4
Bà Khế điềm tĩnh ngoáy một cối trầu đỏ au tém gọn vào mồm, giọng trầm, chắc:
- Tui với mệ nội thằng Đái ở lại, mạ con thằng Đái với o Thà đi tản cư, lẹ lên.
Thục luống cuống vừa ôm con, vừa đeo túi quần áo lên vai. Thà van nài:
- Hai mệ cũng tản cư, ở lại con sợ lắm
- Choa tra rồi. Bọn tây không mần được chi mô. Đi đi cho kịp bà con.
Bà Khế đã nói là phải nghe “Chưa có ai trong nhà này trái ý bà”.
Moóc nhê rơi xuống ruộng nẩy, bùn bắn lên tận ngọn tre. Moóc chê khoan xuống Nương hoang thành giếng nhỏ, khói lửa mịt mù. Tốp lính đi đầu áp sát lòi Dầu máu. Những nòng súng dài, đen sì, lia quét, sẵn sàng nhả đạn. Đội tự vệ làng Thượng không có súng, chỉ có gươm, dáo và một quả lựu đạn. Chờ cho tốp lính đi qua trảng cát, Đội trưởng Liên thét to: “Việt minh”, rồi nhảy qua rãnh nước, chạy ngoằn nghèo theo mấy gốc cây dầu máu cổ thụ. Lính Tây, lính Nam triều bắn loạn xạ. Viên đạn xé một mảng cây dầu máu, dòng nhựa đỏ, sóng sánh tứa ra tươi rói rồi sẫm dần, tím bầm. Thằng Tây cao lồng ngồng, râu ria xồm xoàm mồm hét “a lô xô”, hai chân dài ngoẵng chạy qua mương sắn. Hắn khựng lại, rơi thụp xuống hố, mũi chông cắm phập vào mông. Hắn la hét, hoảng hốt, lũ lính hoảng loạn. Thằng Tây cao to quá cỡ, lính Nam triều thấp bé, không cõng được. Chúng để thằng Tây nằm sấp rồi hò nhau kéo đi. Mũi chông lắc lư trên cái mông to quá cỡ, rỉ máu sưng vù. Dượng Liên leo lên cây dầu máu ném xuống. Bọn lính hốt hoảng:
- Lựu đạn Việt Minh, nằm xuống!
Cả lũ nằm bẹp dí, “lựu đạn” không nổ! một thằng liều mạng bò đến, hắn hét lên như bị ai bóp cổ: “chao ơi! cứt bò khô, mẹ cha chúng nó!”. Lũ lính đứng vây quanh thằng Tây bị thương. Một tên bặm môi rút mũi chông bằng tre gai khỏi mông thằng Tây. Dượng Liên ném chính xác, lựu đạn nổ, thằng chết, thằng bị thương, mấy thằng sống sót chạy lên phía chợ Hôm. Thằng tây nằm ngửa, mồm há hốc, mắt trợn ngược. Chắc hắn vẫn chưa hiểu vì sao phải chết.
- Tước!
Dượng Liên hô danh gọn. Từ những gốc cây dầu máu, bời lời, tre, hóp, lồ ô, cán gáo, bạc mày, tự vệ xông ra tước ba khẩu súng trường, bao lựu đạn, lựu đạn rồi rút nhanh về phía Lòi Đình. Sau mấy phút bị bất ngờ, lính Tây, lính Nam triều định thần, tập hợp lực lượng chia làm hai mũi. Một mũi rượt theo đội tự vệ, một mũi đuổi theo hướng dân tản cử.
Chuyến đò cuối cùng chở bà con tản cư trở lại bên này bến Bè. Bà Khế lặng người nhìn theo cháu ngoại nhấp nhô trên vai con gái. Bà loay hoay với con đò một lúc rồi buộc vào gốc cây. Bà men theo bờ sông mất hút sau rặng dứa ngô.
Hóp má dẫn đầu toán lính chạy đến Bến Bè thì sững lại. Nước sông xanh leo lẻo không một gợn sóng, bình thản như trêu ngươi. Hắn cho lính lùng sục, tìm được con đò nan im lìm như đang ngủ bên mép nước. Hóp gắt:
- Đứa mô biết chèo đò hè!
Không đứa nào biết.
Hắn sục vào trại vịt.
Ông già tóc bạc phơ, nhưng gân guốc, mặt đỏ au thư thả ngụm từng hớp rượu. Hóp lồng lên.
- Lão già, chèo đò qua sông
Ông già rót một chén rượu, đưa cho Hóp
- Uống với ta một chén.
