Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.377 tác phẩm
2.747 tác giả
568
116.535.868
 
Những ám thị phố trong thơ Châu
Liêu Thái

M – N & Z* là một kiểu viết tắt? Một kiểu chơi ngôn ngữ Hip-Hop của thời đại điện toán và di động? M = Em, N = Anh, vậy Z = ? Zero, Zỏm, Zâm…? Vậy nên giải mã tựa thơ theo cách nào đây? Em – Anh nghĩa là không có anh trong tồn tại... Chỉ có sự Zâm là có ý nghĩa, là trường tồn? Hay là Em cộng hưởng với Anh làm nên một sự… === Zâm? Hoặc là Em cộng với Anh và Cái Zâm hiện hữu như một cuộc chơi cà chớn của Zâm Zâm Zâm… Khó, quá khó để lý giải một cách rõ ràng…! Chỉ có một điều duy nhất có thể cảm nhận một cách rõ nét là khi đọc thơ Châu, dù trong tâm thế nào, trong cảm thức nào vẫn bàng bạc dưới mạch chảy ngôn ngữ một dòng ám thị phố, hình hài phố trong cách nhìn của Châu vừa gần gũi thân thiện vừa bi trắc xa xăm những bóng dáng vụn rời…

 

Nếu muốn gặp tôi

buổi chiều, café vỉa hè Nguyễn Du

rất lâu

đợi phố lên đèn

 

Nếu muốn gặp người dưng

buổi chiều, café vỉa hè Nguyễn Du

phố trôi dưới tán cây

người trôi dưới tán cây

tham vọng trôi dưới tán cây

cao ngạo trôi dưới tán cây

ma mãnh, thủ đoạn, đua tranh cũng hối hả trôi tuột dưới tán cây

tôi ngồi lại

rất lâu

đợi phố lên đèn

 

một cái tôi to đùng

tôi đã đem nhét dưới đáy chiếc ba lô cũ màu xám xanh

tách khỏi những gương mặt quen

tôi - người lạ

buổi chiều, café vỉa hè Nguyễn Du

ngồi nghe đường phố thở

 

nghe mình đang thở.

 

15/4/2006

 

(Tôi, tr.19, M – N & Z)

 

Tôi xin phép không bàn về ý hướng và sự lựa chọn xuất bản độc lập bằng con đường in photocopy (tiếp nối một quá trình khá dài và bền của những tác giả, nhóm thơ, nhóm nghệ sĩ miền Nam – Sài Gòn, miền Bắc và bây giờ là đến miền Trung, Đoàn Minh Châu trở thành người khai phá, người châm ngòi nổ cho phong trào xuất bản “không chính thống” [không thông qua con đường ấn loát của nhà nước] tại Quảng Nam – Đà Nẵng), M – N & Z, ngoài ý nghĩa là một tác phẩm “ngoài luồng” tiên phong tại eo đất này, còn dung chứa một hàm lượng ý nghĩa, ý niệm, cảm quan lịch sử mà có lẽ hoàn toàn chưa có trong những người “chính thống” tại xứ sở “chó ăn đá gà ăn muối người ăn khoai luồi (nướng vùi trong tro) địt thúi um” này.

 

Những con đường chạy qua tay tôi

đời xuôi

mấy con đường đi ngược

dòng vội vàng không ngưng được

im lìm

nhận chút dửng dưng.

Những con đường ngang dọc kẽ tay

chằng chịt sợi cày vá víu

lối rẽ không ngờ

giận bàn chân ngơ ngác.

 

Nhân gian có mấy con đường

mà một tay đã ngàn lối rẽ?

 

2002

 

(Những con đường, tr. 01, M – N & Z)

 

