Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.333 tác phẩm
2.747 tác giả
547
115.992.582
 
Trầm tích văn hóa biển
Nguyễn Thị Hậu

Mỗi sáng tôi vẫn có thói quen nghe dự báo thời tiết, dù Sài Gòn mưa nắng không đến nỗi thất thường. Khoảng hai năm nay vào mùa mưa bão, tin tức dự báo thời tiết hầu như không thấy xuất hiện cụm từ Tin bão xa, đồng thời còn có dự báo chi tiết mưa nắng sóng gió cho các đảo và quần đảo trên biển Đông. Tất nhiên, không phải vì không có bão xa, mà là một sự thay đổi cách nhìn về biển!

 

Nhớ những năm trước, nhiều cơn “bão xa” đã làm hàng ngàn ngư dân Việt Nam đang đánh bắt cá trên biển phải thiệt mạng. “Bão xa”… phải chăng vì người dự báo thời tiết ngồi ở Hà Nội – trung tâm của châu thổ Bắc bộ - nhìn ra biển chỉ thấy mịt mù xa tít tắp, chỉ thấy “tầm nhìn xa trên 10km”, và ngoài 10km ấy vẫn là “biển trời bao la, đẹp như gấm hoa…”. Chỉ khi nào bão sắp vào tàn phá đất liền thì mới là “tin bão khẩn cấp”! Tôi tự hỏi có ai làm công tác dự báo thời tiết nhìn biển và hiểu biển như những người ngư dân sống trên biển, như những con người đã hàng trăm năm sống kề cận biển hay không?

 

Dọc dài hơn 3000 km bờ biển từ Móng Cái đến Kiên Giang là hàng trăm ngàn km2 thềm lục địa, hàng trăm đảo, quần đảo lớn nhỏ, sao nói về Việt Nam chỉ thấy nói đến văn minh trồng lúa nước (mà cũng chỉ là lúa nước, còn lúa nương rẫy của những tộc người ở miền núi và trung du thì sao?). Vùng duyên hải Việt Nam (từ miền Trung vào Nam) là nơi làm ra loại gia vị độc đáo từ cá là nước mắm – gia vị chủ đạo để chế biến một thức ăn rất đặc biệt Việt Nam: món kho: cá kho, thịt kho, đậu kho, trứng kho, thịt quay cũng kho, rau củ cũng kho (trám, củ cải, măng…), loại thức ăn mặn mòi, ăn cơm ngon miệng mà lại tiết kiệm thức ăn, còn dư hay để dành bữa sau, ngày mai…cũng không bị thiu hỏng trong thời tiết nóng nực. Còn cách chế biến hải sản khác như phơi khô mực/ cá/ tôm… thì nhiều nơi trên thế giới vẫn làm, chế biến thức ăn kiểu lên men như các loại mắm làm từ cá nước ngọt và cá biển thì phổ biến ở ĐNA cả vùng biển và trong đất liền… Đấy chỉ là một trong vô vàn yếu tố văn hóa biển hiện hữu trong cuộc sống hàng ngày của nhân dân ta. Nếu tìm hiểu ta còn có thể nhận biết nhiều dấu tích văn hóa vật thể và phi vật thể trong “trầm tích” văn hóa biển lắng đọng trong di sản văn hóa Việt nam.

 

Thành ngữ cổ Việt Nam có câu "Thuận vợ thuận chồng tát Biển Đông cũng cạn", "Dã tràng xe cát Biển Đông"… Cha ông ta đã nhìn nhận  giá trị của biển qua thành ngữ "Rừng vàng, biển bạc". Tài liệu khảo cổ học cho biết đã có những di tích người nguyên thuỷ sinh sống ở các miền ven biển cách đây khoảng 6.000 - 3.000 năm, hình thành các văn hóa Khảo cổ như văn hóa Hạ Long (Quảng Ninh), Cái Bèo (Hải Phòng), Đa Bút, Hoa Lộc (Thanh Hóa), văn hóa Quỳnh Văn (Nghệ An), Thạch Lạc (Hà Tĩnh), Bàu Tró (Quảng Bình). Các nền văn hóa ven biển này có nhiều yếu tố gần gũi với văn hóa Hòa Bình – Bắc Sơn ở miền núi và thung lũng, có niên đại từ khoảng 12 – 8000 năm cách ngày nay.

 

Dấu tích thức ăn của con người để lại là lớp vỏ ốc dày hàng mét trong các hang động miền núi, vỏ sò điệp tạo thành cồn dài hàng chục mét ven biển, trong đó còn có mộ táng, công cụ đá mài, mảnh gốm, bếp và than tro lẫn xương thú, xương cá… Động vật thủy sinh là nguồn thức ăn đạm động vật phổ biến của những lớp cư dân cổ. Những nhóm cư dân miền núi và ven biển này là những cộng đồng cư dân sinh sống bằng nghề trồng trọt sơ khai và khai thác sản phẩm tự nhiên từ rừng núi, từ sông từ biển. Phải chăng sự thật lịch sử này đã được huyền thoại hóa thành truyền thuyết khởi nguyên của người Việt "con rồng, cháu tiên", chia đôi con cháu nửa lên núi, nửa xuống biển khai phá mở mang Đất – Nước?