- Ôi chao ôi! Tui xin lạy ông nội. Lúc ni mà rượu với chè được à?
- Chú nói lạ. Lúc mô rượu làng Thượng cũng ngon.
Hóp vung báng súng lục, chén rượu rơi xuống đất, vỡ tan. Mắt ông già long lên, vằn tia máu. Ông dốc nốt hớp rượu cuối cùng, tay nắm chặt cổ chai.
Hóp gào lên:
- Lão già, đi mau xuống đò, chở lính quan qua sông.
Ông già nhìn trân trân bến đò ngang.
- Lão điếc à?
- Ừ tao là Kiếc, Kiếc vịt đây.
Ông già ném mạnh chai rượu khan xuống gần chân thằng Hóp. Mảnh chai đè lên mảnh chén. Thằng Hóp giật bắn, bóp cò. Ông già như trời trổng, mắt trợn ngược.
*
Tổ tiên để lại cho ông Kiếc một mẫu ruộng chứ có ít đâu. Vậy mà dần dà ruộng đất của ông chui tọt vào đôn lúa của cha lão Lỗi lúc nào không hay. Khi thằng Hóp mở mắt thì lão Kiếc này đã thành ông già chăn vịt thâm niên ở làng Thượng. Ông cũng có vợ, không xinh đẹp, nhưng nết na, dịu dàng, khoẻ mạnh. Ông là trai cày hạng một, vợ là thợ cấy không ai bì kịp. Hai vợ chồng lam lũ làm thuê, ở mướn, chỉ mong có túp lều, chút con sum vầy sớm hôm. Vậy mà cái đêm chết tiệt ấy, quan phủ ghé qua nhà cha lão Lỗi. Cha lão Lỗi bắt cô thợ cấy giỏi nhất làng đến rửa chân, đấm lưng cho quan phủ giãn gân cốt. Quan phủ phởn chí, rửng mỡ đè nghiến cô thợ cấy xuống gường. Cô thợ cấy co chân đạp mạnh, quan phủ ngã chổng vó rồi lồm cồm bò dậy, nghiến răng:
- Tau truyền đời cho mi: Chịu làm thớt cho quan thì được sống lại được quan tiền. Bằng không thì chồng mi phải chết.
Cô thợ cấy tủi nhục chịu đựng cho chồng được sống.
Ba ngày sau, dân làng vớt xác cô thợ cấy giỏi nhất làng Thượng từ ao nhà lão Lỗi. ông Kiếc uống một hơi hết chai rượu gạo rồi ôm xác vợ chôn cất trên nương sắn sau lòi Dầu máu. Ông cắm chiếc lều nhỏ, lơ thơ mấy cái tranh leéc đủ che cho mộ vợ và chỗ nằm nho nhỏ bên cạnh cho ông. Cả năm trời ông ở bên mộ vợ, trồng dưa đỏ, sống qua ngày. Hết tang vợ, ông đốt lều tranh ra bến Bè dựng lều chăn vịt. Vịt đổi gạo, đổi khoai sắn, vịt đổi rượu, ông lầm lũi qua ngày đoạn tháng bên bến đò xưa cũ. Chỉ có ngày và đêm không đổi được cho nhau. Chỉ có nỗi đau mất vợ tức tưởi không gì đổi được.
Bọn trẻ làng nghêu ngao:
Ăn hạt mít
Xịt tình tang
Xịt lên côi ngàn/ cháy cơn cháy cối
Xịt về đồng nội
Cháy cửa cháy nhà
Xịt nhằm ông tra
Phát điên phát dại
Ông Kiếc vướng phải
Chết vợ, không con….
Ông Kiếc vác sào đuổi lũ trẻ như đuổi vịt. Ai bảo là Kiếc điếc, Kiếc vịt, Kiếc gàn, Kiếc rượu, ông đều cười hơ hớ đến vô cảm, nhạt nhẽo. Hễ ai nhắc đến: Đồ hèn, để vợ chết oan là ông nổi cơn tam bành, tay cầm ngược chai rượu cho vào mồm nốc cho đến hết, tay cầm dao dựa sắc lém. Lúc ấy, lối thoát thân duy nhất là co cẳng chạy, càng nhanh càng ngoắt nghéo, càng tốt. An toàn nhất là chạy thẳng vào ao vườn nhà lão Lỗi. Từ ngày ôm xác vợ lên lòi Dầu máu, ông Kiếc thề là không bao giờ nhìn thấy cái ao đầu nhà lão Lỗi.
