Phần XVII
Đưa bé Thúy con gái của mình cùng với bạn nó đi học rồi, khép cánh cổng lại, nghe tiếng rít của chiếc bản lề khô dầu từ cánh cổng rền rĩ như tiếng thở dài của người đàn bà thất vọng, Hảo đứng thẫn thờ, một tay chị loạng choạng vịn vội vàng vào một nhánh cây hoa giấy non mỡ màng, đang phơ phất trong gió chiều mệt mỏi. Mặt trời đã lặn, nhưng đèn đường chưa lên, hoàng hôn như một cái chảo gang từng trải dầu mỡ, loang loáng màu tím sẫm úp xuống một góc thành phố, ngột ngạt. Tiếng cánh dơi bay phần phật trên đầu, ngẩng lên Hảo bắt gặp những con dơi màu đen quái dị như những tùm giẻ ma trơi, giăng chéo, lượn vòng, nhộn nhịp và bí hiểm. Căn nhà càng lúc càng đen lại, bóng tối ụp xuống rất nhanh. Cài chốt cánh cổng lại, Hảo lững thững trở vào. Trong nhà đèn cũng chưa bật, chỉ nghe có tiếng nước chảy long tong từ đâu dó, trong bể trữ nước, nhịp nhàng, cần mẫn và ru ngủ.
Hảo đi thẳng vào bàn ăn, mùi thức ăn quen thuộc cùng với mùi bếp núc chật hẹp lan tỏa, lẩn quất trong những góc khuất, khiến Hảo cảm hấy yên tâm. Chị ngồi xuống chiếc ghế cạnh bàn ăn, tiện tay mở cái lồng bàn, một vài món đậu xào, cá chiên, canh hẹ... hiện ra. Hảo úp lại, rồi im lặng, hai tay để lên đùi, ngó qua ô cửa sổ, thấy ánh đèn chập chờn của cánh đồng như một bầu trời hiếm sao, nhấp nháy...
Có tiếng chuông điện thoại. Thoạt đầu, Hảo vội vã xô ghế đứng dậy, như một người chờ đợi tiếng chuông reo. Nhưng được hai bước chân, chị đứng sững lại, mặc cho tiếng chuông điện tử hối hả. Đến hồi chuông thứ tư hay thứ năm gì đó, Hảo nhấc máy. Quả không sai, tiếng a lô đầu dây bên kia đúng là của Kiệm, chồng chị. Và cũng chẳng cần dài lời, Hảo dạ liên hồi trước những lời giải thích của chồng. Cuối cùng chị hỏi lại như một thủ tục: "Chừng nào anh về?". Thế thôi, cuộc đàm thoại chấm dứt.
Con mèo thấy bà chủ nhà không bật đèn, mà cứ đi lại như một người lạ, nó chạy đến cà cà cái đầu của nó vào bắp chân để trần của Hảo, tiếng gừ gừ trong cái cổ họng nhạy cảm của nó, khiến Hảo chạnh lòng. Chị cúi xuống ôm nó lên tay rồi ra phòng khách, bật đèn, tiện thể mở luôn ti-vi. Hảo ôm con mèo ngồi vào ghế salông, một tay cầm rờ-mốt bấm tìm các kênh truyền hình. Chị bấm lần lượt tám kênh truyền hình và thất vọng khi tất cả đều chiếu phim Hồng Kông, Trung Quốc, Hàn Quốc... Ngước nhìn chiếc đồng hồ treo tường chỉ sáu giờ rưỡi, Hảo để cái điều khiển từ xa xuống mặt bàn, mặc kệ cho màn hình ti-vi đang nhảy nhót, đưa đẩy những hình ảnh sặc sỡ và những câu nói bằng tiếng Việt rõ ràng, nhưng lạ tai, đợt giọng lưỡi, rất khó chịu. Nội dung bộ phim không cần xem kỹ cũng đoán ra, đó là câu chuyện về cuộc tình giữa các nhà doanh nghiệp, họ vờn nhau, khi thì nâng đỡ, tâng bốc, khi thì mạt sát, chửi mắng nhau, nẫng tay trên của nhau, những miếng mồi ngon, một tình nhân xinh như mộng, hay một khoản lợi nhuận kếch sù...
Hảo cứ ngồi một mình như thế, bởi vì con mèo cũng khó chịu, nó phóng khỏi tay chị, lao vào một góc tối nào đó, tìm mồi, tìm bạn, hay đơn giản, nó cũng tìm sự yên tĩnh, cô đơn như bà chủ đài các mượt mà của nó.
