Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.377 tác phẩm
2.747 tác giả
720
116.541.575
 
Chỉ thêu nên gấm
Nguyễn Thanh Mừng

Song song với danh xưng “miền đất võ”, lịch sử văn hoá Bình Định cũng minh định đây là vùng đất rất trọng chữ nghĩa, rất trọng văn chương nghệ thuật và thực tế đã sản sinh cũng như nuôi dưỡng, làm đất phát tích của nhiều tao nhân mặc khách, những trang hàn mặc siêu đẳng. Có thể diễn đạt một cách văn hoa là vòng tay nhân dân bao đời sẵn sàng rộng mở và chào đón những văn tài và họ tự hào về những tác gia và tác phẩm mang đậm dấu ấn vùng đất chẳng kém gì niềm tự hào về chiến công của những anh hùng trên quê hương này. Nguồn cảm hứng của nhân dân được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, đến nỗi có những làng xa xóm vắng, người nông dân sau buổi cày là tụ tập bên bờ ruộng hoặc trong chòi tranh, một cút rượu vài con cá nướng là có thể say sưa bình tán về thơ ca cho đến khi trăng mọc rồi đến cả trăng tàn. Người ta có thể hỏi rằng ở đây, từ trong truyền thống hằng năm có lễ hội giành cho chiến thắng Đống Đa của vua Quang Trung và hằng bốn năm một lần có cả một lễ hội giành riêng cho võ thuật là Hội Đổ Giàn, sao chẳng có riêng một lễ hội cho Thơ ca như kiểu ngày nay có Ngày Thơ Việt Nam? Xin thưa: từ trong truyền thống, lễ hội cho thơ ca, lễ hội cho văn chương nghệ thuật đã lên ngôi trong những đêm khuya bên ngọn đèn dầu như vậy, thơ và hành trạng của các sĩ phu yêu nước, những nhà thơ Bình Định, những Đào Duy Từ, Đào Tấn, Tăng Bạt Hổ, Mai Xuân Thưởng, Nguyễn Bá Huân, Nguyễn Trọng Trì, Đào Phan Duân, Hồ Sĩ Tạo, Hàn Mặc Tử, Quách Tấn, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Yến Lan, Pham Hổ… đã được ôm ấp bằng những tấm lòng say sưa huyền hoặc như vậy. Dường như nội hàm phong tục tập quán của Bình Định đã dung chứa những nghi thức không ồn ào và hết sức bền vững ấy, những nghi thức xuất phát từ sự thành tâm. Mấy chục năm đi thực địa ở những thôn cùng xóm vắng, tôi đã được từ các bô lão đến những người trẻ tuổi một nắng hai sương nhiệt tình gửi trao những văn bản hoặc ký ức mà họ lưu giữ, với một tình yêu văn chương có thể nói là vô bờ bến. Mà chuyện văn chương đâu phải ngưng lại ở địa hạt văn chương. Đằng sau những di sản, như lời thiệu của các bài võ cổ truyền Bình Định còn lưu lại, như Hùng Kê Quyền, như Thái Sơn Côn, như Lôi Long Đao, như Song Phượng Kiếm…chẳng hạn, đâu phải chỉ là trình thức nhịp điệu của vũ công, mà ẩn mang biết bao tâm tư con người thời thế, bên cạnh sự hào sảng là nỗi niềm thâm trầm cảm khái.

 

