Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.384 tác phẩm
2.747 tác giả
526
116.585.960
 
Thương nhớ một thời : nhân đọc tập thơ RU EM RU TÔI của Trương Vĩnh Tuấn ,Nhà xuất bản Hộii nhà văn – 2003.
Nguyễn Đức Thiện

Trừ một bài giới thiệu của nhà thơ Phạm Tiến Duật, hai bài thơ tặng của nhà thơ  Lê Quang Sinh và N.T.H, tập thơ RU EM, RU TÔI  của nhà thơ Trương Vĩnh Tuấn còn lại 44 bài. 44 bài mà có tới gần 20 bài về người lính với những buồn vui của họ. Không kể đến vài bài khác liên quan đến chiến tranh và bóng dáng người lính ẩn hiện trong đó. Thế mới biết cái thành phần xuất thân của Trương Vĩnh Tuấn vẫn còn chi phối mạnh mẽ đến những dòng thơ của anh.

 

            Chiến tranh đã lui vào dĩ vãng gần ba mươi năm rồi. Thời gian đủ để ra đời một con người và thành một thế hệ mới. Với những người lính một thời đắm mình trong chiến tranh thì vẫn tưởng như mới là hôm qua. Hôm qua cả đoàn quân ra trận. Cuộc hành quân dặng dặc dài ấy có cả triệu người ra phía trước. Tất cả là phía trước. Ở đó có bom, có đạn, có những nòng súng dõi tìm trái tim người lính mà găm đạn vào. Vậy mà những người lính vẫn ra phía trước. Ba mươi năm rồi Trương Vĩnh Tuấn còn viết:

            Đường chúng mình đi : Suối sâu núi cao

            Vai chúng mình mang: Non sông gấm vóc

Đích chúng mình đến : Diệt tan quân xâm lược

Việc chúng mình làm: Nổ súng tiến công

                                                      ĐI HÁT

            Trong lúc bây giờ nhiều người làm thơ hăm hở đi tìm những sắc thái tình cảm thời cơ chế thị trường, với những câu thơ tình, những bài thơ tình thì Trương Vĩnh Tuấn vẫn viết như thế.  Vì đã có một thời như thế thực. Một thời tiếng gọi từ chiến trường thôi thúc. Người người ra trận. Ban đầu tuyển quân còn tính tuổi, tính chiều cao cân nặng. Còn tính nhà này chỉ một người ra trận. Chiến tranh càng ác liệt thì người ra trận càng đông hơn. Trên đồng ruộng Miền Bắc vắng bóng đàn ông con trai, học sinh rồi sinh viên cũng gác bút lên đường. Trong hàng quân hồi đó có cả những chàng trai mới rời chiếc khăn quàng đỏ,má vẫn còn một lớp lông măng. Biết phía trước là khốc liệt, là chết chóc mà vẫn ra đi. Những câu thơ trên đây của Trương Vĩnh Tuấn như một bản tổng kết về tư tuởng của những người ra đi ngày ấy. Nói ra, chỉ những người lính mơi tin rằng ngày ấy họ ra đi lạc quan lắm. Dù ngồi trên những chiếc xe chòng chành chạy trên những con đường chiến lược với những cú xóc nảy người hay bước những bước nặng nề trên đường trong những cuộc hành quân bộ, người lính vẫn cứ lạc quan. Một cánh hoa rừng chợt gặp, một con suối trong veo róc rách chợt thấy, tiếng chim rừng chợt nghe khi tiếng gầm rú của máy bay tạm ngưng, tiếng súng, tiếng bom tạm dứt, cũng làm người lính lúc đó xao xuyến và tưởng tượng ra những hình ảnh đẹp nhất. Có cả những người lính tranh thủ mươi, mười lăm ngày phép lấy một cô vợ để suốt dọc đường hành quân cứ tủm tỉm cười nhớ về đêm tân hôn và hình dung đứa con của mình rồi sẽ ra đời. Ra trận mà vẫn vang tiềng cười, rộn tiếng hát. Niềm lạc quan từ ngày đó bây giờ sau ba mươi năm Trương Vĩnh Tuấn còn nhớ và vẫn viết:

Người ta thì kệ người ta

Mình là lính, vẫn chỉ là lính thôi

Thì mua, thì bán, thì mời

Thì xin giữ hộ nụ cười vô tư

VU VƠ

Có thể câu thơ này có người còn bảo: Trương Vĩnh Tuấn viết về người lính bây giờ thì sao. Nhưng những câu thơ sau thì người lính xưa không thể lẫn vào đâu được:

Mà thôi kể làm chi những chuyện đời thường

Đã là lính chấp gì điều vô nghĩa

Chỉ còn những bài ca thuở đó

Và chỉ còn thuở đó để dành riêng

ĐI HÁT

Đúng thế đấy. Người lính thời đó họ hát vô tư lắm. Người hát hay hát đã đành, người hát không hay cũng cứ hát vô tư. Họ hát trong chiến hào. Hát trong đêm ngủ rừng, hát trước giờ ra trận, hát cả khi muốn làm cho vết thương đồng đội bớt đau. Không đàn, không sáo vẫn hát. Gõ bát, gõ nồi quân dụng làm nhịp mà hát. Tiếng hát không  thể thiếu trong cuộc hành quân ra trận ngày xưa. Anh còn viết:

Anh không biết nói những điều khác đâu

Ơ với rừng vốn quen nói thật

Như đời lính từng yêu tha thiết

Nhành cây ngọn cỏ cánh rừng

THƠ TÌNH CỦA LÍNH.

Anh còn viết:

Những cánh rừng đã về với xa xăm

Hoa không tên cũng đi vào muôn thuở

Để lại trong anh nỗi nhớ

Những buổi chiều bên cánh võng êm êm

HOA KHÔNG TÊN

Hay như :

Chiến tranh ! Chiến tranh

Và lớp lớp chàng trai lên đường ra trận

Lúc chia ly bao lời hứa hẹn

Trong tiếng bom, lửa cháy ngút trời.

VIẾT RIÊNG CHO EM

Bom thì bom, đạn thì đạn, và lửa nữa, người lính vẫn cứ tin vào ngày chiến thắng, vì thế họ mới hứa hẹn chứ. Nhưng đau xót thay đâu có phải lới hứa hẹn nào cũng thực hiện được.Bởi có người vĩnh viễn chẳng trở về. Điều này đã dẫn đến những dòng viết thực xúc động của Trương Vĩnh Tuấn về đồng đội của mình, những người đã nằm xuống ở chiến trường.

Bạn anh  chết tự lâu rồi

Trước hai phút khi chúng mình loan tin chiến thắng

Anh chôn bạn dưới cánh rừng vắng lặng

Không biết cỏ xanh rờn đã lấp lối lâu chưa.

VIẾT CHO RIÊNG EM

Có cảm giác rằng lâu lâu Trương Vĩnh Tuấn lại nhói đau khi nhớ đến những đồng đội đã khuất. Ngay cả lúc đi chơi, đi hát, uống rượu hay cả trong cuộc sống gia đình , khi yêu, Trương Vĩnh Tuấn đều dành những tình cảm riêng cho những người đã hy sinh.

Tao ngồi trong phòng Karaokê

Hát vang bài ca thuở ấy

Chúng mày ơi ! ở nơi đâu vậy

Có nghe tiếng tao gào

 

ĐI HÁT

Tao gọi sao chúng mày không thưa

Mà mưa cứ rơi- mà gió cứ thét

Giặc đã chạy rồi sao cứ thẳng hàng như vậy

Bia rượu rất nhiều đứng dạy mà vui

GỌI BẠN

Trong tiệc vui Trương vĩnh Tuấn đang nhớ đến bạn, nhớ đến những hàng mộ trong nghĩa trang . Trong ly rượụ, ly bia thế nào cũng có vị mặn của những giọt nước mắt nhớ thương bạn bè, những người một thời với Trương Vĩnh Tuấn từng đói một bữa cơm, thèm một bữa rau và đắng miệng vì thiếu muối.

Anh viết trong một chuyến đi :

Rừng dưới nước – con đường mòn dưới nước

Những căn hầm, những chiến địa năm xưa

Đồng đội ta, ai đó bây giờ

Chìm dưới nước, tất cả chìm trong nước

ĐI TRÊN LÒNG HỒ YA LY

Biết làm sao được. Nhất định đất nước phải dựng xây, phải làm giàu. Chấp nhận thôi, nhưng vẫn cứ có cái gì tiếc nuối.

            Đêm ba mươi tết, giờ phút linh thiêng nhất của một năm, Trương Vĩnh Tuấn cũng nhớ đến bạn bè. Bài thơ KỂ CHO BẠN NGHE cho tôi cái cảm giác lúc đó Trương Vĩnh Tuấn vừa thắp xong một ném nhang cho bạn, chắp hai tay lại, đứng trước làn khói mong manh mà tâm sự với bạn thay cho lời nguyện cầu :

            Đêm giao thừa lạnh lắm

Chỗ chúng mày lạnh không

Suối bây giờ có trong

Hoa bây giờ có thắm

Dâng chung này rượu nhạt

Kể huyên thuyên vài câu

KỂ CHO BẠN NGHE

Trương Vĩnh Tuấn có huyên thuyên đâu, anh đang ngậm ngùi nhớ bạn đấy chứ. Phải thực ngận ngùi thương nhớ mới viết ra như thế. Và chỉ có viết ra được như thế mới nguôi ngoai. Có những lúc, Trương Vĩnh Tuấn còn hóa thân vào bạn mình , để từ cõi âm nói những lời tri kỷ:

Thắp nén nhang khói bay lên trời

Có đặt vòng hoa nắng mua dầu dãi

Thế gian này, chúng tôi không ở lại

Nhưng một lần đã có mặt chúng tôi

LŨ CHÚNG TÔI

Người ta bảo, khi thi sĩ buồn, thơ thi sĩ sẽ hay. Trương Vĩnh Tuấn cũng có những nỗi buồn như của bao nhiêu thi sĩ khác. Nhưng nỗi buồn khi nhớ đến những đồng đội đã ngã xuống trên chiến trường là một nỗi buồn sâu sắc:

Gió ở nghĩa trang hình như xanh hơn

Nắng ở nghĩa trang hình như vàng hơn

Đất ở nghĩa trang hình như đỏ hơn

Đứng ở nghĩa trang tim mình tím quặn

NGHĨA TRANG  

Tất cả đều mơ hồ. Màu của gió, của nắng, của đất, đều mơ hồ. Riêng nỗi đau ở nghĩa trang là xác định, là rõ ràng.

Chiến tranh đã qua rồi. Có một lần một em nhỏ hỏi tôi :” Chú ơi năm At Dậu - 1968  miền Bắc đói lắm phải không chú , cả triệu người chết đói kia mà”. Nghe mà tôi giật mình. Cậu bé ấy, tuổi ấy ít nhất cũng học hết bậc trung học phổ thông sao mà lầm lẫn lịch sử như thế. Một lần khác. Là một người đàn bà tuổi ngoài 40, làm cái việc dẫn chương trình lễ hội truyền thống ở một huyện. Trước đông đảo biết bao nhiêu người bà dõng dạc: “ Năm Ất Dậu - 1946 , 27 chiến sĩ Rưng Rong …” Tôi giật mình tưởng bà lầm. Nhưng không phải, thêm một lần nữa bà đọc: “ Năm At Dậu – 1946 ở Rừng Rong “ . Bà ta không lầm mà bà ta quên mất rằng năm At Dậu là năm 1945 , ở miền Bắc cả triệu người chết đói. Thời gian có thể làm cho người ta quên nhiều lắm. Nhưng có những người không quên, không muốn quên, không thể quên một thời cả đất nước ta đánh giặc. Trong đó có những người lính ra trận với vai trò tiên phong. Trong số đó có nhà thơ Trương Vĩnh Tuấn.

Nguyễn Đức Thiện
Số lần đọc: 3734
Ngày đăng: 20.04.2007
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Đọc Am Vang Của Sóng , nhà thơ Nguyễn Hải Thảo - Hoàng Thị Giao
Mười hai con giáp- một góc văn hoá phương Đông - Nguyễn Nguyên An
Với bài thơ dù lượn của Song Phạm - Lê Anh Thu
Thơ Mai Văn Phấn , Tiếng nói tỉnh táo và đa thanh - Nguyễn Hưng Hải
Tập thơ “100 bài thơ hay nhất thế kỷ XX” – Tôn vinh thơ hay… - Nguyễn Tý
Thi sĩ Thuý Kiều - Nguyễn Minh Hùng
Trao đổi về 7 bài thơ của tác giả Nguyễn Đăng Trình - Hoàng Thị Giao
Những sai lầm ngộ nhận về cố triết gia Kim Định - Lê Việt Thường
Đi tìm những vầng trăng trong thơ Hàn Mặc Tử - Ngữ Yên
Arthur Rimbaud . Tâm hồn nào không lầm lẫn - Vũ Trọng Quang
Cùng một tác giả
Không thể đùa (truyện ngắn)
Ban bè một thuở (truyện ngắn)
Tấm kiếng rạn nứt (truyện ngắn)
Hàng xóm (truyện ngắn)
Mẹ (thơ)
Kịch (truyện ngắn)
Bến cây ổi (truyện ngắn)
Lu Lu (truyện ngắn)
Gío (thơ)
Một khoảng xô bồ (truyện ngắn)
Ông lão bán chim (truyện ngắn)
Cái nợ đồng lần (truyện ngắn)
Giữa vòng vây (truyện ngắn)
Chuyện con ruồi (truyện ngắn)
Tiếng gõ cửa (truyện ngắn)
Đêm (thơ)
Bàn về Thơ (tiểu luận)
Mái tóc ngày xưa (truyện ngắn)
1111 (thơ)
Sông em (thơ)
Trăng cuối tháng (truyện ngắn)
Góc Rừng (truyện ngắn)