Hảo bỗng bàng hoàng tự hỏi: không biết mình ngồi một mình một bóng như thế này đã bao lâu rồi, đã bao nhiêu lần rồi? Cái không khí đầm ấm gia đình đối với chị đã xa vắng từ lâu. Từ khi nào chị cũng không nhớ rõ, chỉ biết rằng, giờ đây chị cảm thấy thích thú, yên tâm khi được đối diện với chính mình, mà không còn cảm thấy bị bỏ rơi, hắt hủi. Cái cảm gác không bị cật vấn, không bị sự quan tâm tưởng như mặn mà, nhưng rồi chỉ là một sự phải phép, hời hợt. Từ lâu rồi, các thành viên trong nhà, chồng và cô con gái, chạy như chong chóng, lao vào công việc, học hành, vui chơi, bầu bạn... Họ cảm thấy mỗi người trong ngôi nhà này đối với nhau chỉ còn ràng buộc bởi nghĩa vụ, bởi tính pháp lý, mà không phải là sự cần có nhau, sự nương tựa vào nhau, tự nhiên như cây rừng, cá bể... Họ lao tới phía trước, tới tương lai như con thuyền gặp gió, lúc nào cũng căng phồng, phần phật, vun vút...
Chồng Hảo là một người tốt, một trí thức được đào tạo dưới chế độ cũ. Khi được trở lại làm công tác giảng dạy ở một trường Đại học, anh đã bộc lộ hết tất cả sự nhiệt tình, chỉ với một mục đích không bị loại bỏ. Đó là thời kỳ hạnh phúc nhất trong cuộc đời Hảo, chị được yêu, được làm việc, được sống bằng nỗi khao khát cống hiến của mình. Khi họ lấy nhau, một đám cưới đạm bạc được tổ chức trong một căn phòng nhỏ dùng làm lớp học của sinh viên, nơi anh làm cán bộ giảng dạy. Thời ấy, nhu cầu làm việc, và được làm việc trong cơ quan nhà nước của con người là trên hết, là cứu cánh, dù tiền lương không đủ ăn, thu nhập không xứng với năng lực. Làm việc như đi hội! Sáng ra, ăn uống qua loa, vội vội vàng vàng lao đến bằng cơ quan trên chiếc xe đạp cũ kỹ. Đến nơi, chào nhau, gật đầu, mỉm cười rồi ngồi vào bàn nghe đọc báo. Ai nhỉ? Hồi ấy ai đã đọc những bài báo vừa hùng hồn, tha thiết, vừa rao giảng, răn đe? Thế nhưng, bao giờ những buổi đọc báo như thế cũng là những giờ khắc nghiêm túc, thậm chí vô cùng thiêng liêng. À, phải rồi, anh Tụ, chính anh Tụ đã nhận lãnh đọc những bài xã luận, có tính định hướng tư tưởng, vạch ra những mục tiêu chiến lược. Giọng Tụ êm ái, chuẩn mực, đanh thép. Tiếng Tụ không ngân nga, mà ròn rã, người ta bảo, anh giỏi tiếng Nga lắm, học những bốn năm bên ấy cơ mà, nên giọng anh dứt khoát, vang lên như những tràng vỗ tay, kiểu nói của người Nga là thế đấy! Hảo học tiếng Anh, cái thứ tiếng bị coi là vô dụng, thứ tiếng chỉ dùng trong buôn bán. Tiếng Nga là tiếng nói của Lê-nin, của chủ nghĩa xã hội.
-"Zờ-đờ-rát-xtvui-che!" Xin chào! Tụ đã dạy Hảo những câu như thế. Rồi Hảo ghi tên, đóng tiền vào những buổi học tiếng Nga ban đêm. Chị vật lộn với những chữ cái lạ lẫm, mà đến cả năm trời vẫn lẫn lộn, cả khi đọc lẫn khi viết. Nhưng Hảo không nản, vì có chủ nghĩa xã hội, có bạn bè, và có Tụ luôn luôn bên cạnh! Khi đã có chồng rồi, Hảo vẫn không ngừng thích thú với công việc. Ngày nào không lên cơ quan chị cảm thấy trống vắng, cảm thấy như mình bị tách ra khỏi cộng đồng!
