Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.374 tác phẩm
2.747 tác giả
729
116.469.074
 
Từ vựng NGHỀ LƯỚI ĐĂNG – Một vốn quý trong kho tàng NGÔN NGỮ, TRI THỨC, VĂN HÓA DÂN GIAN của ngư dân KHÁNH HÒA (2)
Nguyễn Man Nhiên

H

- Hai lòng nước: Lưới đăng phân biệt hai loại dòng chảy ở biển là nước mặt và nước đất.

- Hèo: đơn vị đo lường trong nghề đăng (1 hèo = 1 sải = 1 thước ta = 1,7m).

- Hòn chì: lưới đăng dùng những hòn đá lớn nhỏ khác nhau hoặc được đúc bằng xi-măng cốt sắt để cột vào dậu lưới, giữ cho lưới không bị hổng chân khi gặp sức nước chảy mạnh.

- Hòn đồi (hoặc đòi theo âm địa phương): hòn đá lớn nhất, nặng nhất trong các hòn chì, dùng để buộc hai đầu lưới của giềng miệng.

- Hôi cá: gỡ cá sót trong lưới và thừa dịp ăn cắp cá.

K

- Kết gang: cột các dây đầu gang lưới vào hòn đá trên gành. Khi tiến hành việc này phải làm lễ cúng gà, chè, xôi... gọi là cúng kết gang.

- Kết giải: cột giàn lưới bửng vào giàn lưới hôm và cột phần đồi của giàn lưới rút vào phần đồi của các giàn lưới rọ.

- Khoá mũi, khóa lái: dùng một sợi dây lớn bằng bắp tay kết hình số 8 tròng vào mũi thuyền hoặc móc vào đuôi thuyền đăng và thuyền neo để giữ cho hai thuyền này không bị tách ra.

- Khoang: lòng thuyền đăng ngày xưa được chia thành nhiều khoang: khoang trấu, khoang phát, khoang tráng chì, khoang lòng, khoang lòng giác, khoang đốc, bồng nhì, bồng nhứt, ngăn với nhau bằng các đà dừng và then.

- Kiện: đơn vị tính cổ truyền, cứ 100 dúng = 1 kiện (kiện dây).

L

- Lái phiên: tài công điều khiển ghe phiên chở cá từ sở đầm về bến.

- Làm mé làm gót: người nằm thuyền cột đầu lưới bửng vào lưới rọ bằng hai dây mé và hai dây gót.

- Lầm: số đếm bằng 100 (lầm mây, lầm cá).

- Lặn cá đóng: nghề phụ chuyên lặn gỡ cá đóng lưới, ăn chia 5/5 với chủ đầm.

- Lòng cốt: lòng thuyền đăng được đóng ghép bằng nhiều miếng ván dài. Lòng cốt là miếng ván dài nhất ở giữa thuyền.

- Lỗ Lường: tiếng gọi trại bộ phận sinh dục nữ. Trước đây, một vài sở lưới đăng ở Khánh Hòa có tục thờ cúng Lỗ Lường. Tại sở đầm Hòn Đỏ (Ninh Hòa) có một cái miễu nhỏ trong thờ một khe đá gọi là Lỗ Lường, bên cạnh có để một “bộ đồ” tạc bằng gỗ như “của thật”, sơn đỏ. Theo tục lệ cổ truyền, mỗi năm phường lưới đăng tới đây hành nghề đều phải cúng vái và tiến hành nghi thức cầm bộ đồ chọc ba lần vào khe đá để cầu được trúng mùa.

- Lộng (hoặc lọng theo âm địa phương): vùng biển gần bờ.

- Lút ống: khi dòng nước chảy quá mạnh nhấn chìm các bè phao.

- Lưới bửng: loại lưới thưa, chiều dài khoảng 38 hèo (65m), giăng từ neo thứ 10 bên đăng chếch sang phía lưới hôm tạo thành một góc hình tam giác, có chừa một khoảng trống (cửa bửng) cho bầy cá vào rọ.

- Lưới cản: nghề biển nhỏ, đánh bắt vào ban đêm khi các loại cá thu, cá bò… đi ở lưng chừng nước. Ngư dân thả lưới xuống cách mặt nước chừng bảy tám sải hoặc sâu hơn theo chiều nước chảy. Cá không thấy bóng lưới, đâm đầu vào rồi tự quấn mình vào lưới.

