Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.858 tác phẩm
2.760 tác giả
1.072
123.164.335
 
Hư thực
Phùng Văn Khai
Chương 1

Lời mở đầu

 

Cảm hứng xuyên suốt và nhất quán khi viết Hư thực với tôi là một cảm giác bồn chồn, thôi thúc từ suy nghĩ phải đổi mới cách viết của chính mình. Tuy thế, khi bắt tay thực hiện mới thấy rất khó khăn. Cảm hứng sáng tác luôn tràn trề nhưng khi triển khai văn bản đã vấp phải sức ì của lối viết cũ và sự mòn sáo, hạn hẹp trong ngôn ngữ của mình. Tôi chủ trương đây phải là một cuốn sách mới từ bố cục hình thức đến thể hiện nội dung. Đã một thời gian dài quen với kiểu sáng tác hiện thực, quen với thể loại truyện ngắn có cốt chuyện, nay bước vào viết tiểu thuyết, lại gần như bỏ lối viết cũ, mới thấy vốn sống và tri thức của mình còn nhiều hạn chế, thiếu thốn. Xử lý những hạn chế đó như thế nào và điều tiết những thăng hoa của người nghệ sĩ ở cuốn sách luôn được đặt ra ráo riết và chặt chẽ. Có những lúc viết ào ạt, cởi mở, cảm giác mạch truyện thật rõ ràng. Có những lúc bế tắc, rối rắm trong triển khai nhịp điệu câu chuyện, những lúc như thế tôi thường dừng bút. Tôi luôn cảm giác rằng mình phải thể hiện và nắm bắt bằng được một cái gì đó trong cuốn sách này. Nó phải là một trong những cuốn sách quan trọng trong đời viết vì những phấn khích tươi mới không phải lúc nào cũng đến với người viết. Nhiều phần của cuốn sách đã đến tay các bạn viết cùng trang lứa và một số nhà văn thành danh ở thể loại tiểu thuyết. Nhiều người động viên khen ngợi cách thể hiện cũng như vấn đề mà cuốn sách đặt ra. Cũng có người cho rằng nó được viết quá kín đáo, có phần bí hiểm và có thể vì thế mà gặp khó khăn trong quá trình tiếp cận người đọc. Thực ra cuốn sách không thể viết khác được, mẫn cảm cá nhân đã mách bảo điều đó. Bản thân tác giả cũng đã từng phá ra, viết lại một số trường đoạn theo một thể hiện khác hoàn toàn nhưng đọc thấy không ổn, vì vậy, vẫn trung thành theo một cấu trúc xoáy ốc, tất cả các nhân vật, sự kiện, không gian, thời gian luôn được trộn lẫn vào nhau. Mạch truyện được dẫn dắt, xử lý chủ yếu bằng cảm xúc. Những lúc cảm thấy mạch truyện trượt ra ngoài mong muốn, tác giả lập tức dừng lại cho đến khi tìm thấy hơi hướng ban đầu của nó mới tiếp tục triển khai. Tôi đã viết Hư thực trong khoảng thời gian hai năm với những sửa chữa liên tục và đến khi đưa đi in vẫn luôn không ngừng canh cánh đến nó. Là nhà văn, ai không lo lắng và dồn nhiều tâm huyết cho những đứa con tinh thần của mình. Tôi cũng không ngoại lệ. ấy vậy mà, khi Hư thực đi dần vào những trang cuối, dường như những lo lắng vẫn không hề giảm bớt. Có những lúc còn cảm thấy sự run rẩy của mình dành cho tập sách có chiều hướng tăng lên. Nó sẽ là một cuốn sách có sức nặng trong đời văn hay chỉ là một hoài công của một chặng đường viết gập ghềnh. Sự thành công của một tập sách đôi khi nằm ngoài chủ quan mong muốn, kể cả những cố gắng tột bậc của tác giả. Do có lẽ dành cho nó quá nhiều tình cảm nên mình run rẩy chăng. Rồi sự tiếp nhận của bạn đọc, của các nhà phê bình sẽ như thế nào thật khó đoán biết trước. Chỉ biết rằng, đã cố gắng hết mức để tập sách trước tiên ổn thỏa với những suy nghĩ nội tâm của mình. Với mỗi nhà văn, cách viết có thể khác nhau nhưng chúng ta vẫn gặp nhau ở điểm chung là mỗi cuốn sách trước hết và trên hết phải là sự sáng tạo nhằm phục vụ con người ở nghĩa tích cực. Hư thực có những mảng tối trong nhiều trường đoạn nhưng khi đặt vấn đề ấy ra tôi chỉ bằng những xúc động tột độ mà viết, viết không lẩn tránh, không kiềm chế, nhưng cũng không phải và chưa bao giờ mất bình tĩnh khi chạm đến những mảng tối ấy. Tôi luôn nghĩ đến cuộc vật lộn không khoan nhượng giữa thiện và ác, tốt và xấu, cao thượng và thấp hèn, thánh thần và quỷ sứ trong mỗi con người chúng ta, những biểu hiện, những nhân vật, ở mỗi thời gian và hoàn cảnh khác nhau trong xử lý bản thảo. Hầu hết nhân vật trong cuốn sách là có thật, hiện đang sống ở xung quanh. Có nhân vật từ nhiều người gộp lại, có nhân vật từ một người chia ra, những chi tiết, những sự kiện có khi tưởng như hoang đường, cũng không ít phi lý được triển khai đều được xây dựng từ sự thật mà tôi trải nghiệm. Một trong những khó khăn là sự kiên trì khi triển khai mạch truyện và duy trì sự nhất quán của văn phong đã có nhiều lúc bị đứt gãy, tưởng chừng phải bỏ dở. Không phải tác giả không đủ tự tin nhưng đường đi và sức sống của một cuốn tiểu thuyết (kể cả khi nó chưa đến được với độc giả) luôn chịu một sức ép và sự thăng trầm là điều khó tránh khỏi. Khi viết những dòng này, tôi chỉ mong muốn một điều đã bộc bạch được tình cảm thật với tập sách mà mình đã dành nhiều tâm sức cũng coi đó là sự trân trọng đối với bạn đọc. Xin cảm ơn mọi đóng góp, phê bình, những chia sẻ tình cảm của mọi người dành cho tập sách. Xin cảm ơn các bạn đồng nghiệp đã động viên, bày tỏ chính kiến trong quá trình sáng tạo và hoàn thiện tác phẩm.