Hảo học tiếng Nga say sưa cho đến ngày nó không còn được trọng vọng. Cùng với sự tan rã của nhà nước Liên bang Xô viết vĩ đại, tiếng Nga ra đi, giành chỗ bá chủ cho sự trở lại của tiếng Anh. Thời gian mai một, tiếng Nga lùi vào đâu đó trong trí nhớ Hảo, đôi khi, thi thoảng nó lại xuất hiện, nhưng buồn bã, đầy mặc cảm. Hảo biết có nhiều người là giáo viên dạy ngoại ngữ tiếng Nga phải đưa đi "đào tạo lại", coi như một sự lẫm lẫn! Hảo không dạy học, không kiếm cơm bằng tiếng nước ngoài, nên chị lẳng lặng cất nó vào dĩ vãng. Kỳ lạ thật, đến lúc đó, Hảo mới thấy tiếng Nga thân thiết làm sao. Học rồi, biết rồi, làm quen nhau rồi, khi chia tay ai chẳng thoáng buồn.
Trong cái thứ tiếng đa âm tiết xa lạ, cùng với loại mẫu tự khó viết ấy, tự nhiên Hảo thấy thích nhất từ "Tạm biệt!".
-Đa Xviđánhia!
Khi nói "đa...", rồi ngưng lại trong tâm tưởng, trong ý nghĩ, một khoảng thời gian tính bằng centi-seconds, rồi mới nói "xviđá...", đấu sắc lên cao, tựa như một lời hẹn, cao vút, sáng trong... khẳng định ngày gặp lại, để rồi nói "nhi-a..." trầm xuống, trùng xuống, như một sự có lỗi, không ở bên nhau được nữa! Chia tay, nhưng không chia ly...
Vào cái ngày sắp sửa lên xe hoa, Hảo đã ngồi hàng giờ trong phòng Tụ. Chị im lặng nghe anh nói, nhỏ nhẹ nhưng chính xác, ấm áp nhưng khảng khái. Anh nói về hạnh phúc, về những miền tối sáng trong tâm hồn, những đau thương của nhân loại, của cá thể mỗi con người. Hảo nghe những muốn trào nước mắt. Thỉnh thoảng chị lại lật cuốn sổ tay mà trong đó chị đã kẹp sẵn tờ thiếp hồng, báo ngày chị lấy chồng. Gọi là thiếp hồng, nhưng nó được in trên giấy trắng bằng phương pháp in lụa thủ công, lem nhem hàng chữ, lem nhem cả đôi bồ câu, như chúng không chịu nằm im trên nền giấy trắng ngà, mà muốn vung cánh, rời nhau ra, để bay đi, để tìm một khung trời mới. Cuối cùng chị đứng dậy, cung kính và thân ái, dùng cả hai tay đưa cho Tụ tấm thiếp hồng. Tụ nhận lấy, tỏ một chút bất ngờ, rồi lặng lẽ mở ra, đọc những gì viết trong đó. Lâu sau, anh ngẩng lên, nhìn vào đôi mắt mở to của Hảo, môi mấp máy:
-Vậy là...?
Hảo cúi xuống một lần nữa rồi ngẩng lên, nhìn thẳng vào đôi mắt sâu, linh lợi và chan chứa ý nghĩ của Tụ, nói một câu bất thần:
-Đa Xviđánhi-a...!
Những ngày đó, con thuyền nhỏ bé của gia đình Hảo do một tay chị chèo chống. Từ cân gạo, mớ rau, con cá, lạng bột ngọt... đến những chuyện lớn hơn như việc giỗ tết gia đình bên chồng, Hảo đã chắt chiu, so đo, toan tính cho tròn vẹn. Chồng chị, sau những năm tháng nhiệt thành công việc, đến một ngày nào đó, anh bỗng trở nên chán nản.
-Chúng ta sống hay đang chuẩn bị sống? Chúng ta đang phấn đấu cho cái gì đây? Chủ nghĩa xã hội mà như thế này ư? Làm quần quật, con người từ trí não đến cơ bắp bị đem ra làm thí nghiệm, bị vắt kiệt như tấm áo mục, thì cũng có ngày rách toạc ra chứ! Tôi không tin là chúng ta làm được cái gì trên mảnh đất này, ngoài việc tự đào huyệt chôn sống mình. Các người cứ nói "chủ nghĩa tư bản tự đào mồ chôn mình", nhưng từ nay đến khi đó, chúng ta đã tự chôn xong mình rồi...