Đâu phải chỉ những văn thần võ tướng, những nhà khoa bảng, các bậc mũ cao áo dài mới được hưởng niềm hoan hỉ của càn khôn, dư ba của kinh sách, hương vị của tri thức. Dọc dài cuộc sống rộng lớn muôn trùng của người chân lấm tay bùn, đã thủ thỉ với lịch sử rằng những hồng cầu luân chuyển trong thể phách Bình Định, đã lập những chiến công văn hoá ngoạn mục từ phía những thôn hương, chợ búa, chốn đèo cao truông rậm và tác giả của nó ẩn dưới cái tên chung là dân gian. Ấy là mẫu số chung của nhiều vùng văn hoá. Nhưng Bình Định có những khúc quanh của trường đoạn lịch sử, nhất là giai đoạn tiền và hậu cuộc khởi nghĩa nông dân Tây Sơn, khiến cho cuộc mai danh ẩn tích của các hào kiệt văn chương càng nhuốm vị bi tráng, như hình tích những cánh én có thể sớm trước mùa mai nở, có thể muộn hơn mùa cuốc kêu. Nói qua một chút về truyền thống của xứ sở mà chúng tôi đang sống, nhằm đi đến một điều rằng mỗi vùng miền trên đất nước mà chúng ta đang hoạt động đều có một hình tích riêng, khí vị riêng, và hương hồn sông núi chúng ta, cha ông chúng ta dường như khôn nguôi ý thức gầy tạo cho thế hệ đi sau những bước tiến mới, tiếp sức cho cháu con không hề lạnh lưng với hành trang của truyền thống. Những hình tích, những khí vị mà mỗi người cầm bút mang ra để nhập vào dòng chảy chung của VHNT cả nước, trong bối cảnh toàn cầu hoá, trong thời kỳ chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, chắc chắn không ai có thể không xem là trọng trách.

 

Tôi hoạt động văn hoá văn nghệ địa phương tính đến nay đã gần 30 năm, từ thời ở Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam, cầm chịch là những tên tuổi như Huy Cận, Nguyễn Đình Thi, Trần Hoàn…Thuở sinh thời của họ, mỗi người ít nhất đã về Bình Định hơn một lần và tôi có dịp đưa họ qua các vùng đất danh thắng Bình Định. Ở cảm nhận của tôi, ngoài cái tình của họ đối với hoạt động văn nghệ địa phương, còn là một sự trân trọng đầy liên tài của những tâm hồn lớn, với những bạn bè của họ xuất thân ở đất này, với mẫn cảm dưới khung trời văn hoá lịch sử đầy hình tích nguồn mạch. Tôi có dịp viết ít nhiều về những điều trên khi mỗi người trong số họ vừa ra đi. “Đất này có lửa” là câu nói ngắn gọn của nhà văn Nguyễn Đình Thi với tôi, nhân dịp tôi đưa ông về thăm người bạn cũ của ông là nhà thơ Yến Lan. Dường như khuôn khổ hàm súc của câu nói trên có sức dồn nén cao, ngùn ngụt những dư vang.

 

Bao nhiêu những nhà văn, nhà thơ bốn phương đã đặt chân trên mảnh đất này, ít ra những thể hiện của họ cũng làm cho tôi ngạc nhiên về độ lan toả của nội lực văn hoá Bình Định, ở tình cảm sâu sắc họ để lại. Dọc theo những sự ân cần, nồng nhiệt từ phía những người có trách nhiệm và từ phía công chúng là những trái tim “tứ hải giai huynh đệ”, luôn tạo sự ấm áp và kích thích những hoạt động nghiên cứu, sáng tác, biểu diễn… ở Bình Định ngày càng bước vào những cấp độ mới. Chắc chắn, ba vạn sáu ngàn ngày là cái biên giới không hề rộng rãi của một đời người, và đối với người cầm bút càng tỏ ra quá chật hẹp. Việc lớn ở đời, đến một trải nghiệm nhất định, mới nhận ra, nói như cách nói của Chế Lan Viên là “Tôi như ông vua Thục- Bị đuổi bởi thời gian- Trước mặt là biển lớn- Sau lưng đất không còn”. Dường như những ngòi bút lớn luôn có cảm giác tấm toan thời gian rất căng trên đời mình và bức chân dung mà mình để lại cho đời, khó ai mãn nguyện về sự hoàn mỹ của nó. Nhưng thực sự, ý thức ấy đã làm cho họ trút hết dung mạo, thần khí của mình lên cả những năm tháng cuối và ánh hào quang của họ đã hội tụ đầy bản sắc trong những trang di cảo. Những nhà thơ lớn Bình Định mà tôi may mắn được gặp gỡ và làm việc với họ qua một vài công trình mà họ cộng tác với tỉnh nhà để thực hiện, đều là những người như vậy, có sức lan tỏa tinh thần hết sức mạnh mẽ. Như Quách Tấn. Như Chế Lan Viên. Như Yến Lan…

 