Sở dĩ người viết bài này không muốn nhắc đến ý thức phản tư của tác giả về vấn đề ấn loát cũng như tự do sáng tạo vì thiết nghĩ điều này ông cần nhắc đến độc giả cũng đã thừa hiểu tình hình, thực trạng sáng tác tại Việt Nam hiện nay. Cũng chính vì lẽ này mà những năm gần đây tại đất nước nhỏ bé, nghèo và lạc hậu có đẳng cấp trên thế giới của chúng ta lại bùng nổ một “cuộc cách mạng ấn loát phi chính thống” đến độ phì đại và kéo theo không ít hệ lụy trên mọi nghĩa (trong đó đáng nhắc trước tiên có lẽ là hệ lụy của những người tiên phong, khởi xướng và châm ngòi cho tinh thần phản đối cái chính thống rởm như: Nguyễn Quốc Chánh, Trần Tiến Dũng, Lý Đợi, Bùi Chát… Họ đã nhận không ít những chỉ trích thiếu thiện chí và khoa học, những khó khăn trong sinh hoạt đời thường, những bất an về mặt an ninh…). Nhưng nhìn chung, quá trình dài của những đột phá [nói phá phách cũng không sao!] vẫn thiếu một chút gì đó về chiều sâu cảm xúc, chiều sâu tâm linh – một chất liệu mà nếu thiếu đi đối với người Á Đông thì e rằng giống như một bữa ăn thiếu gia vị… Điều này cũng dễ hiểu với một sự khai phá, một cuộc dấn thân và chấp nhận đánh đổi của những người tiên phong, không ai có thể tránh khỏi những khiếm khuyết mang tính chất nền móng nội tại để lớp sau lại tiếp tục đặt những viên gạch, tiếp tục xây nên tòa nhà nghệ thuật mà những người tiên phong đã phác họa kiến trúc, đã xây móng và đã chờ đợi…

 

… Không tiếc nhiều những đêm gần sáng ngóng bình minh đổ trên cửa sổ

giấc ngủ dỗ thật sâu cứ lệch lạc âm thanh chim lợn đậu nóc nhà rủ linh hồn đi rong

rủ rỉ vuốt từng chiếc móng tay cong xuống cào đêm nát nghiến

không nhớ nữa bước chân mình…

 

(Trích Bụi, tr. 11, M – N & Z)

 

Và sự chín muồi, tính định hình của những người đến sau vốn nằm trong qui luật chuyển vận của dòng lịch sử thi ca – một sự chuyển vận có tính nhân quả. Có thể nói, kể từ 40km/h của Vũ Thành Sơn, DAO của Lê Hải, những tác phẩm thơ “không chính thống” càng về sau càng mang đến cho độc giả những hiệu ứng tốt trên phương diện tính gần gũi và khả năng thông tải của ngôn ngữ. M – N & Z không nằm trong trường hợp ngoại lệ.

 

Em vác vành trời ước mơ sao vừng đen

qua những con phố tênh hênh gió

qua những hộp nhà thấp thoáng bụi dừa kiểng

để lại phía sau tiếng rao vỡ ra

Những vì sao vừng đen không bay nổi…

 

(Trích Người bán bánh đa hè phố Hà Nội, tr. 02, M –N & Z).

 

Góc nhìn của Châu giàu nữ tính, trong trẻo và hồn hậu. Chỉ có tấm lòng yêu đời, yêu người, yêu những vui buồn riêng chung của đời sống và của cả bản thân mới mang cho người cầm bút một mối nối giữa những ước mơ ẩn chất nơi tâm hồn gắn kết với thế giới quanh mình qua những hạt vừng đen, qua vành bánh tráng tròn tượng hình vành trời cưu mang những vì sao… qua những con phố tênh hênh gió… Ở đây, tôi thật sự ngạc nhiên về độ thấu thị cảm xúc và tính thấu nhập cảm giác của tác giả vào chất liệu. Dường như đã có sự thông nhập, hóa thân giữa người viết với hình tượng, chất liệu… Tất cả như hòa quyện, tan vào nhau trong vũ điệu vô thường của hiện hữu, của con chữ, của kí hiệu.

 

Những con phố trổ dài xuống ngực

chặn những con phố trổ dài xuống ngực

chặn những con phố trổ dài xuống ngực…

Từng ngày.

 

Phố âm âm lạnh

 

giở trang giấy chủ nhật

rác vô hồn bay lên

tình cờ khuôn vào ý nghĩ nhoe nhoét cả thanh âm lộn xộn tiếng rao tiếng còi xe tiếng phố

tự lúc nào

giấc ngủ chằng chịt bụi

những buổi sáng rũ mềm hơi sương

 

xoè tay hứng mặt người chảy dòng dòng quết dày mặt phố

ngẫu nhiên thấy mặt ai trong đó

quen quen như mặt mình.