Hảo thương chồng, thương một anh đàn ông bất lực trước thời cuộc, trước bạn bè và cảm thấy vô dụng ngay cả đối với vợ con. Vượt biên? Anh đã nói với chị như thế. Hảo biết nhưng không dám can ngăn, dù rằng chị không muốn xa chồng. Người đàn bà của chúng ta lạ lùng là thế! Họ yêu chồng, nhưng vẫn có thể thương yêu một ai đó, một người nào đó, có khi đến mức thần tượng. Họ thương chồng, không muốn xa chồng, không muốn chồng khổ ải, nhưng lại sẵn sàng để chồng làm một việc gì đó ngoài ý muốn. Chị để cho anh vượt biên đi tìm miền đất hứa. Rủi thay, (hay may thay?) việc không thành, anh bị bắt lại. Nhờ Tụ, rồi qua Bích vợ Tụ, rồi lại qua bàn tay của một ông lớn nào đó chịu ơn Bích, chồng Hảo không những không bị sa thải, mà còn được xóa tội, nhận về trường cũ. Mối quan hệ là lực lượng sản xuất, sau này Tụ đã nhiều lần giảng giải cho Hảo nghe những điều như thế hoặc tương tự, Hảo càng thấm thía. Nhưng có lẽ người thấm thía sớm hơn lại chính là vị giáo sư tương lai, chồng của Hảo. Anh đã lột xác, và cảm nhận được một điều: số phận! Nếu số phận đã cột anh vào một cái cột nào đó, dù đó là cột tử hình, thì cũng không có cách nào thoát được. "Con người sinh ra để thích ứng với hoàn cảnh", anh đọc được Các Mác câu này, rồi anh còn đọc được từ W. Gớt "Mất của cải là mất hết, mất danh dự là mất nhiều, mất can đảm là mất hết". Anh đã mất gì nhỉ? Người trí thức có gì để mất? Của cải: không! Danh dự: có! Can đảm: có thể có, có thể không! Anh đã suýt một lần để mất danh dự làm kẻ chạy tốn bị bắt quả tang, bị cạo trọc đầu nhốt trong kho chứa phân đạm một tháng. Cố lên! Can đảm lên!
Họ quyết định có một đứa con. Hảo biết quyết định có con vào lúc này là muộn so với cái tuổi hai mươi bảy của chị, nhưng lại quá sớm so với sự nghiệp. Bé Thúy ra đời, gánh nặng càng thêm nặng. Có điều, như một người gánh kệnh, gánh lệch, bên nặng bên nhẹ, bên có bé Thúy nặng chĩu xuống, còn bên kia, bên chồng nhẹ dần, nhẹ dần, khiến chị như người gánh vã đường trường, cứ lâu lâu lâu lại phải dừng lại trở vai, và vô công vít cái đầu nhẹ gánh ấy xuống, cho được cân bằng. Chị gánh mà đâu có biết gánh chính cả cái sức nặng do mình tạo nên.
Quãng nghỉ ấy, Tụ lại xuất hiện!
Nhưng mỗi khi như thế, Hảo tưởng Tụ có sức làm cho cái gánh giang san ấy cân bằng, nào ngờ nó lại càng lệch, khiến chị lại càng phải cố sức vít đầu cái đòn gánh bất minh ấy xuống!
XVIII
Với chồng, và với gia đình chồng, Hảo hết òng lo toan chu tất. Mỗi tiếng thở dài ngao ngán, mỗi cái nhăn mắt, vỗ trán của chồng, chị đều thấy mình đau quặn. Người đàn bà bất lực, họ khóc, nước mắt trôi đi, gột rửa nỗi niềm; còn người đàn ông bế tắc, vô vọng, họ nung nấu kỹ trong ruột trong gan, như ngọn núi lửa trầm tích, âm ỉ. Tâm sự của người đàn ông trí thức được cất giấu trong cái hộp đen, chỉ khi nào nó nổ tung ra, rời khỏi cái máy bay bị phát hỏa, người ta mới hy vọng hiểu được đôi phần. Nỗi thất vọng buồn bực của chồng chị cũng gánh, dù anh không muốn san sẻ. Đôi khi Hảo thấy chồng mình như cái nồi áp suất Liên Xô, quà tặng của Tụ cho chị ngày lấy chồng, khi đã đậy nắp, xoáy van rồi thì chỉ còn biết canh lửa, canh giờ. Những gì đang vận động, đang chín, đang mục rữa ở trong cái nồi nhôm bít kín ấy làm sao biết được? Chị thương chồng lắm, nhưng Hảo cũng biết, hễ chị can thiệp vào cái van an toàn thỉnh thoảng lại xì ra một luồng hơi nước nóng bỏng ấy, để nói khỏi bức bối, khỏi gây hấn, lộn xộn.. lập tức cái nồi sẽ nổ tung! Lúc ấy, ôi thôi, tình yêu, nghĩa vụ, nhân cách... sẽ văng ra như xương, như gân, như thịt, như cà rốt, khoai tây... xà bần xắng cấu!