- Lưới quát: nghề lưới quát giống lưới rùng nhưng giàn lưới lớn hơn, khi kéo lưới vào gần bờ, một người lặn tóm chân chì và tóm hai đầu lưới rồi kéo lên ghe chứ không kéo lên bãi như lưới rùng.

- Lưới quây: nghề biển di chuyển khắp nơi, chuyên đánh các loại cá đi nổi trên mặt nước như cá Ngừ, cá Ồ, cá Chù, cá Chấm... Lưới quây là lưới đi tìm cá, khác với lưới đăng là loại lưới cố định, đóng tại những địa điểm cố định chờ cá đến.

- Lưới rùng: nghề biển cổ truyền sử dụng giàn lưới hình ống có cánh hai bên, vây bắt cá kéo vào bờ.

- Lưới rút: tấm lưới lớn có hình thang, dài khoảng 40 sải, rộng 40 sải, để sẵn trên thuyền. Khi cá đã vô rọ thì trên thuyền cho đóng lưới bửng và thả giàn lưới rút xuống để bắt.

M

- Mành: loại nghề đánh cá biển dùng công cụ như chà rạo thả xuống biển tạo thành bóng râm hoặc ban đêm dùng ánh sáng đèn măng-sông, đèn điện để nhử cá tập trung lại rồi dắt chúng vào lưới, phổ biến nhất là các nghề mành đèn, mành chong pha xúc, mành mực, mành trủ. Đối tượng đánh bắt là các loài cá, mực thích theo bóng râm của rạng hoặc chà rạo, hoặc thích theo ánh sáng đèn như cá nục, cá cơm, cá chù, cá ồ, cá sơn đỏ, mực thẻ, mực đất, mực trũng... Mùa chính nghề mành từ tháng 3 đến tháng 7 âm lịch, mùa phụ từ tháng 8 đến tháng 9 âm lịch.

- Mành chà: nghề biển cổ truyền, hoạt động ban ngày, đánh bắt các loại cá nhỏ như cá nục, cá cơm, cá sơn, cá thằn lằn, mực vv... Người ta thả chà bằng lá dừa kết lại thành nhiều bó to, để cá tụ dưới bóng lá. Cá luôn luôn đứng hóng mồi dưới dòng nước. Ngư dân thả lưới dưới dòng nước, ghe đậu trên hướng nước chảy, từ từ gạn giàn mành lên ngược giòng nước bao đàn cá. Hai đầu lưới vừa giáp cây chà, một người lội xuống nước, khuấy động đuổi cá chạy xuôi giòng nước chun vào đảy.

- Mành chong (còn gọi là mành đèn): hoạt động ban đêm, đánh các loại cá nhỏ. Khi lưới đã thả xong, ngư dân chong đèn măng-sông hoặc đèn điện trên bè phao lớn thả trên mặt nước cho cá tụ dầy dưới ánh sáng, kéo bè đèn đến chỗ thả lưới, cá theo ánh sáng đi vào miệng mành. Các động tác thả lưới, đặt đèn, bơi thúng dắt đèn đều phải tuyệt đối nhẹ nhàng. Khi thúng dắt cá xuống được 1/4 giàn lưới thì bắt đầu kéo lưới.

- Mành đăng: nghề biển cổ truyền tương tự lưới đăng nhưng là nghề nhỏ, có thể xê dịch và đánh cá ở những nơi nước không quá sâu. Thường thường ngư dân ghe mành hành nghề tại vùng hậu bối (sở phụ) của đầm đăng với điều kiện trả cho chủ đầm một số tiền trong suốt mùa cá.

- : một trong hai kẽ lù (điểm nối) của giềng miệng (phần giữa của cạp giềng).

- : đầu mút giềng đồi của lưới bửng.

- Miễu Hội Đồng: ngôi miễu thờ chư vị Thần linh biển cả do ngư dân lập trên đảo gần chỗ đặt giàn lưới đăng.

- Muôn: số đếm bằng 10.000.

N

- Nạp cái: dây ny-lon lớn nối từ kết gang ra đến bè cái. Đây là sợi dây dài nhất và chịu lực mạnh nhất trong giàn lưới đăng. Một dây khác chạy song song để chia lực với nạp cái gọi là nạp con.