 

4/12/05

 

(Phố, tr.05, M – N & Z)

 

Không thể bàn một cách trọn vẹn và đầy đủ những gì tác giả đã thác vào tác phẩm, sự khám phá, mỗ xẻ, phân tích một tác phẩm nghệ thuật chỉ có giá trị “thẩm định”, “soi mói” vẻ lấp lánh của viên ngọc trong lòng con trai biển, điều ta nhận biết được chỉ là lớp tố chất được tiết ra để cưu mang vết thương, bọc êm hạt cát để rồi dần dà làm thành ngọc. Vết thương càng đau, viên ngọc càng đẹp. Nhưng thử hỏi vì sao nó bị thương, bị thương tự bao giờ, vết thương như thế nào thì khó mà trả lời được! Càng khó trả lời hơn khi hỏi vì sao càng đau, viên ngọc càng đẹp… E rằng chỉ có sinh quyển nó đang sống, đang thở mới trả lời được ít nhiều!

 

…đêm rất lạnh đêm ngủ với một viên đá nhỏ

sưởi ấm nó nhiều tiếng đồng hồ

thấy mình nóng ran

 

đêm anh ngủ không

 

(Trích Ngủ, tr. 32, M – N & Z)

 

Những vết thương vô hình nơi hữu thể, những căn cớ bất định xuyên suốt căn phận, xuyên suốt quãng thời gian con người phải sống, phải yêu và phải bị tổn thương trong tình yêu cũng phần nào lý giải được vì sao một cô gái nhỏ nhắn, dịu dàng, ít nói, ra đi từ một thị trấn nhỏ có cái tên cũng khá khiêm cung – Phố Vĩnh lại có nỗi ám thị phố mạnh mẽ đến vậy. Dường như xuyên suốt tập thơ của Châu là những bóng phố, bóng người, những nét phố, nét đời đang nhào lộn, đang cuộn xoắn, đang đánh đu vật vã đến mức tưởng chừng như không lối thoát hoặc trơ lì, vô cảm…

 

Những dòng người trượt qua nhau

đan vào khuôn phố những nốt đen nốt trắng

Tôi một âm trầm

 

Bạn bè tôi cung bổng cung trầm lêu têu Trúc Bạch 8h tối

Âm cao vút lên bằng những mặt người ngầy ngậy

chén đĩa bát đũa tung tăng hoà âm

chân gà thịt chó góp phần bật lên những nốt thăng nốt giáng

rít một hơi dài sượt

Góc Hà Nội trong tôi xối xả những âm tạp.

 

Bên kia mặt hồ đường Thanh Niên bạt gió cuốn bóng xoắn bóng

rải dài một dòng kẻ

Thanh âm khẽ khàng tấu lên từ chuyển động của những thân thể dính cứng vào nhàu tan trong tối

Góc Hà Nội tôi âm ấm âm hiền.

 

một âm buồn cũng lem lém

sau lưng những kẻ lướt xe Hồ Tây một mình tối thứ bảy…

 

Tôi đứng ngã tư chờ đèn đỏ

và nghĩ về bản nhạc vô tận mãi không thành tác phẩm.

 

9/05

 

(Bản nhạc dang dỡ, tr. 03, M – N & Z)

 

Trở lại vấn đề thái độ được đặt ra lúc ban đầu, trước tiên, người đẻ ra M – N & Z có một thái độ dám chọn con đường ấn loát có thể gây cho bản thân nhiều phiền toái, khó khăn khi vẫn đang sống ở rẻo đất miền Trung địa hình chật, lòng người (lãnh đạo) hẹp... Và cũng trên phương diện này, vẫn còn nhiều người hội tụ nhiều yếu tố hơn Châu như: thời gian, sự tự do [trong nghĩa nơi chốn công tác], tính chuyên nghiệp… Nhưng họ lại không thực hiện, hay đúng hơn là họ không đủ dũng cảm để thực hiện (nói đến điều này, bản thân tôi cũng là người cầm bút, đồng hương với Châu, cảm thấy e thẹn và cảm phục Châu!). Thái độ này cũng nên xem là cú “châm ngòi”, cú hích đầu tiên cho loại văn học phi chính thống xứ Trung Việt.

 

Thứ đến, có lẽ cũng cần nhắc đến thái độ phản tư của Châu, phản tư lịch sử, phản tư xã hội, phản tư tôn giáo… Tất cả được lồng ghép, đan cài trong một cảm thức mang màu sắc ám thị và bất toàn, được người cầm bút kí thác vào trang viết như một dòng phim đang chảy qua trước mắt mà không thể định dạng bởi những thước phim ấy mang chất liệu đời sống sinh động và ngồn ngộn nước mắt, âm ỉ muộn phiền cũng như hân hoan đón chào vết thương đang làm da…