Đêm tối bỗng như những ngọn đèn đường cao áp thủy ngân rọi một thứ ánh sáng xanh ngắt, sắc lẻm rọi vào tâm trí Hảo. Ti-vi đã chuyển chương trình, trên màn hình một ông quan to nào đó đang nói về vận mệnh đất nước. Giọng nói lừ đừ, cao đạo của ông khiến Hảo không mấy tin vào những gì sẽ hiện ra sau bàn tay vung lên, xua ngang, chém dọc của ông. Rồi cô xướng ngôn viên có bộ ngực lép, chiếc áo lót ngực nổi cộm lên những đụn vải, xê dịch trong chiếc áo dài quá chật. Hảo bỗng bật cười nghĩ đến một cái trật tự xếp hàng một như đàn kiến trên con đường danh giá. Đứng đầu là ông nguyên thủ quốc gia, thứ tự đến ông bộ trưởng, rồi cứ thế... cứ thế kéo dài mãi ra! Hảo đứng ở đâu? Tụ đứng ở đâu? Chồng Hảo, Ngô Kha, bác bảo vệ? Mà họ hơn nhau ở cái gì để đứng ở những vị trí khác nhau nhỉ? Trí tuệ mẫn tiệp, ý chí kiên cường, sức vóc tráng kiện, hay đơn giản chỉ là sự tình cờ, sự sắp xếp, ngẫu nhiên của người đến trước, đến đúng lúc?
Một sự cố ngẫu nhiên đã đến với gia đình Hảo, hay đúng hơn là với chồng Hảo. Nói ngẫu nhiên là nói với Hảo, với chồng chị, những cái vỏ kén, những cái nồi áp suất âm ỉ, nhưng thực ra sự biến động này thuộc về những vận động ở bề trên, ở những bộ óc đứng hàng đầu về trách nhiệm cũng như quyền lợi. Cùng với sự lùi vào hậu trường của tiếng Nga, sự xuất hiện trở lại đến mê hoặc của tiếng Anh đã là một biến cố mang nhiều điềm may đến cho họ. Hảo vốn thụ động, sợ suy luận nhưng lại có trí nhớ tốt, tốt đến lạnh lùng, nguy hiểm. Khi học tiếng Nga, chị được Tụ truyền cho lòng nhiệt tình bằng câu nói: "Tiếng Nga là tiếng nói của chủ nghĩa xã hội, tiếng của những người bạn, tiếng của đồng chí cùng giai cấp, cùng lý tưởng. Còn tiếng Anh là tiếng nói của thương mại, của con buôn!". Thế rồi, khi tiếng Nga đã mất chỗ đứng trên đất này, tiếng Anh là công cụ, là thời trang, Tụ học tiếng Anh ngày đêm, và tiến bộ rõ rệt. Tất nhiên, một trong những người Tụ coi là thầy dạy tiếng Anh lại là Hảo. Một lần đùa Tụ (dần dà, Hảo cũng biết đùa), Hảo nhắc lại câu chuyện "tiếng Anh là tiếng của con buôn", Tụ trả lời ngay, không đắn đo:
-Đã đến lúc chúng ta phải nhìn lại mình, nhìn bạn bè và nhìn ra thế giới. Và cũng đã đến lúc chúng ta phải xác định lại cơ cấu kinh tế, phương thức làm ăn...
-Nghĩa là phải coi trọng nghề buôn?
-Đúng thế! Buôn bán chính là tác nhân giúp cho xã hội phát triển.
-Thế còn những người bạn, những người đồng chí?
