buồn chìm. Cái nỗi buồn mà nếu không có nó, thơ sẽ trơ ra xác chữ.

       

Nỗi buồn trong thơ Nguyễn Sĩ Cứ là nỗi buồn chia sẻ với những bất hạnh ở đời. Kể cả khi anh cất lên cái giọng tưng tửng của “kẻ thích đùa” thì đấy cũng là cái giọng đùa ra nước mắt:

Giấc mơ mùa đói đàn chim thiên di

giấc mơ mùa no vỗ cánh dậy thì

giấc mơ mồ côi có giày để đánh

giấc mơ mùa lính cắt sốt đại ngàn

giấc mơ mùa quan chan chan bổng lộc

giấc mơ mùa học không có dạy thêm

giấc mơ mùa em đường cong mỹ mãn

giấc mơ mùa hạn nước đầy phù sa

giấc mơ không mùa mùa không mộng mị...

                                                                      (Mơ mùa)

 

Đôi lúc, Nguyễn Sĩ Cứ muốn thoát khỏi những con chữ quen thuộc để chuyển tải tư duy của người thơ hiện đại. Sau khi kiểm lại thế kỷ “Người nghèo kiếm ăn chân trời góc bể/ Người giàu phát minh món lạ nhậu chơi”, anh như rơi vào miền không trọng lượng:

đêm,

chùm sao rụng

hố đen khép

vũ trụ đầm đìa

giấc mơ

toát mồ hôi lạnh

 

bảnh mắt,

nhét giấc mơ vào họng

sửa soạn bộ mặt kiếm cơm

giành giật với cả chính mình

 

đêm,

những linh hồn vô định

vẫn bền bỉ kiếm tìm

chốn ẩn cư

miền lạ.

                                            (Nghe đêm)

 

Nhưng có lẽ sự bền bỉ kiếm tìm nhất trong thơ anh là món nợ quá vãng, món nợ với những người mẹ, người lính suốt thời chiến tranh dai dẳng:

Miền Trung là ai?

Tôi nhìn người mẹ

hoá đá vẫn khăn tang

                                        (Miền Trung nhớ bạn)

 

Tuổi xanh muối bạc vầng tóc mẹ

bạn không về

                      chống gậy

                                       mẹ xuôi tay

nén nhang cháy cong hình dấu hỏi

trước nấm mồ tôi người có lỗi

                                                                  (Dấu lặng 2)

 

Nếu ngày đó mảnh bom to chút nữa

Hồn ta giờ chắc hẳn cũng phiêu diêu

......

Nên mỗi lần vào dịp này, tháng Bảy

Ta khóc người, người hỡi có biết không?

                                                                            (Nhớ bạn)

 

Nguyễn Sĩ Cứ không chỉ bị ám ảnh về cuộc chiến khốc liệt mà chính anh là một người lính. Ngay cả những huyền tích lịch sử đầy bi hùng của dân tộc trong lịch sử cũng hiện lên trong thơ anh như là vẫn còn ở sát gần đâu đó quanh cuộc đời này. Một Đêm Bạch Đằng “trong chiến thuyền cháy/ áo máu chiến binh/ nhuộm rực tà dương”, một An Dương Vương “ôm hận xuống cửu tuyền” “gửi lại trời xanh câu hỏi lớn không lời”,  một Loa Thành “con ốc biển khổng lồ/ hội tụ nghìn cơn bão/ một đêm phản trắc hiện hình”... đều là những ám ảnh không nguôi của người thơ đã mặc áo lính  một thời. Những ám ảnh không dẽ gì xoá nổi.

     

Dù người ta có muốn trở thành nhà thơ hay không, thì khi làm thơ, người ta vẫn bộc lộ cái bản chất sâu thẳm trong tâm hồn mình. Đọc thơ ấy, người ta nhận ra anh qua tâm hồn ẩn chứa trong từng câu chữ. Nguyễn Sĩ Cứ là một con người cả nghĩ và chân thực. Một con người không chỉ có trách nhiệm với chính mình mà còn có trách nhiệm với cả nỗi đau, niềm lo của người khác:

Mẹ em phơi củi

Em phơi sách

Đời mẹ đời con phơi giữa trời

Mang mang ngầu lạnh phên hồng thuỷ

Làng trôi ra biển

Đói nghèo không trôi.