 

ngủ quên mấy buổi chiều chợt chiều nay tỉnh

thấy mình nằm chỏng chơ giữa ngã tư thập tự

rưng rức khóc

chiều mềm như thở

vỗ quanh một cái tên cũng chiều nay chợt tỉnh

thoát ly phố đi rỡn thánh giá

nằm lì nơi góc cống

 

không kiểm soát nổi một giọt nước lẽo đẽo theo bước chân

nỗi ám ảnh xám xanh rối rít chạy cuồng vào mạch cống

nơi đó thế giới khác đang cười

 

bội thực thanh âm hổ lốn

bội thực mớ vai trần ngon khét gió

những con đường chiều nay cũng tức tưởi xô về

 

chạm mặt tại đó

chiều nay

nước cống loang ướt nhẹp thành phố.

 

31/12/05

 

(Phố chiều cuối năm, tr. 09, M – N & Z)

 

hay:

 

Bao cao su các phòng nữ tu

một hôm họp bầu nữ hoàng

rất nhanh, tìm ra cái của nàng Maria

bị thủng.

 

10/2/2006

 

(Họp kín, tr. 15, M – N & Z)

 

Khi con người đủ chín để đối diện với cô đơn cũng là lúc anh nhận chân được bản ngã mình thông qua khúc xạ của đời sống để thấu cảm ý thức về sự bất toàn, để thấy mình là một phần của bản thể bất an. Nỗi bất an trong thơ Châu là một thứ cảm thức của vụn vỡ, kí ức cùng những miểng vụn trong hồi quang vá víu, chắp nối... Điều này diễn ra một cách rõ nét trong phương cách xếp đặt, bố cục, minh họa (phần lớn do tác giả tự vẽ) và trình tự ngày tháng không có tính nhất quán của tác phẩm. Thiết nghĩ không nên nói thêm về vấn đề này, vì độc giả sẽ tìm thấy những dấu hiệu này trong chuỗi ý thức và thời lý. Đây cũng là nét khác biệt giữa thủ pháp xếp đặt của “chính thống” và Châu (mới bài trước ghi 07/01/2006 thì bài sau đã 09/03/07 chẳng hạn!).

 

… đến và đi và những con người và hơi lạnh

lọ hoa cúc mùa đông

bức tranh màu nhàu nhĩ

chiếc đèn dầu thoảng khói

Người thiếu phụ áo đỏ xoa cái bụng tròn trĩnh sau quầy

lẩm nhẩm quãng đường sắp tới.

 

… đến và đi với cốc café pha sẵn nhạt như nước ốc

tôi dõi theo ánh mắt đang dõi theo hàng kiến bò dọc mép tường

cái đầu nghiêng nghiêng

cúi xuống

xoay ngang

chi chép

đếm tiền

ánh mắt vẫn đè lên hàng kiến thênh thênh di chuyển dọc mép tường

lùng sục một con chệch hướng

bất kể mùa đông.

 

Hai năm,

lọ hoa cúc mùa đông

bức tranh màu nhàu nhĩ

chiếc đèn dầu thoảng khói

Người thiếu phụ áo đỏ ngước mắt nhìn tôi qua cặp kính cận sau quầy

đôi môi nhạt hằn một đường nhỏ xíu.

 

Mùa đông lạnh.

 

11/12/05

 

(Quán café, tr. 08, M – N & Z)

 

Xét trên tổng thể tập thơ M – N & Z thì có thể nói rằng đây là một tác phẩm chỉ thành công về mặt nội dung và thái độ ấn loát của tác giả, mặt hình thức chỉ thành công một nửa [nếu không nói là thất bại!] bởi kiểu minh họa chẳng ăn nhập gì với tác phẩm, không mang cho tác phẩm một biểu niệm mới nào mà ngược lại còn trì kéo, đưa tác phẩm vào một quĩ đạo khập khiểng bởi tính xốc nổi, cuộn chảy của cảm xúc, ý niệm không thể cộng hưởng với thủ pháp mặc họa lai căn của thư họa chữ Việt. Dường như khi đọc xong những bài thơ của Châu, nhìn lại những minh họa, tôi không khỏi buồn cười. Xin lỗi Châu nhé, đó là sự thật. Trường hợp Châu vẽ tự nhiên hơn, đừng bị chi phối bởi các nét cọ thư pháp thì vấn đề đã khác, hiệu ứng thị giác thơ đã khác hơn nhiều.