Tụ say đắm nhìn vào lá cờ đỏ sao vàng nhỏ xíu cắm trước mặt (Hảo nghĩ là mốt của những nhà lãnh đạo, trừ ngoại giao và cấp chính phủ, chứ cỡ Tụ, chưa hẳn đã cần đến quốc kỳ bên cạnh), trầm ngâm:
-Chúng ta đã phải trả giá đắt cho những suy nghĩ ấu trĩ của mình, cho cả một hệ thống lý thuyết đầy non nớt, ngây thơ. Trong cơ chế thương trường, khái niệm "bạn" hay "đồng chí" rất tương đối. Bạn hay đồng chí phải là những người có ích cho ta. Cái rõ nhất trong thương trường là "đồng bọn", "đồng lõa" "đồng lợi ích"... và nó chỉ tồn tại trong một thời gian, có vai trò lịch sử của nó...
-Thế còn lại? Hảo băn khoăn nhìn Tụ, hỏi khá gay gắt, đủ biết chị đã hiểu được phần nào về con người này.
-Phần còn lại của thế giới ư? Đó chính là một "bầy đàn tiêu thụ"...
-Ra thế? Hảo thở dài, nhìn lên bức tranh chép vẽ những phụ nữ thời trung cổ, mông to, vú nở... treo trên tường.
Tụ vẫn say sưa theo ý nghĩ của mình:
-Một bầy đàn tiêu thụ, đúng thế. Họ bị lừa phỉnh bằng những món hàng hào nhoáng, những tiện nghi lười biếng, thậm chí cả những ảo tưởng may mắn. Nhưng để có được những thứ đó, để tiêu thụ hàng đống sản phẩm họ phải trả giá bằng sức lao động cật lực và cả sự mông muội của mình...
Hảo thật sự phục Tụ, một con người có lối suy luận rất nhanh, những suy đoán hợp lôgíc một cách chóng mặt. Nhưng trong những sự thông thái mà Hảo nhận thấy ở anh, dần dà chị còn biết được cả sự quay quăt khá linh hoạt, như người ta vẫn hay gọi bằng cái từ bí hiểm: hoạt đầu!
Trong sự thay đổi, những biến động của xã hội, của kinh tế làm mọi người như bừng tỉnh. Tất cả nháo nhào lên, họ lao vào làm ăn, thi đua mở cửa hàng, cửa hiệu, lập công ty. CHANDCO cũng bừng bừng chuyển động, mở thêm nhiều cửa hàng bán lẻ, đại lý, chi nhánh phụ... Hàng hóa chuyển động ầm ầm, kế toán tối mắt tối mũi vì công việc vì chứng từ, công nợ, tiền mặt, chuyển khoản... Bận quá, Hảo bắt đầu có những chiều về muộn. Bé Thúy được ba đón về, ngồi chơi đồ hàng một mình trên giường, đói quá lăn ra ngủ, không cơm nước, không tắm rửa, mặt mũi lem nhem, một ngấn nước mắt trộn bụi bặm, đọng khô dưới mí mắt con bé. Thương con quá, Hảo bế con vào giường ngủ không nỡ đánh thức, nhưng lòng dạ chị quặn thắt, nước mắt ứa ra, tủi hờn. Định nói với chồng câu gì đó cho bớt đi nỗi xót xa, nhưng nghĩ lại, không muốn chạm vào "cái nồi áp suất" đang xì ra luồng hơi nóng đầy vẻ ích kỷ đang âm ỉ ấy, Hảo ôm con đi ngủ luôn, cả mẹ cũng chẳng buồn ăn uống, tắm giăt.
Thấy Hảo về muộn, lại không ăn uống gì, chồng chị vạch mùng ngó vào:
-Sao? Không cho con ăn gì mà lại bắt nó đi ngủ luôn à?
Hảo ôm con thật chặt, đụng phải cái bụng lép kẹp của nó, nuớc mắt chị trào ra, như thác, không sao ngăn nổi. Tiếng chồng:
-Dạo này em hay về muộn quá! Công việc cơ quan thế nào mà quên cả chồng con?
Hảo tràn cơn uất ức, chị ngồi dậy:
-Anh cũng vừa phải thôi chứ! Em về muộn vì công việc nhiều quá, thì anh cũng làm cái gì cho con nó ăn chứ...
-Làm cái gì? Em biết là anh không biết làm cái gì cả mà! Từ lâu rồi, anh đã là thằng đàn ông vô dụng, chỉ ăn hại cơm trời, làm khổ vợ con... Chả có lần em đã bảo thế rồi còn gì?
