Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.333 tác phẩm
2.747 tác giả
722
116.007.054
 
Thưa lại cùng Giáo sư Cao Thế Dung
Hà văn Thùy

May mắn được đọc một số tiểu luận của Giáo sư Cao Thế Dung trên mạng, chúng tôi thấy đó là những bài viết có kiến thức sâu rộng về cổ sử, được diễn tả một cách thuyết phục. Nhưng đáng tiếc bài Tên nước Việt Nam (http://www.mevietnam.org/NguonGoc/ctd-tennuocvietnam.html) lại là bài viết thiếu mạch lạc đồng thời có những lý giải không thuyết phục. Với lòng kính trọng Giáo sư, chúng tôi xin thưa lại đôi lời.

1/ Con người có mặt trên đất nước ta từ bao giờ?

Mở đầu phần Nhân chủng, Giáo sư Cao Thế Dung viết: “có thể khẳng định con người đã có mặt trên đất Việt khoảng trên 30.000 năm trước. Khảo cổ học cũng đã tìm được những chiếc răng của người hóa thạch vào thời kỳ địa chất Pleistocene cách nay khoảng 300.000 năm”

 

Xuống dưới mấy dòng, là:

“ Các nhà khảo cổ học Pháp khai quật ở nhiều địa điểm Quảng Bình, Quảng Trị, nhất là ở Sa Huỳnh (Quảng Ngãi) cho thấy con người nguyên thủy xuất hiện ở đây trước cả 10.000 năm.”

Và kết thúc phần này:

“ Con người xuất hiện ở nước ta vào loại sớm nhất, vào khoảng trên 10.000 năm.”

 

Đọc đoạn văn trên, người đọc bình thường sẽ bị rối trí vì không thể nào hiểu nổi: con người xuất hiện trên đất nước ta chính xác vào thời điểm nào? 30.000 năm, 300.000 năm hay 10.000 năm? Và phải chăng chủ nhân của văn hóa Sa Huỳnh 10.000 năm trước vẫn là người nguyên thủy?

 

Quả là không thể ngờ được rằng, trong bài viết của vị giáo sư lại như vậy ?

 

Thực ra, nội dung mà đoạn văn trên muốn đề cập là thế này:

-          Tại di chỉ Núi Đọ, các nhà khảo cổ phát hiện chiếc răng hóa thạch tuổi 300.000 năm. Đây là dấu tích của người vượn đã tuyệt chủng.

-          Tại di chỉ Sơn Vì, tìm thấy sọ người hiện đại Homo sapiens 32.000 năm tuổi. Đây là vết tích sớm nhất của người hiện đại được tìm thấy ở nước ta. Nhưng đó là tri thức của thế kỷ XX. Một khi đã đề cập công trình của Giáo sư Y. Chu thì phải viết đầy đủ thế này: “Nhưng theo G.s Chu cùng đồng nghiệp, thì người hiện đại đến nước ta khoảng 60 -70.000 năm trước. Như vậy có thể nói rằng, người hiện đại có mặt trên đất nước ta khoảng 60 – 70.000 năm trước.”

-          Người có mặt ở Quảng Bình, Quảng Ngãi 10.000 năm trước không phải người nguyên  thủy mà là hậu duệ của người Hòa Bình, là chủ nhân của văn hóa Sa Huỳnh.

 

Những vấn đề về thời tiền sử của người Việt do nhiều tư liệu và giả thuyết khác nhau nên rất nhạy cảm. Chúng tôi có cảm tưởng, khi rời khỏi sở trường là cổ sử Trung Hoa, Giáo sư trở nên lúng túng.

 

2/ Về “giả thuyết Sở-Việt”

 

Từ tư liệu trong cổ sử Trung Hoa và ý kiến của một số học giả người Pháp, Giáo sư Cao Thế Dung nghiêng về hướng tán thành thuyết của Aurousseau cho rằng:“ người An Nam ngày nay là dòng dõi trực tiếp của người nước Việt bị diệt năm 333”.

 

Giả thuyết Sở-Việt vấp phải những mâu thuẫn sau:

a/ Hoàn toàn phủ định truyền thuyết Hùng Vương dựng nước. Một lý thuyết đưa ra mà trái ngược tới mức phủ định truyền thuyết gốc của dân tộc là điều phải hết sức đắn đo, thận trọng.

 

b/ Nếu thế kỷ IV TCN, người Sở - Việt mới tràn xuống đất Việt để sản sinh ra người Việt Nam hiện đại thì những người có mặt ở nước ta từ Sơn Vi, Hòa Bình, Phùng Nguyên, Sa Huỳnh đi đâu? Họ có vai trò gì trong nhân chủng Việt Nam hiện đại?