- Neo: lưới đăng sử dụng rất nhiều loại neo. Ngoài 4 neo chính là neo cái, neo cổ, neo dọc, neo ngang, còn có 6 neo phụ là nhất rượng, nhì rượng (ở giữa lưới rọ), nhất tráng tây, nhì tráng tây, nhất hôm, nhì hôm (ở lưới hôm) và hàng chục neo lưng giữ giàn lưới lưng. Ngày xưa neo làm bằng gỗ, hiện nay phần nhiều làm bằng sắt đúc, có hình lưỡi cày.

- Neo rạng lộng: loại neo này chỉ có một mỏ neo, dùng để thả vùng đáy biển có đá ở sát gành.

- Ngà: tấm gỗ hình trăng khuyết sơn đỏ đóng ở mũi thuyền đăng.

- Nghề bọt nước: chỉ nghề biển giã.

- Ngọc cốt: bộ xương cá Voi (cá Ông), còn gọi là cốt Ông Nam Hải. Ngư dân một số tỉnh ven biển Trung bộ và Nam bộ hiện nay vẫn còn giữ tục thờ cúng cá Ông. Khi cá Ông “lỵ” (chết) ngoài biển, ngư dân đưa xác vào bờ, đăng lại để thịt rã hết rồi vớt xương cho vào hòm (quách) đem để trong Lăng để phụng thờ.

- Nhà chồ: nhà cao cẳng như nhà sàn, dựng bằng tre, gỗ... trên bãi cát, mặt nước ven sông, biển.

- Nhà đoàn: một gian nhà rộng do sở đăng cất, vừa làm nơi thờ cúng, vừa làm kho chứa tất cả dụng cụ làm nghề.

- Nhổ lưới: kéo giàn lưới rút lên để thu hoạch.

- Nhờ Ông Bà: lời nói cửa miệng của ngư dân địa phương mỗi khi được mùa cá.

- Nhợ: cuộn sợi mấu để đan lưới đăng dài 20 sải.

- Nước đất (còn gọi là nước dưới): dòng chảy dưới đáy biển.

- Nước giữa: ngoài dòng chảy trên mặt biển và dưới đáy biển, thỉnh thoảng lại có dòng chảy thứ ba xuất hiện giữa hai dòng này.

- Nước lừa: lúc sắp trở trời, nước ở đáy biển chuyển động mạnh làm cho nước trên mặt dao động bất thường.

- Nước mặt: dòng chảy trên mặt biển.

- Nước ra: nước từ trong gành chảy ra.

- Nước vô: nước từ ngoài biển chảy vô.

O

- Ông Nam Hải: Từ bao đời nay, người dân làm nghề biển giã rất sùng kính cá voi, coi đó là một vị thần tối cao luôn cứu giúp họ khi gặp hoạn nạn trên biển cả. Cá voi được dân gian gọi bằng nhiều danh xưng trân trọng như: Ông Khơi, Ông Lộng, Ông Sứa hoặc Ông Nam Hải, được các vua nhà Nguyễn sắc phong là Nam Hải Cự Tộc Ngọc Lân Thượng Đẳng Thần.

- Ống: trước đây phao của lưới đăng làm bằng ống tre. Các phao cột vào các giàn lưới gang, lưng, rọ, hôm gọi chung là ống lưới đăng, các phao của giàn lưới tráng gọi là ống tráng, các phao của giàn lưới bửng gọi là ống lưới bửng. Các bè phao cũng được làm bằng ống tre kết lại, bè neo cái gồm khoảng 14 - 16 ống tre, bè neo dọc từ 10 - 12 ống tre.

P

- Phái: gọi tắt từ phái bướm, là biên bản ghi số lượng cá thu hoạch được tại sở đầm, gởi theo ghe phiên mỗi chuyến chở cá về bến.

- Phăn cá thu: nghề phụ, neo thuyền vào một giàn lưới quanh vòng rọ rồi cứ quăng câu phăn nhanh về để câu cá thu. Nghề phăn không phải ăn chia, chỉ cần xin phép đội trưởng, vì nó cũng giúp cho người chỉ huy biết trong rọ lưới có cá khi nước đục

Q

- Qua lồ: như quá giang, chỉ người rảnh việc hoặc tình cờ đúng dịp  đi theo ghe để phụ kéo lưới, xong việc được thưởng công ít nhiều tùy theo kết quả của giác lưới (thường là một cặp cá tròn hay một con cá dài).