Hảo nhấc bỗng bé Thúy lên, ôm chặt nó vào lòng, nức nở:
-Em không nói thế! Em có nói thế bao giờ đâu? Em chỉ nhờ anh những việc nhỏ như cho con ăn, khi em bận. Anh đừng nghĩ oan cho em. Em biết là để con đi mẫu giáo anh không bằng lòng, nhưng em còn phải đi làm. Nếu em nghỉ ở nhà thì...
Hảo chợt thấy mình lỡ lời, như thể lỡ tay đụng vào cái lỗ xì hơi bên dưới cái van an toàn của chiếc nồi áp suất đang ninh hầm, ùng ục.
Cuộc thay đổi vĩ đại, như một cuộc cách mạng đã đột nhập vào ngôi nhà của Hảo. Anh Kiệm chồng chị bỗng dưng tất bật hẳn lên, đi sớm hơn, về muộn hơn, và thu nhập cũng nhiều hơn. Thoạt đầu Hảo hơi ngạc nhiên, nhưng cũng không dám hỏi chồng, nhưng rồi chị cũng hiểu ra:
-Nhu cầu học hành của mọi người bỗng dưng tăng lên ghê gớm, đôi khi như những kẻ phát rồ. Kiệm đã giải thích như vậy. Học vi tính, mọi người cố gắng bằng mọi cách để tìm hiểu cái máy tính. Em nhớ chứ? Hồi em học đại học, cũng có hẳn một học phần về vi tính, nhưng toàn là những câu chữ và hàng loạt thuật ngữ mơ hồ, chưa được sờ vào cái máy tính, thậm chí còn chưa được trông thấy cái máy tính. Tự nhiên thiên hạ nhao nhao lên, cố chứng tỏ mình không phải là những người lạc hậu. Học gõ bàn phím, học chương trình DOS, học soạn thảo văn bản trên những phần mềm sơ luợc. Rồi cũng chứng chỉ A, B, C... Rồi học tiếng Anh, thứ tiếng mà có một dạo bị coi như bỏ xó, bây giờ thì ai cũng cố biết lấy vài chữ, vài tiếng. Ứng dụng, sử dụng vào đâu chưa biết, nhưng có thể nổ chơi, với bạn, với đời... Nào "Gút-bai", rồi Ô-kê, "Si-du-ờ-ghen"...
Hảo nhìn chồng say sưa kể lể bằng một giọng đầy chất châm biếm, rồi mỉm cười thêm vào:
-Chuyện học hành là muôn thuở, Lê-nin đã từng nói "Học! Học nữa! Học mãi!...", đấy thôi! Với lại, có thế thì nghề dạy học của anh mới có cơ hội!
-Đúng! Quá đúng! Hoan hô bà xã! Sao hôm nay em bỗng thông thái đột xuất thế? Nghĩ lại mà hay, ngày xưa mình vượt biên chót lọt thì bây giờ đâu còn cơ hội! Kiệm nhìn vợ khoái chí như vừa phát minh ra được một điều gì kỳ thú hoặc quái đản lắm.
Đôt nhiên Hảo nghĩ đến Tụ, và cả những người đàn ông quanh đời mình. Họ thông minh, sâu hiểm, nhưng bao giờ cũng nhanh chóng để lộ ra cái chân tướng bất nhẫn, đắc chí, nhất là khi cảm thấy mình bỗng trở thành thông thái.
Khi bị đồng tiền hắt hủi người ta tìm đến tình yêu, làm như tình yêu là người bạn đồng hành, là pháo đài cố thủ, là cứu cánh của cuộc đời, nhưng khi tiền bạc mỉm cười với anh, một nụ cười có ma lực mãnh liệt, thì anh bị cuốn hút theo nó, nó mới là người bạn chân thành, chí cốt. Kiệm, chồng Hảo cũng không thoát ra ngoài cái quy luật có tính định mệnh ấy. Khi những quý ông, quý bà, có chức, có quyền và có tiền bỗng có nhu cầu học tập để tiến thân, để giữ ghế, và cũng không thể loại trừ những người hiếu học thật sự, phải bỏ tiền ra để mua kiến thức, thì nghề dạy tiếng Anh của Kiệm có cơ hốt bạc. Có tiền nguời ta nghĩ ra nhiều thứ, có những thứ bị lãng quên, bị chôn vùi thì nay bỗng sống lại, ngọ nguậy rồi nhảy lên địa vị độc tôn. Chẳng hạn như tình yêu... đa hệ, một thứ tình vừa chân thực, vừa ngụy biện. Lấy cớ bận rộn, Kiệm luôn luôn vắng nhà, và thế là một... chủ thuyết "mới" đã ra đời:
-Trong thế giới hiện đại, mọi khái niệm đều được gọi bằng tên của nó và đều được đo lường bằng những đại lượng đặc thù. Đồng thời với những đại lượng đo được ấy, người ta biết được cách điều tiết nó...