*
Lần đầu tiên ông Kiếc nghe tiếng súng nổ bên tai. Viên đạn hất chiếc nón cời xuống đất thế mà cái đầu ông vẫn còn. Ống nháy mắt. Mặt sông đảo như tráng trứng, ngọn cây chập chạ quay cuồng rồi nhúng ngọn xuống nước, gốc cây bật lên trời, đàn vịt tan tác, con đò như chiếc lá tre đầu ngọn sóng, nhảy nhót, xoay tròn rồi chao nghiêng, chìm hẳn… Thằng Hóp giật mạnh chòm râu đến tứa máu. Ông ngồi thụp xuống, hắn nắm chặt râu ông đứng lên. Hắn thét vào tai ông.
- Muốn sống thì chèo đò qua sông
- Dưng… mà ta lại muốn chết.
- Lão muốn chết cũng không xong đâu.
Thằng Hóp kéo ông Kiếc xềnh xệch xuống đò. Năm tên lính vai khoác súng áp theo sau. Ông ngẩng mặt nhìn trời, lạy đất, bái vọng về lòi Dầu máu, nơi có nương sắn, vạt dưa, có chiếc lều tranh che phần mộ của người vợ xấu số đã thành tro. Ông dồn sức đẩy, con sào uốn cong, con đò lao ra giữa dòng, nơi sâu nhất, nước xanh leo lẻo. Nhớ lời bà Khế dặn, ông thọc cây sào đúng giữa lòng đò, búi giẻ chui tụt xuống lòng sông, nước chảy xối xả. Đò lật úp. Năm tên lính hốt hoảng ném súng, chới với. Ông Kiếc ôm được hai khẩu súng bơi sang bờ bên kia. Ông leo lên bờ. Súng bắn theo xối xả, đạn chiu chíu khắp người. Ông bật dậy, hai khẩu súng khoác chéo vai. Thằng Hóp la hét: bắn! bắn. Ông Kiếc loạng choạng rồi ngả ngửa bên bờ ruộng.
Thà chạy sau cùng đoàn tản cư, quay lại. Hai bàn tay ông Kiếc nắm chặt quai súng từ từ duỗi ra, đôi mắt chỉ còn lòng trắng. Mắt trắng, tóc trắng, râu trắng, chòng chành giữa đất trời làng Thượng trắng nắng. Chỉ có ngực ông đẫm máu đỏ tươi. Thà khoác súng lên vai, vuốt nhẹ, đôi mắt ông khép lại như người đang ngủ, hai bàn tay trắng ngửa lên trời.
Mọi việc xảy ra như ý của bà Khế, chỉ có cái chết của ông Kiếc là bà chưa lường hết. Bà con bó thi thể ông trong chiếc chiếu, chôn bên cạnh vợ ông. Không còn ai thân thích để đội khăn trắng, mang áo nối chịu tang ông. Bà Khế đội chiếc khăn trắng lên đầu, khấn trước linh hồn ông Kiếc
- Ông ơi! Tui không phải là họ hàng thân thích. Nhưng tui và dân làng Thượng xin chịu tang ông. Xin chịu ơn ông.
Gió liu riu thổi qua kẽ lá dầu máu. Nén hương cháy bùng…. thành ngọn lửa!...
5
Thục nằm vật xuống chõng tre, khóc gào, quằn quại:
- Con ơi! Bây chừ con ở mô? Con ơi!….
Bà Khế vốn điềm tĩnh trong mọi việc, nhưng với việc này bà trở nên luống cuống. Bà Cao chết lặng, nằm sóng soài như tàu lá chuối non bị phơi nắng. Bà Khế kéo Thà ra gốc chay bên cạnh giếng mội.
- Con thử kể lại cho bác nghe
Thà ngước đôi mắt đỏ hoe, đẫm nước mắt nhìn bà Khế trân trân.
- Để mất cháu, con cũng có tội bác à.
- Chừ chưa phải lúc nói chuyện ai có tội mà bình tĩnh nhớ lại để tìm kiếm cháu, con có hiểu không?
- Dạ con biết.
- Cả ngày nay, bác cũng máy mắt nhiều lắm. Bác tin là thằng Đái còn sống.
Thà kéo vạt áo lau nước mắt, giọng buồn.