R

- Rạn: vùng đá ngầm hoặc những ám tiêu san hô dưới biển, nơi sinh sống và kiếm ăn lý tưởng của rất nhiều loại cá (ở vùng biển Vạn Ninh có các địa danh Rạn Trào, Rạn Tướng)

- Ráo lưới: ngày xưa lưới đăng đan bằng sợi dừa, sợi mấu nên rất nặng, thấm nước, mau mục. Vì thế mỗi tháng sở đầm nghỉ đánh cá một hai ngày để vá lưới và phơi lưới, gọi là ráo lưới.

- Ráp xương quẹo: nghi thức ráp giàn lưới thưa với lưới tư ở một góc 90 độ, chỗ sẽ đặt neo cái (như hai đầu xương cánh tay ráp ở cùi chỏ). Ngư dân lưới đăng xem việc này rất hệ trọng đến kết quả đánh bắt trong mùa cá sắp đến nên làm lễ cúng gọi là cúng ráp xương quẹo, lễ vật có chè, xôi, gà..., tổ chức ngay trong thời gian ăn dọn.

- Rau: tiếng nghề đăng gọi chung các loại cá. Khi bạn lưới ôm ống nổi lội xem cá trong rọ, trên thuyền hỏi: “Rau nhiều ít?” hoặc lúc được năng suất cao trong nhiều ngày, sở lưới đăng làm gỏi cá cúng thần linh gọi là cúng mừng rau.

- Rổi: những người gánh cá đi bán dạo. 

- Rổi bờ: những người mua bán cá trên bờ. Họ mua lại của các chủ tàu - thường là với số lượng nhỏ, các chủ nậu, vựa hoặc của những người rổi nước rồi đem bán lại. Những người đem  cá đi bán ở các chợ lân cận trong vùng gọi là rổi bán lẻ, những người chuyển cá đi bán ở các chợ nơi xa gọi là rổi đường dài.

- Rổi nước: những người chèo thuyền ra xa cảng cá, đón các tàu đánh cá trở về mua cá của họ ngay trên biển đem về đất liền bán lại cho những người làm rổi bờ.

- Rượn: kề bên neo cổ là 2 neo nhứt rượn, nhì rượn. Sở dĩ có tên như thế vì 2 neo này không bao giờ đứng yên mà cứ giựt lên, giựt xuống như heo nái rượn đực.

S

- Sương lưới: ráp các tấm lưới theo chiều dài.

T

- Tiền bối: người thuộc lớp trước, có công sáng lập nghề lưới đăng hoặc khai khẩn các sở đầm.

- Thả neo dắt: Để giăng lưới từ gành ra khơi, cần phải kéo một sợi dây được cố định ngoài biển bằng một chiếc neo lớn nhất gọi là neo dắt. Độ dài của dây neo dắt tương ứng với chiều dài giàn lưới.

- Thiên: số đếm bằng 1000.

- Thu: gọi tắt từ cá thu, thuộc loài cá nổi di cư theo mùa, đối tượng khai thác chính của nghề lưới đăng. Cá thu có nhiều loại: thu ảo, thu chấm, thu ngàng, thu hủ, thu lộng, thu mùa..., nhiều kích cỡ: thiên cố đại, thị đại, dài kịch, dài đại, dài trung, dài hàng, dài tiểu.

- Thuyền đăng (còn gọi là ghe đăng): loại thuyền lớn đặc dụng, đóng bằng gỗ tốt, chiều dài trung bình khoảng 18m, có trọng tải trên dưới 10 tấn, di chuyển bằng chèo, đậu ở vùng tiếp giáp giữa lưới lưng, lưới rọ và lưới bửng. Thuyền đăng chở lưới đăng và một nửa số thuyền viên. Thuyền đăng khác thuyền neo ở chỗ có gắn miếng gỗ sơn đỏ gọi là ngà ở mũi thuyền.