           

Vào khoảng nửa sau thế kỉ thứ nhất trước công nguyên, hoạt động giao thông đường biển đã phát triển ở Việt Nam, tạo điều kiện cho việc đi lại, tiếp xúc, trao đổi giữa các nhóm cư dân ven biển nước ta với khu vực hải đảo Đông Nam Á. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, trên mặt trống đồng Đông Sơn có khắc hình chiếc thuyền lớn với hình người cùng những nghi lễ, đầy đủ lương thực, vũ khí... chính là hình dáng của những con thuyền của tổ tiên ta vươn ra khai thác sông biển từ rất sớm. Đảo Sulawesi, hòn đảo lớn thứ tư của Indonesia, còn được gọi là vương quốc của những mái nhà cao vút hình con thuyền mà cư dân ở đây, người Toraja gọi đó là những Tongkonan. Những Tongkonan xếp thành hàng chạy dài thẳng tắp trông giống như những chiếc thuyền buồm kiêu hãnh đang neo đậu giữa một vùng sơn cước. Theo truyền thuyết của bộ tộc Toraja, tổ tiên họ từng sống ở đồng bằng trong lục địa phía bắc từ hàng ngàn năm trước, do những biến cố xã hội cả cộng đồng Toraja đã giong buồm vượt biển đi tìm đất mới. Họ đã đến được vùng đất mà ngày nay gọi là Makassar, phía nam đảo Sulawesi. Họ quyết định chọn nơi đó làm quê hương thứ hai, và những mái nhà Tongkonan hình con thuyền lớn vượt đại dương được dựng lên và luôn hướng về hướng bắc như để con cháu không quên cội nguồn, quê hương…

 

Ở phía Nam, văn hóa Sa Huỳnh ở miền Trung và văn hóa Đồng Nai ở vùng cửa biển Cần Giờ đã để lại nhiều dấu ấn của những đoàn thương thuyền đến từ Ấn Độ, như đồ trang sức bằng ngọc, bằng thủy tinh, bằng vàng… Dấu tích thương mại Trung Hoa là những đồng tiền Ngũ Thù, gương đồng, bình gốm thời Hán tìm thấy khá nhiều ở một số di tích khảo cổ ven biển. Quan hệ buôn bán với Ấn Độ và Trung Quốc diễn ra ở vùng ven biển từ rất sớm, khoảng 1,2 thế kỷ trước công nguyên. Đặc biệt đồ gốm trong mộ táng chum vò của văn hóa Sa Huỳnh và văn hóa Đồng Nai rất giống đồ gốm trong các di tích mộ táng ở Philippine, mà các nhà khảo cổ cho rằng đó là bằng chứng của sự trao đổi sản phẩm và kỹ thuật sản xuất giữa cư dân vùng ven biển và hải đảo.

 

Đến đầu công nguyên, các vương quốc cổ Phù Nam, Chămpa ở phía Nam hình thành và phát triển thành những vương quốc giàu mạnh nhờ khai thác thủy hải sản, lâm sản, nông nghiệp và nhất là nhờ có hệ thống cảng thị ven biển để buôn bán và làm dịch vụ cho con đường thương mại trên biển nối liền lục địa Ấn Độ đến lục địa Trung Hoa. Ở phía Bắc, từ đầu thế kỉ 10 quốc gia Đại Việt dành được nền độc lập tự chủ. Các triều đại Lý - Trần bắt đầu mở cảng Vân Đồn tiếp nhận thương thuyền nước ngoài. Đến thời Lê, Dư địa chí của Nguyễn Trãi còn nhắc đến các cửa biển Càn Hải, Hội Thống (Nghệ An), Hồi Triều (Thanh Hoá)... Từ thế kỉ 17, chính quyền Chúa Nguyễn đàng trong đã tiếp tục phát triển Đại Chiêm hải khẩu thành cảng thị Fai Fố - Hội An, xây dựng cảng Bến Nghé mở đường ra biển cho vùng Gia Định – Đồng Nai. Trong thời Nguyễn nhiều đảo và quần đảo ven biển Đông đã được khám phá, khai thác tài nguyên và xác lập chủ quyền, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

 