- “Vuốt mắt cho ông Kiếc xong, cháu vác hai khẩu súng chạy lên xóm Rú. Giao hai khẩu súng cho đội tự vệ dượng Liên thì bọn lính từ Cầu Diện xuống, từ Bến Đa lên, đông lắm. Dượng Liên ra lệnh cho đoàn người tản cư xuống hầm bí mật. Tự vệ chặn địch ngoài Rú. Ta có thêm mấy khẩu súng nữa nên bọn địch sợ, bò từng đoạn một. Khi bà con rút sâu vào hầm thì bọn lính tây, lính Nam triều đến nơi. Con nghe rõ tiếng thằng Hóp đòi xới hết đất xóm Rú lên như đào cỏ cú, tìm cho ra Việt Minh bắn bỏ. Lúc mọi người không giám ho, sợ lộ thì thằng Đái khóc thét lên. Thục nhét vú vào mồm cháu không bú mà khóc ngằn ngặt. Có người sợ quá thì thầm: “bịt miệng thằng nhỏ lại”. Ả Thục van lạy: “Rứa thì con tui chết mất”. Một người gằn giọng, “thà chết đứa con nít còn hơn chết cả làng”. Ả Thục sợ quá, khuỵu xuống, ngất xỉu. Con ôm cháu áp vào ngực, lấy áo trùm kín, nhưng tiếng khóc của cháu vẫn to. Con đi vào tận trong hầm. Nhiều người quỳ lạy. Một ai đó đặt bàn tay to bè lên mồm cháu. Cháu ngạt nấc ằng ặc. Con đẩy bàn tay lạ ra, chen vào cuối đường hầm. Hơi đất nồng nặc, hơi người đặc quánh, cháu không khóc được nữa. Con rùng mình: Hay là cháu chết rồi. Con kêu lên: “Cháu ơi” thì một bàn tay to bè, thô ráp bịt mồm. Con không biết gì nữa. Khi tỉnh lại con mới biết đang được người ta cõng. Con hét lên “cháu tui! Cháu tui mô rồi?”. Không ai biết. Ả Thục ngất lên, ngất xuống, gào khản cổ “con ơi là con ơi!”.
Bọn lính bị đánh bật khỏi xóm Rú, chạy về Hồ Xá, dân làng ra khỏi hầm trở về làng. Hai chị em con chạy đến từng người hỏi, nhưng không ai thấy thằng Đái đâu?!
Ba tháng đi tìm con từ Hầm hoà lên xóm Mội, xóm Rú, cầu Điện mà không thấy con đâu, vú căng sữa, Thục như kẻ mất hồn. Hễ nghe thấy tiếng con ai khóc là Thục chạy tới. Bà Cao ốm lả, suốt ngày ngồi bậu cửa chờ con dâu tìm cháu nội về.
Làng đói…. Nhà hết gạo. Thục chặt cây chuối sứ đầu bờ ao vác đi đổi gạo. Cây chuối nặng, trời nắng gắt, mồ hôi đẫm vai áo, mủ chuối lẫn sữa tươi đẫm ngực. Thục vác chuối trong nắng, trong cơn đói cồn cào, trong cơn đau tức vì căng sữa. Người ta bảo cứ chịu khó đổi được một cái gì đó, kiếm về lon gạo thì may ra tìm lại con trai. Ngày nào Thục cũng vác cây chuối đi đổi. Một cây chuối to lợn người ta ăn no vài ngày, Thục được lon gạo, nấu cháo với rau khoai lang cả ngày cho ba mẹ con bà cháu. Gian truân quá, Thục mong Thuận về, nhưng lại sợ. Anh về mà chưa tìm được con thì tội cho anh lắm. Chiều tối, Thục liều mạng vác cây chuối hột to nhất vườn đến nhà lão Lỗi. Mụ Lỗi nhìn cây chuối ưa mắt, đổi một lon gạo đầy với bát cơm nguội. Thục chưa kịp nói lời cảm ơn thì thằng Hóp ập đến, cười nhăn nhở.
- O ni lạ thiệt đó. Con mất tích, chồng theo Việt Minh, lấy vợ mới rồi, còn chi nữa mà ngóng trông.
- Ông đừng có độc miệng. Con trai tui còn sống.
- Nói thiệt. O lấy tui, được ăn no, mặc đẹp, con cái đầy đàn. Muốn chi được nấy.
- Tui là gái đã có chồng. Ông tránh ra…
Hóp má sàm sỡ ôm chặt Thục trong vòng tay thô cứng. Thục ném cả lon gạo, cả bát cơm nguội vào mặt, Hóp buông tay. Thục chạy một mạch về nhà. Hai con chó nhà lão Lỗi đuổi theo Thục đến cầu ao thì dừng lại. sủa vội mấy câu ra oai. Thằng Hóp cho hai con chó hai cú đá lộn cổ xuống ao cho bõ tức.