- Thuyền neo (còn gọi là ghe neo): một trong hai thuyền đặc dụng của lưới đăng. Thuyền neo thường ngắn và nhỏ hơn một chút so với thuyền đăng, đậu ở vị trí tiếp giáp giữa lưới bửng và lưới hôm, trên thuyền chở toàn bộ neo và số thuyền viên còn lại.

- Thuyền phiên (còn gọi là ghe phiên): loại thuyền có trọng tải vừa (trên dưới 5 tấn), xưa là thuyền buồm kết hợp với chèo, nay là thuyền máy để chạy cho nhanh, lo việc chuyên chở cá từ sở đầm về chợ để bán (mỗi ngày từ 2 đến 3 chuyến). Thuyền phiên có thể tự đóng, mua lại hoặc thuê vì đây không phải thuyền đặc dụng.

- Thuyền thúng (còn gọi là thúng chai): phương tiện di chuyển cơ động trên biển, hình cái thúng, chu vi trên dưới 5m, đan bằng nan tre già trét dầu rái.

- Trệt: các tấm lưới kết thành một giàn lưới đăng. Tùy theo vị trí của giàn lưới trên biển, người ta chia ra trệt gang, trệt lưng, trệt rọ, trệt tráng, trệt hôm.

- Trệt hom (hoặc hôm theo âm địa phương): đoạn lưới giăng từ bè dọc về hướng đảo, dài khoảng 45 hèo (= 76,5m)

- Trệt gang: đoạn đầu của giàn lưới đăng kết vào hòn đá trên gành, còn gọi là gang lưới.

- Trệt lưng: đoạn lưới kéo từ chỗ kết gang ra đến thuyền đăng, dài từ 180 hèo đến 360 hèo (= 300 - 600m) tùy mùa đánh cá lên hay cá lại. Mục đích của lưới lưng là chặn đường bầy cá đang đi tới dọc theo gành đá, buộc chúng chuyển hướng vào rọ lưới đã đón sẵn.

- Trệt rọ: đoạn lưới kéo từ thuyền đăng đến bè cái, dài khoảng 50 hèo (= 85m).

- Trệt trán (hoặc tráng theo âm địa phương): đoạn lưới giăng từ bè cái đến bè dọc, dài khoảng 17 hèo (= 28m).

V

- Vạn: làng chài dọc theo vịnh biển, cửa sông.

- Vào giềng: nối giàn lưới với các dây giềng.

- Vuốt nạp: nối nạp cái với dây giềng.

X

- Xã lạch: người quản lý và thu thuế nghề biển ở mỗi thôn làng.

- Xỏ lái: thanh gỗ làm sống đuôi thuyền.

- Xỏ mũi: thanh gỗ làm sống mũi thuyền.

- Xô lưới: thả lưới rút xuống.

- Xôm: động tác tiến tới của thuyền đăng. Khi người coi nước hô “Lui” thì thuyền neo lui còn thuyền đăng đi tới cho giàn lưới bửng cong lại, nhập vào giàn lưới hôm.

- Xuồng sai: loại xuồng chèo nhỏ, cơ động, dùng để di chuyển khi chỉnh neo, sửa nạp hoặc thông tin liên lạc tại đầm, có khi còn dùng để bạn nghề chèo vào làng đảo chơi vào ban đêm.

 

Nguyễn Man Nhiên
Số lần đọc: 4773
Ngày đăng: 21.03.2007
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Ngày xuân viếng cảnh chùa Bà - Nguyễn Man Nhiên
Tục ngữ dân tộc Mường - Nguyễn Văn Hoa
Nếp xưa , tết Việt - Nguyễn Man Nhiên
Hò giã gạo – Dân ca Ninh Hoà - Nguyễn Man Nhiên
Phụ lục: Những câu hò giã gạo Ninh Hoà - Nguyễn Man Nhiên
Trò diễn dân gian “ Hát mộc “ –Một vốn quý trong di sản văn hoá Khánh Hoà - Nguyễn Man Nhiên
Lưới đăng – Nghề biển truyền thống ở Khánh Hoà - Nguyễn Man Nhiên
Nhà mái lá – Nét văn hoá độc đáo của làng quê Bình Định - Mai Thìn
Hát lễ- hát bội Bình Định - Mai Thìn
Hò giã gạo Bình Định – sản phẩm độc đáo của nhà nông - Mai Thìn
Cùng một tác giả
Rồng Việt (dân gian)