 

c/Trái với chứng cứ nhân chủng học.

 Thời đại Đá Mới, dân cư trên lãnh thổ Việt Nam thuộc hai đại chủng Australoid và Mongoloid cùng với các loại hình hỗn chủng giữa chúng cộng cư với nhau, trong đó Indonesien và Melanesien là hai thành phần chủ yếu. Sang thời đại Đồng - Sắt, người Mongoloid đã là thành phần chủ thể trong khối cư dân ở Việt Nam, người Australoid mất dần đi trên đất nước này, hoặc do thiên cư, hoặc do đồng hoá.”(1)

 

Kết luận trên một lần nữa được tiến sĩ M. Oxenham của Đại học Quốc gia Úc khẳng định: “Người Việt từ trước thời đá mới đã có biểu hiện của giống người Úc châu [Nam đảo] hay Đa đảo Melanesian, nhưng người Việt từ đầu thời Đồng thau đã có biểu hiện đặc trưng của giống người Ðông Nam Á. Sự hiện diện của cả hai nhóm sắc tộc này sát cánh nhau trong khu mộ táng cho thấy đã có sự hỗn hoà giữa hai chủng ở mức độ đáng kể, có thể là đánh dấu những nguồn gốc sớm nhất về dân cư Việt hiện thời, vốn đã tương đối ổn định khoảng năm 2000 TCN.”(2)

 

Như vậy, người Việt hiện đại ra đời từ hơn 2000 năm trước khi người Sở - Việt di cư xuống, nên không thể: “nói quyết rằng người An Nam ngày nay là dòng dõi trực tiếp của người nước Việt bị diệt năm 333”(!)

 

d/ Khoảng 300 năm TCN, người Việt hiện đại mới khai sinh thì giải thích làm sao việc họ là chủ nhân của khối lượng lớn trống đồng loại tinh xảo tập trung trên địa bàn miền Bắc Việt Nam? Để có một văn minh đồng thau như vậy, phải có một trung tâm kinh tế, quyền lực, văn hóa đủ mạnh. Có nghĩa là ở Bắc Việt Nam lúc đó đã có một nhà nước mạnh và văn minh hơn Sở-Việt.

 

Không chỉ Giáo sư Cao Thế Dung mà một số nhà nghiên cứu khác như Nguyên Nguyên, Trương Thái Du… cũng theo quan điểm trên.

Chúng tôi hiểu, đó là lối thoát duy nhất cho học thuật Việt Nam một thời. Nghìn năm trước, khi chúng ta bước vào tự chủ thì trước mặt là nền văn minh Hoa Hán sừng sững. Trí thức Việt chỉ là những chú học trò nhỏ. Họ đã học tất cả, từ Kinh Thư đến bách gia chư tử. Bức xúc tìm về cội nguồn, họ theo Tư Mã Thiên ngược tới nhà Hạ rồi nước Việt thời Câu Tiễn. Khi có mặt ở phương Đông, các học giả phương Tây cũng lóa mắt trước sử liệu Trung Hoa. Một người trong số họ là Aurousseau đã xử lý tới tận cùng cổ sử Tàu rồi đề ra lý thuyết khả dĩ nhất về cội nguồn dân Việt là Sở Việt. Các học giả người Việt khi xào xáo “tới gáo” nguồn cổ thư Trung Hoa cũng thấy mình không thể vượt qua ông thầy Tây kia. Tác giả Nguyên Nguyên (Thử đọc lại truyền thuyết Hùng Vương - dunglac.net) không dám phủ định truyền thuyết Lạc Long Quân- Âu Cơ, đã đưa ra lý thuyết “fast forward” cùng nhiều biện luận để lùi thời điểm lập nước xuống hơn 2000 năm…

 

Nhưng sang thế kỷ này, với những phát kiến của công nghệ gene, nhất là công trình của nhóm Giáo sư Y. Chu, chúng ta có con đường khác tìm tới cội nguồn dân tộc.