Hảo chẳng hiểu chồng định nói gì, muốn gì, nhưng chị cũng không muốn hỏi lại. Tranh luận, hay thậm chí trao đổi với chồng những điều vụn vặt trong đời sống hàng ngày, Hảo cũng thấy là không cần thiết, không nên, không được phép. Với một kiểu giáo dục phong kiến đậm tính hủ nho trong gia đình từ bé thơ, dù có học hành theo kiểu mới, thì Hảo vẫn luôn tỏ ra cam chịu, nhất là trong gia đình, trong quan hệ vợ chồng. Thấy vợ im lặng, Kiệm cho rằng Hảo sẵn sàng lắng nghe, anh tiếp:
-Tình yêu giữa đàn bà và đàn ông là một thứ tình nhạy cảm nhất trong các lọai tình cảm, đồng thời cũng khó dự đoán những diễn biến của nó nhất. Tuy thế, trong đời sống hiện đại mà khoa học phát triển như bão táp, người ta vẫn có thể đo được, đếm được liều lượng và cường độ của tình yêu, và qua đó... qua đó... Kiệm im lặng đột ngột như thể để thăm dò phản ứng của vợ. Nhưng thực ra Kiệm đang bí. Cái điều anh muốn nói thẳng ra thì rất khó nói. Hảo thở dài:
-Em hiểu anh muốn nó đến cái gì rồi.
-Em hiểu thế nào?
Hảo thấy cần pải tỏ thái độ:
-Anh muốn nói đến tình yêu của chúng ta đang lạc hậu?
Kiệm làm như bị xúc phạm:
-Anh không nói thế, sao em lại hiểu lầm anh đến vậy? Anh chỉ muốn nói đến sự phức tạp nhưng đơn giản của tình yêu, của...
-Anh không nói thế nhưng anh nghĩ thế.
-Em bảo anh nghĩ thế nào?
-Anh nghĩ thế nào thì chỉ có mình anh biết. Anh lại nghĩ về tự do, về sự ràng buộc, về trách nhiệm... phải không nào? Em cũng nói để anh biết, em mệt mỏi lắm rồi, chỉ muốn mọi cái đước rõ ràng, sáng tỏ.
-Chính vì thế, Kiệm bỗng trở nên hào hứng như được gợi ý đúng mạch. Tự do là một khái niệm tương đối, nhưng lại luôn luôn hướng tới sự tuyệt đối. Chẳng hạn như anh và em ràng buộc bằng tình yêu, bằng tình nghĩa, thậm chí bằng luật pháp, nhưng biết đâu trong ý nghĩ, mỗi đứa vẫn có những khao khát tự do một cách tuyệt đối. Đó là một khoảng trời riêng cho cánh chim ý nghĩ được tung cánh...
-Khoảng trời riêng? À, em hiểu rồi. Thì ra lâu nay anh vẫn có ý nghĩ ấy? Hảo cảm thấy nhịp tim mình đập nhanh hơn, hối hả hơn, nhưng da thịt lại lạnh toát. Tùy anh, nhưng em nói để anh biết, em không hẹp hòi đâu, anh muốn thế nào cũng được, em không cản anh...
Kiệm nhìn theo tấm lưng tròn lẳn, đang độ mặn mà của vợ khuất sau cánh cửa phòng ngủ. Ngoài trời đột ngột đổ mưa, tiếng xe máy vội vã lao trên đường. Kiệm đứng dậy khép cánh cửa sổ, anh nhìn thấy một bóng người đàn bà lặng lẽ đội mưa, rẽ gió đi trong ánh đèn mờ tỏ... Anh chợt nghĩ: trên đầu người thiếu phụ ấy, hẳn có một khoảng trời riêng, nặng nề hay thanh thoát, tự giác hay bắt buộc... thì chỉ có người ấy mới biết được.
Còn tiếp...