*
Xế chiều
Nắng xiên khoai
Mặt đất nóng hầm hập
Không một ngọn gió.
Cây chuối vẫn nằm trên vai Thục. Chưa ai đổi chuối, chưa tìm thấy con, Thục cứ đi, mặc nắng, mặc đói. Chân cứ bước, lòng quặn thắt thương con. Thục qua Cầu điện lúc nào không hay, rồi rẽ phải. Xóm Mỹ Lộc đã nghe tên, nhưng chưa đến lần nào. Mặc kệ, Thục cứ đến . Gần tắt bóng nắng mà đàn bò vẫn gặm cỏ cằn khô. Hai hông chúng vẫn lép kẹp, có thể lấy giây mây xâu từ bên này sang bên kia hông. Lũ trẻ chăn bò đen đúa, lên mười mà vẫn tồng ngồng. “Cho biết đến khi nào, thằng Đái được đi chăn bò”. Thục ôm cây chuối, khóc tức tưởi. Khát quá, cái khát át cái đói. Từ sáng đến giờ chưa có hột cơm vào bụng. Thục vác cây chuối đến ngôi nhà nhỏ, hay nói đúng hơn là túp lều nằm giữa hai cây bưởi. Thục cất giọng khàn khàn.
- Ai có nhà không - có đổi chuối không?
Người phụ nữ hơn Thục cả chục tuổi thò đầu ra khỏi cửa.
- Nhà có heo ca chi mô mà đổi.
- Ả có nác không, cho tui xin ngụm.
- Nác lắng (nước lã) thì có. Vô đây.
Thục đón gáo nước giếng từ tay người đàn bà có gương mặt tròn đầy đặn. Uống đến đâu, mát đến đấy. Trên gường đứa bé khóc ngằnn gặt. Thục sà đến:
- Cháu được mấy tháng rồi hở ả.
- Ba tháng.
- Ôi chao, mới ba tháng mà (trộm vía) nục nặn quá hè.
- Tui không có sữa, mà cháu khát quá.
- Để tui cho cháu bú.
Thằng bé bù bầm bập, mắt mở to, đen láy nhìn Thục – “chao ôi! giống thằng Đái như đúc”. Thục suýt kêu “con tôi”, nhưng kịp im lặng. Thằng bé bú no, nằm tênh hênh, tay chân khua đập loạn xạ. Thục vui chuyện
- Eng ả được mấy đứa rồi. Thằng chó ni là thứ mấy?
- Chẳng dấu chi, tui không có chồng
- Dưng mà…
Thục thơm vào rốn, thằng bé cười khanh khách.
- Con nuôi của tui đó.
- Lâu chưa
- Ba tháng rồi đó.
- Ôi chao, ai có đứa con đẹp như ri mà đem cho hè. Tội nghiệp quá.
- Chuyện dài lắm, như ri:
Hôm lính Tây càn vô xóm Rú, tui đi mồm thuê ở đó, cùng bà con chạy vô hầm bí mật. Chao ôi, Tây thì xì xồ ngoài hầm, mà thằng nhỏ lại khóc thét: Sợ lộ, giặc giết hết cả làng, nên nhiều người đòi, bịt mồm, bóp cổ đứa bé. Thằng bé chuyền hết tay người này đến người nọ, đến tay tui thì cháu không khóc nữa. Hết giặc, đêm túi thui, tui ôm cháu chạy một mạch về làng. Thằng bé đòi bú, gào khóc, tui cũng khóc theo. Xóm trên có ả sinh con được dăm tháng, tui cho cháu lên bú chực. Nhưng mấy hôm ni, ả nớ mắc bệnh thương hàn, kiệt sữa, không biết có sống nổi không
Thằng bé đòi bú, giọng Thục đẫm nước mắt:
- Ả ơi! Tui đội ơn ả. Con tui đây rồi. Con trai tui đây rồi ả ơi!
Chủ nhà sững sờ rồi điềm đạm:
- Nhưng con o có dấu tích chi không?
- Dạ, dưới thắt lưng cháu, bên phải có vết chàm to bằng cúc áo.
Thục kéo miếng giẻ. Đúng như thế. Hai người đàn bà, hai người mẹ nhìn nhau, cùng ôm đứa nhỏ, khóc nức nở.
Đêm ấy, đứa bé nằm giữa hai người mẹ. Thằng bé cứ rúc, bú tòm tọp. Thục chỉ húp vội bát cháo loãng lổn nhổn khoai lang, nhưng sữa vẫn về, vẫn tràn trề cho con ba tháng nay khát sữa mẹ.