 

3/ Giả thuyết: “Người Lạc Việt từ lưu vực Hoàng Hà trở về dựng nước Văn lang”

 

Dựa trên những phát kiến khoa học mới, nhất là công trình của tập thể các nhà di truyền Trung Quốc và Mỹ cộng tác trong Dự án Đa dạng di truyền người Trung Hoa (Chinese Human Genome Diversity Project), chúng tôi xin đưa ra giả thuyết “Người Lạc Việt từ lưu vực Hoàng Hà trở về dựng nước Văn lang” như sau:

 

Khoảng 40.000 năm trước, người Việt từ Đông Nam Á đi lên khai phá đất Trung Hoa. Cho đến thiên niên kỷ thứ IV CTN, họ đã làm chủ vùng đất mênh mông từ Đông Nam Á tới phía nam sông Hoàng Hà, có nhân số khoảng 2/3 nhân loại và phát triển nền nông nghiệp tiên tiến.

Cũng khoảng thời gian này, một số nhóm người Mongoloid từ Đông Nam Á đi lên, định cư ở phía tây bắc Trung Hoa và chuyển dần từ săn bắt hái lượm sang du mục, là tổ tiên của chủng  Mongoloid phương Bắc.

Khoảng giữa thiên niên kỷ thứ III TCN, người du mục xâm phạm lãnh thổ của người Việt, cướp của, hiếp dâm, bắt người làm nô lệ, mức độ ngày một tăng. Do vậy đã xuất hiện liên minh các bộ lạc Bách Việt phía bắc sông Dương Tử do Đế Lai chỉ huy với các bộ lạc phía Nam Dương Tử do Lạc Long Quân lãnh đạo chống lại quân xâm lăng. Khoảng năm 2600 TCN, người Mông Cổ do họ Hiên Viên dẫn đầu mở chiến dịch lớn tổng tấn công ở Trác Lộc. Liên quân Việt thua trận, Đế Lai hy sinh. Lạc Long Quân dẫn đoàn quân dân Việt lên thuyền theo dòng Hoàng Hà ra biển xuống phía nam, đổ bộ vào vùng Nghệ Tĩnh. Phần lớn người Việt ở lại đã hòa huyết với người Mông Cổ, sinh ra chủng Mongoloid phương Nam. (3)

 

Trong đoàn thuyền nhân trở về Việt Nam, có một số người lai Mông Cổ được sinh ra từ những cuộc xâm lấn trước đó và cả những phụ nữ bị quân Mông Cổ hãm hiếp mang thai. Khi trở về, họ sinh những con lai thuộc chủng Mongoloid phương Nam. Do sự chiếm đóng mở rộng, cuộc di tản khỏi lưu vực Hoàng Hà còn tiếp tục và bổ sung thêm người Mongoloid phương Nam cho dân cư Việt Nam. Những người mang gene Mongoloid phương Nam này lai với người bản địa thuộc loại hình Australoid, làm chuyển hóa dân cư Việt Nam sang loại hình Đông Nam Á, là tổ tiên của người Việt Nam ngày nay.

 

Đoàn thuyền nhân từ Hoàng Hà trở về, do cùng chủng tộc và ngôn ngữ nên dễ dàng hòa nhập với dân bản địa. Người mới về, do hoạt động trên vùng đất rộng, phải thường xuyên đối mặt với kẻ xâm lấn phương Bắc nên biết cách tổ chức nhà nước và kỹ thuật quân sự, vì vậy được cộng đồng bản địa tôn làm thủ lĩnh và khi lập nước Văn Lang thì gọi lả vua. Nhờ ưu thế lai của chủng Mongoloid phương Nam, nhờ được tổ chức thành nhà nước, người Văn Lang trở nên hùng mạnh, sáng tạo văn hóa đồng thau, đặc biệt là chế tác trống đồng.

 

Do thuyền nhân trở về không đông nên số người mang gene Mongoloid phương Nam có mặt lúc đầu ở Văn Lang không nhiều, vì vậy quá trình chuyển hóa dân cư Việt khá chậm chạp, phải trong thời gian hơn nửa thiên niên kỷ, cho tới 2000 năm TCN mới ổn định.

 

Giải thích và chứng minh

 

Giả thuyết do chúng tôi đề xuất có những ưu điểm sau:

a/ Phù hợp với truyền thuyết Hùng Vương dựng nước và cũng chứng minh Ngọc phả đền Hùng nói đúng sự thực là có đoàn thuyền nhân đổ bộ vào Nghệ Tĩnh

 

b/Từ phân tích sọ cổ, nhân chủng học phát hiện việc chuyển hóa di truyền của dân cư Việt Nam thời Đồng-sắt. Nhưng không tìm được sọ Mongoloid thuần chủng, chứng tỏ ít nhất là vào thời kỳ này không có người Mongoloid thuần chủng trên đất Việt Nam. Chính vì vậy mà Nguyễn Đình Khoa không dám khẳng định nguyên nhân của sự chuyển hóa: “hoặc do thiên cư, hoặc do đồng hóa.”