Bây giờ chúng ta đã ở cuối thập niên đầu của thế kỷ XXI, với những đặc trưng của một thời đại không khó khăn nhiều lắm về phương tiện công bố tác phẩm như những thế kỷ trước. Sự công bố có phần nào dễ dàng nhờ vào hàng trăm tờ báo, tạp chí, nhờ vào sự thuận lợi của kỹ thuật mạng, nhờ vào sự nhanh chóng, không nhiêu khê trong vệc cấp giấy phép in thành tập, nhờ vào bao nhiêu nhu cầu tuyển tập từ nhóm, câu lạc bộ, chi hội, hội tỉnh, hội TW, các cơ quan chủ trì tuyển tập theo đề tài phục vụ ngành v.v…Mặc dù bên cạnh đó, lâu nay các phương tiện thông tin đại chúng trong cả nước nắm bắt dư luận xã hội đã kêu rêu rất nhiều về tình trạng chất lượng tác phẩm VHNT, khi mọi điều kiện được tạo thuận lợi hơn thì kim đồng hồ về chất lượng nội dung tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm có nơi có lúc lại tỉ lệ nghịch. Tất nhiên, không phải giải Nobel là tất cả nhưng những điều kiện để một tác giả Việt Nam tiếp cận với sự đề xuất, dường như con đường hãy còn quá hun hút. Thiết nghĩ, mọi hoạt động của chúng ta đều nhằm tạo nên một phong trào mạnh mẽ và từ phong trào ấy, tìm kiếm những tác phẩm chất lượng cao, xây dựng nên những tác gia có tầm vóc lớn. Nỗ lực của chúng ta phải làm cho nhân dân hưởng thụ cái mà họ hằng mong đợi chứ không phải cái chính chúng ta áp đặt, đó lại là một hàm số, đòi hỏi chính là ở những tia sáng của tài năng trong cuộc trau giồi, rèn giũa không ngừng. Công việc hòa mình vào đời sống nhân dân và thời đại, nhằm hấp thụ và cảm xúc, trau dồi và cống hiến, bằng niềm đam mê tìm tòi sáng tạo những tác phẩm đỉnh cao luôn là điều canh cánh bên lòng văn nghệ sĩ, chẳng phải riêng ở Bình Định. Nhưng riêng ở Bình Định, gánh gồng cho đời sau không phải là hành trang văn hoá không sâu nặng của đời trước, nếu muốn tạo cho kiếp này một dấu ấn thật đậm đà, thật khó phai nhoà. Những nỗ lực bước qua lằn ranh địa phương, bước qua rào cản ngôn ngữ để đến với công chúng rộng rãi trong toàn quốc và cả quốc tế là điều đáng ghi nhận trong hành trình giao lưu và lan toả của nguoi cam but  Bình Định. Và điều này là có thật, khác với một số tỉnh, bạn bè bốn phương vẫn không thôi nhìn về những đỉnh cao văn chương quá khứ của Bình Định, để ngầm gửi gắm một khích lệ, bên cạnh đó cả một một hy vọng vào hôm nay.

 