Tất cả những điều trên cho thấy, từ thời xa xưa những tộc người sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam ngày nay đã biết khai thác nguồn lợi từ biển, thông thạo buôn bán, trao đổi bằng đường biển, phát triển nghề đi biển và tiến ra khai thác các đảo và quần đảo.  Đường bờ biển dài chính là một lợi thế của Việt Nam: đây là “mặt tiền” nhìn, hướng ra biển Đông, một vùng giàu tài nguyên và là đường giao thông quan trọng của khu vực Đông Nam Á và châu Á. Khai thác lòng biển, thềm lục địa không chỉ có tài nguyên thiên nhiên, mà còn có tài nguyên văn hóa chưa đựng nhiều giá trị. Đó là việc ngành khảo cổ học phát hiện và khai quật di tích tàu đắm trong vùng biển nước ta, những con tàu chở đồ gốm xuất khẩu của Việt Nam, Trung Quốc, Thái Lan, mà nay những cổ vật gốm này có giá trị không chỉ về lịch sử- văn hóa mà còn có giá trị cao về kinh tế. Đó là những di sản văn hóa phi vật thể như lễ Cầu Ngư và nhiều lễ hội khác, những phong tục tập quán lối sống của cư dân vùng ven biển chứa đựng nhiều yếu tố văn hóa Đông Nam Á … Tất cả đều góp phần tạo nên lớp trầm tích quý giá của truyền thống văn hóa – lịch sử nước Việt Nam đa dạng và thống nhất.

 

Bao giờ chúng ta mới thực sự coi tấc biển đảo là tấc bạc tấc vàng? Tài nguyên từ biển, đảo, thềm lục địa… chính là nguồn sống quan trọng trong tương lai khi mà nguồn tài nguyên của đất đai đang ngày càng cạn kiệt về cả chất là lượng. Hãy đứng trước biển với tâm thức của người sống nhờ biển, sống vì biển như đã sống nhờ đất, vì đất, để biết quý trọng và giữ gìn từng tấc Biển và Đảo như gìn giữ từng tấc Đất của Tổ quốc./.

Nguyễn Thị Hậu
Số lần đọc: 3209
Ngày đăng: 21.01.2009
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Chợt đọc…chợt nghĩ rồi…viết, vừa viết vừa ngẫm - Vũ Ngọc Tiến
Nắng cuối năm - Nguyễn Thúy Ái
Những ngày cuối tháng chạp - Trần Quang Phong
Cơ quan tôi đi khám sức khoẻ - Lê Hiền
Tản mạn chuyện đi và ở. - Thí Chủ
Cuối Năm Đọc Thơ Bằng Hữu - Hồ Chí Bửu
Lễ đặt viên đá Nhà Thờ Mépu - Nguyễn Hữu An
Lộng lẫy Caracas - Lê Khánh Mai
Một hội thảo dưới tầm cuộc sống - Hà văn Thùy
Xa rồi ..còn đâu ! - Vũ Trà My
Cùng một tác giả
Những mảnh vỡ (26) (truyện ngắn)
Café một mình (tạp văn)
Những mảnh vỡ… (truyện ngắn)
Những mảnh vỡ (2) (truyện ngắn)
Truyện rất ngắn (3) (truyện ngắn)
Những mảnh vỡ (4) (truyện ngắn)
Những mảnh vỡ (5) (truyện ngắn)
Sông gốm (tạp văn)
Những mảnh vỡ (6) (truyện ngắn)
Happy end (tạp văn)
Những mảnh vỡ (7) (truyện ngắn)
Những mảnh vỡ (8) (truyện ngắn)
Những mảnh vỡ 9 (truyện ngắn)
Những mảnh vỡ (10) (truyện ngắn)
Những mảnh vỡ (31) (truyện ngắn)
Say bờ (tạp văn)
Những Mảnh Vỡ (11) (truyện ngắn)
Những mảnh vỡ (12) (truyện ngắn)
Nhà thờ (tạp văn)
Những mảnh vỡ (13) (truyện ngắn)
Nắng lạnh (tạp văn)
Chùa trong phố (tạp văn)
(tạp văn)
Những mảnh vỡ (14) (truyện ngắn)
Sân bay (tạp văn)
Tháng tư về (tạp văn)
Những mảnh vở (15) (truyện ngắn)
Những Mảnh Vỡ (16) (truyện ngắn)
Những Mảnh Vỡ (17) (truyện ngắn)
Những Mảnh Vỡ (18) (truyện ngắn)
Những Mảnh Vỡ (19) (truyện ngắn)
Những Mảnh Vỡ (21) (truyện ngắn)
Những Mảnh Vỡ (20) (truyện ngắn)
Mùa Thu Berlin (tạp văn)
Cà Phê Mùa Thu (tạp văn)
Mùa Thu Xanh (tạp văn)
Những Mảnh Vỡ (22) (truyện ngắn)
Những mảnh vỡ (23) (truyện ngắn)
Những Mảnh Vỡ (24) (truyện ngắn)
Cao Nguyên (tạp văn)
Những mảnh vỡ (25) (truyện ngắn)
Bạn Xa Xứ (tạp văn)
Vùng Biên (tạp văn)
Sơ Tán (tạp văn)
Những mảnh vỡ (27) (truyện ngắn)