                                                                      (Phơi)

 

Tháng Ba ra phố

Chợt tiếng khẩn nài:

“Lạy ông đi qua, lạy bà đi lại”

Nhận ra giọng nói làng mình

Tháng Ba..

như người mất máu.

                                                                (Tháng Ba)

 

Một người thơ  có nỗi đau buốt nhói tưởng như quá tỉnh, lại đôi lần để lộ “gót Asin” của đam mê:

Em đi áo tím qua cầu

Nhuộm ta tímcả sắc màu Huế thơ

                                                              (Với Huế)

 

Ta về uống nắng thành cây

Uống hương thành gió

Uống say thành lời.

                                                     (Lại về cùng Huế)

 

Mắt huyền trời ạ, đừng lúng liếng

Kẻo mà...

                 chết đuối cả Mùa Thu.

                                                             (Mùa cổ điển)

Để rồi nhận ra một sự thật trong một nỗi buồn say:

Thế là

khô khát và...

Mưa

Thế là

son phấn dối lừa và...

Em

Thế là

sao ướt và...

Đêm

Thế là

trăng rớt xuống thềm và...

Say.

                                                  (Say)

 

Và có lúc thốt ra tự bạch như một người phẫn chí:

Đời người mấy trận mưa chan

Mấy phen nắng lửa thì tàn cuộc chơi?

Thà về đếm hạt mưa rơi

Và nghe cỏ hát những lời vô vi

                                                                      (Tự khúc)

 

Ấy là lúc anh muốn thoát ra ngoài những đua chen phù du nơi trần thế? Nhưng cuộc đời thì vẫn thế, như quả đất vẫn chẳng ngừng xoay. Và con người vẫn phải vật lộn với cả chính mình, cho đến lúc nhận ra:

Cuộc phù thế chỉ như là đám bụi

Rồi cũng ba thước đất dưới cỏ mềm.

                                                            (Cuộc phù thế)

 

Thế kỷ này chúng ta chạy như điên

Vẫn hướng đích đám côn trùng dưới cỏ.

                                                             (Côn trùng)

 

Nguyễn Sĩ Cứ đã đẩy sự chiêm nghiệm đến chân tường để nhận chân cuộc sống. Và cuối cùng, anh đã gửi lòng mình vào câu thơ tưởng nhớ một nhà thơ đàn anh mà anh vô cùng quý trọng:

Người đi...

Trang viết neo lòng

Câu thơ để lại trắng trong đời mình.

                                                 (Nhớ nhà thơ Phùng Quán)

 

Hình như khi làm thơ, Nguyễn Sĩ Cứ cũng hướng tới điều đó. Hướng tới điều Chân, điều Thiện, điều Trắng Trong ở cõi lòng mình. Và thơ anh đã phần nào đảm trách được điều anh hướng tới. Thơ ấy có thể in thành tập để lưu lại cái phần hồn của người thơ, dù anh có muốn trở thành thi sĩ hay không.

 

Hà Nội, chớm Thu 2005

Nguyễn Trọng Tạo
Số lần đọc: 2759
Ngày đăng: 25.10.2006
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Dương Tường với “ THƠ NGOÀI LỜI”. - Đào Bá Đoàn
Những hành trình qua trống rỗng : Bài 2 - Nguyễn Chí Hoan
Bàn thêm về cách hiểu và dịch bài thơ : PHONG KIỀU DẠ BẠC - Nguyễn Khắc Phi
Hạt sạn đáng tiếc từ một cuốn sách - Lê Hoài Lương
Nhân hội nghị lý luận phê bình văn học lần thứ II: Đào tạo lực lượng trẻ về lý luận phê bình: cần thiết và cấp bách - Nguyễn Tý
Đọc Linh Sơn của Cao Hành Kiện - Trương Thái Du
Sức trẻ Hải Triều - Nguyễn Khắc Phê
Đọc thơ Trần Thị Nương - Nguyễn Trọng Tạo
Người tài danh- Bỏ em vào câu hát : Nhân đọc tập thơ Gió đang xoan của Trần Nhương - Đinh Nam Khuong
Vài lời cùng tập thơ “Rơi ngược” của Ngô Thị Hạnh - Lý Đợi