Trong cổ sử cũng như truyền thuyết, không hề ghi nhận sự thiên cư của chủng Mongoloid tới Việt Nam vào thời gian này. Như vậy chỉ còn khả năng duy nhất là có số nhỏ người Mongoloid phương Nam xuất hiện và đồng hóa làm biến đổi gene của dân cư Việt.

Giả thuyết của chúng tôi giải thích thỏa đáng điều này: cách nhau vạn dặm núi rừng và một biển người Bách Việt dòng Australoid, gần như đồng thời, bên sông Hoàng và sông Hồng, chủng người Mongoloid phương Nam xuất hiện. Nguyên nhân tại đâu? Chỉ còn khả năng duy nhất là có những người lai Mông Cổ trong đoàn thuyền nhân từ sông Hoàng Hà đi về Việt Nam. 

 

c/ Giả thuyết của chúng tôi cho phép chứng minh ngược lại thuyết của Aurousseau: Sau 2500 năm TCN, người từ Việt Nam di cư bằng đường bộ và bằng thuyền, truyền bá  gene Mogoloid phương Nam ra khắp địa bàn nước Văn Lang rộng lớn, làm chuyển hóa di truyền của người Việt ở phía nam Dương Tử. Trong thời gian này, người Mông Cổ và hậu duệ của họ chỉ chiếm giữ phần đất nhỏ thuộc Cửu Châu, diện tích chưa đến 120.000 km2. Phía bắc Dương Tử vẫn là địa bàn của người Bách Việt, được gọi là Nam Di. Khi bị dồn đến sát dòng sông sinh tử, sự kháng cự của người Việt ngày càng quyết liệt, vì vậy việc tiếp xúc dẫn đến hòa huyết giữa hai kẻ thù hiếm xảy ra hơn. Khi Dương Tử là ranh giới phân chia nam-bắc thì sự tiếp xúc càng khó. Trong tình hình như vậy, việc lan truyền của nguồn gene từ Việt Nam lên là thuận lợi. Cố nhiên, không phủ nhận là sau đó, khi cuộc xâm lăng mở rộng, việc hòa huyết với người từ phương bắc xuống xảy ra nhiều hơn,. Khi các nước Ngô, Việt ra đời vào 700 năm sau, dân cư của nó đại đa số là chủng Mongoloid phương Nam, trong đó chủ yếu là hậu duệ của những người từ Văn Lang tới.

 

 Việc người nước Việt của Câu Tiễn trở về Việt Nam vào năm 333 TCN là lá rụng về cội, cháu con trở lại đất xưa của tổ tiên.

 

Mấy điều mạo muôi xin thưa lại, rất mong Giáo sư cùng các bậc cao minh chỉ giáo.

                                                                              

                                                          Tân Phú, Sài Gòn 5.2007

 

 

1.Nguyễn Đình Khoa. Nhân chủng học Đông Nam Á. NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp H. 1983 - trang 106                                                                                     

2.Lê Anh Vũ- Tin BBC hay tin Oxenham-talawas 3.3.05

3.Hà Văn Thùy. Tìm lại cội nguồn tổ tiên cội nguồn văn hóa. Trên máy chủ Google.

Hà văn Thùy
Số lần đọc: 5044
Ngày đăng: 16.05.2007
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Mạch thư hương -1 - Phạm Phú Viết
Mạch thư hương -2 - Phạm Phú Viết
Bàn lại với Trương Thái Du - Hà văn Thùy
Quá trình hình thành quốc hiệu Việt Nam - Trương Thái Du
Dùng thiên văn kiến giải các thuật ngữ Nam Giao, Giao Chỉ, Tượng Quận, Cửu Chân, Nhật Nam.-1 - Trương Thái Du
Dùng thiên văn kiến giải các thuật ngữ Nam Giao, Giao Chỉ, Tượng Quận, Cửu Chân, Nhật Nam.-2 - Trương Thái Du
Tính chất Việt và nguồn gốc triều Trần trong lịch sử Việt Nam -1 - Nguyễn Đức Hiệp
Tính chất Việt và nguồn gốc triều Trần trong lịch sử Việt Nam -2 tiếp theo và hết - Nguyễn Đức Hiệp
Ghi chú nhỏ về An Dương Vương - Trương Thái Du
Thần và Đất - Đinh Văn Hạnh
Cùng một tác giả
Xứ ra ghe (truyện ngắn)
Nước Mắt Bỏng (truyện ngắn)