Nhiều năm trước, bản thân tôi có mạnh dạn sáng tạo cụm từ “đất võ” ghép với “trời văn”, và làm cái tít đề cho một tham luận được trình bày trong Hội thảo Khoa học và thực tiễn văn hoá dân gian Nam Trung bộ, phải nói trong tôi vừa có những nao nức vừa có những e ngại. Nao nức vì tôi nghĩ đến cái chữ văn rộng lớn ( không chỉ ở phạm vi văn chương) của hương hồn các thế hệ Bình Định và khi đưa ra một tiểu đối với “đất võ”, nó phát lộ rõ rệt sự hoàn chỉnh về ngôn từ. E ngại vì mình là người Bình Định, cái niềm tự hào quá mức về địa phương do chính mình phát ra, dễ gây một hiểu nhầm với bốn phương bè bạn. Đôi lúc, một vài ý kiến nhỏ lẻ của người hôm nay cũng chứa đựng một phản đề nào đó. Tuy nhiên, cái cụm từ làm tít đề và bản tham luận này, ngay sau đó được in trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học, in trên báo Tài nguyên Môi trường, tạp chí Nguồn sáng dân gian, tạp chí Văn Hiến, báo Bình Định điện tử(*)…đã gây hiệu ứng tương đối rộng rãi, gần như trở thành một slogan của Bình Định. Rất nhiều bài báo, nhiều tạp văn, tuỳ bút của những người khác đã đưa cụm từ này vào, khi nói về Bình Định. Một nhà báo trên một tờ báo lớn đã cẩn thận nêu xuất xứ bằng một câu: “Một nhà văn của Bình Định đã ví von quê mình bằng một hình ảnh "đất võ trời văn”. Ngoài ra nhiều bài có những dòng đại loại: sứ giả của “Đất võ trời văn”, nơi được mệnh danh là “đất võ trời văn”, đến từ “đất võ trời văn”, người Bình Định tự hào với mỹ hiệu “đất võ trời văn”, tour du lịch tham quan “đất võ trời văn” , “đất võ trời văn” bố cáo v.v… Một vài tờ báo, tạp chí, blog, website dùng “đất võ trời văn” làm một chuyên mục như một “thương hiệu Bình Định”. Thậm chí, có một tập sách cũng dùng cụm từ này làm tít đề. Những câu mang theo cụm từ “đất võ trời văn” rải rác xuất hiện từ cuối 2004 đến nay, rộ lên nhất là vào dịp Festival Tây Sơn- Bình Định 8-2008, khi nhà đương quyền chủ trương đưa slogan này vào quảng bá cho thương hiệu Bình Định. Nó chẳng những được dùng trên văn tự của văn bản hành chính hoặc các bài báo, mà còn xuất hiện rộng rãi trên cửa mệng người Bình Định và bạn bè bốn phương. Điều đó gây nên sự hứng khởi, cho thấy một hiệu ứng văn hoá khi nội hàm thông điệp của nó truyền đi có ấn tượng, khơi gợi nhiều suy tưởng và giành tình cảm quý mến với xung quanh. Sự hưởng ứng ở phạm vi ngoài Bình Định đã làm cho bản thân người sáng tạo cụm từ bớt đi những mặc cảm chủ quan ban đầu. Phải nói, chính nội lực thâm hậu văn hoá truyền thống của Bình Định đã hoài thai và sinh nở mệnh đề “đất võ trời văn”, bản thân tôi chỉ là người lắng lòng trước kinh mạch của lịch sử, may mắn được cung thỉnh từ đất trời thâm nghiêm và hào sảng này để trưng bày ra trước thiên hạ.

 

Trở lại với vấn đề sáng tạo mới trên cái nền xứ sở truyền thống “đất võ trời văn” ngõ hầu trình làng được gương mặt những người kế tục làm nên diện mạo cho thế hệ này, tạo một dấu ấn sâu đậm cho mai sau, chắc chắn là một vấn đề không thể khái quát và kết luận trong một sớm một chiều. Người Bình Định có câu ca rằng: “Một mai ai chớ bỏ ai- Chỉ thêu nên gấm sắt mài nên kim”. Tất nhiên đó là một câu nỗi niềm thân phận. Nhưng từ câu ca đó, cũng thể suy rộng ra về cái ý nghĩa về hoạt động văn chương nghệ thuật hôm nay, rằng bức gấm tác phẩm được hình thành nên bởi bao nhiêu tiền đề.

 

(*) Vào google thời điểm này, sẽ có khoảng trên 25 trang liệt kê danh mục các bài viết dung chứa cụm từ “đất võ trời văn”, trong đó nguồn tư liệu đầu tiên là bài “Đất võ trời văn” của tác giả bài viết này, được post lên mạng Bình Định điện tử 3 kỳ, bắt đầu từ 19-10-2004.

Nguyễn Thanh Mừng
Số lần đọc: 2588
Ngày đăng: 04.03.2009
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Còn nợ một thời - Nguyễn Ước
Với tác giả ĐÊM TRẮNG PHẬP PHÙ - Trương Điện Thắng
Bản sắc của con người Việt Nam trong bản sắc văn hóa Việt Nam - Đỗ Ngọc Thạch
Đào Hiếu , Ông là ai ? - Lê Vũ
Cát bụi tuyệt vời - Nguyễn Hữu An
Chiếc áo dài - Võ Phiến
Dinh Thầy Thím - Phan Chính
Phải không, ông Nội 3? - Ngô Phan Lưu
HVT LÀ AI - Hoàng Vũ Thuật
Kỷ niệm với anh Nguyễn Thái Sơn - Đông La