 

ước chi em có thể xé tơi nó thành sợi nhỏ và dứt ra khỏi đôi          mắt anh thả theo tiếng chim ríu rít vội vã lúc buổi        chiều lặn vào hơi thở thành       phố vòng       cung triền miên        trôi giữa gương mặt        anh lấp lánh những con đường sẫm        màu café sữa ấm        nóng căn phòng bé nhỏ

 

của một ngày xa       xa

 

hơi thở anh rũ xuống hơi       em thở

 

thơm        thơm

 

(Trích Thơm, tr.37, M – N & Z).

 

Nhưng suy cho cùng, một tác phẩm thơ ra đời không phải để duy nhất cho việc nhận diện, mỗ xẻ [bởi bản thân việc nhận diện, mỗ xẻ đã hàm chứa tính vô bổ… không thể thiếu nơi người đọc] mà quan trọng nhất vẫn là nó phát biểu, phản ánh được bầu sinh quyển sinh ra nó, hàm chứa, khúc xạ được những sắc màu, trạng thái lịch sử mà người phôi thai ra nó đã sống, trải nghiệm, chiêm nghiệm và dấn thân vào cuộc chơi không hạn định. Cái đích vẫn đang nằm ở phía vô cùng… Điều mà Châu phản ánh được, nói được cũng là một ý hướng vốn tiềm tàng, nung nấu trong những con người yêu tự do, yêu sáng tạo và có lòng tự trọng trong sáng tạo, bức thoát ra khỏi những ràng buộc vô nghĩa từ phía tổ chức, đảng phái, chính quyền – những đơn vị ưa kiểm soát, kiểm duyệt nghệ thuật – lĩnh vực họ khá ư mù mờ và thậm chí không hiểu biết tí nào!

 

thành phố bé tẹo tèo teo không chứa nổi những nỗi niềm lạnh tăm

mỗi ngày qua thành phố lại chết đi một kiếp để hồi sinh mỗi sáng một nỗi buồn bề bộn thực hư…

 

(Trích Thành Phố, tr. 41, M – N & Z)

 

Và phải chăng những ám thị phố, những giấc mơ rạng nứt, những hình hài vụn vỡ đời sống qua lăng kính tuổi trẻ, những con đường nhì nhằng nơi tâm thức một người cầm bút thế hệ sinh sau 1975 – một thế hệ tưởng như như đã được “bảo hộ” trong độc lập, tự do và sáng tạo – đã phán ánh được ít nhiều những xung lực bị dồn nén, bị thất thoát trong quá trình trượt ngã của lịch sử và cá nhân?! Trong bóng tối của những thứ nghe tưởng chừng đã toàn vẹn ánh sáng và tự do?! Phố của Châu không trầm mặc, lặng lẽ như tranh của Bùi Xuân Phái, không tươi rói, ửng hồng và tràn trề hy vọng như những con phố nằm phơi mình trong văn học “chính thống” (đúng hơn là trong văn học Xã hội chủ nghĩa) mà phố có đời sống riêng của nó – đời sống của những thân phận không đủ vui để cười mà cũng không đủ buồn để tự đập vỡ mình tìm một hiện sinh khác. Những con phố trổ dài xuống ngực, vòm ngực hiu hắc mấy ngàn năm của người đàn bà Việt u buồn và cam chịu…!

 

 

- Chú thích: * M – N & Z là tập thơ do Minh Châu xuất bản năm 2008, in lần thứ nhất 50 bản photocopy, ak trình bày & vẽ bìa, minh họa: Đoàn Minh Châu.

 

 

Liêu Thái
Số lần đọc: 1976
Ngày đăng: 29.12.2008
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Lê Khánh Mai – Đẹp , buồn và trong suốt như sương - Inrasara
Đồng hồ một kim của Phan Trung Thành : Sự Khuyết Tật Bản Nguyên - Lê Huỳnh Lâm
Đọc sách Địa chí Làng Đức Phổ ( Quảng Bình ) của Đặng Thị Kim Liên - Nguyễn Văn Hoa
Bình luận về tài liệu của Spencer Wells . - Hà văn Thùy
Theo Vết chân dã tràng - Lê Viết Thọ
Lê Khánh Mai – Người mang nỗi buồn đẹp, buồn và trong suốt như sương - Chu Thị Thơm
Trường phái hình thức Nga gợi mở chiều hướng khác - Inrasara
Về một câu chuyện kể trong thơ - Liêu Thái
Hành trang nỗi buồn nhân thế - Phạm Xuân Nguyên
Đọc thơ Trần Tịnh Yên - Người thuỷ táng trong ký ức phù sa - Lê Huỳnh Lâm