 

 

Bắt đầu từ một đêm.

ình ình, ình ình… Tàu chạy trong đêm trăng lạnh. Mùa đông giáp tết, những chen lấn, xô đẩy, mua bán phố phường, những vụ lợi, mánh lới, móc ngoặc, cho nhận, ban phát rồi cũng lùi cả phía sau. Dại dột tham dự chuyến công tác ngẫu nhiên với Y, họ Đào dường như không mảy may ân hận. Đã lấm láp, phiêu du từ nhỏ. Đã oan ức, chán chường, tuyệt vọng và lang bạt. Thêm một ít giờ khắc, tiêu đi dăm bảy mười ngày vào một chuyến đi về xứ sở của mình, của mới, của lạ, của khác, thì đã làm sao. Họ Đào ngự co ro góc giường, nơi tầng cao nhất của con tàu xuyên Việt. Mấy cái vỏ chai lăn đi lăn lại theo nhịp chao lắc, vật vã, đôi lúc nhảy xóc lên, va lanh canh, dập dờn, lóa nhóa bắt ánh trăng leo lét he hé qua cửa kính con tàu. Đêm càng khuya, trời càng lạnh. Thỉnh thoảng, tiếng bánh sắt rít lên ọc ọc, gầm ghè, u uất, thê lương. Y nằm phía bên kia, căng mắt nhìn đâu đó qua dập dờn chao lắc, he hé rèm che cửa kính. Ngoài trời là trăng, lạnh lẽo, đơn độc. ở trong khoang tàu hạng nhất tưởng như ấm áp, con người đâu có khấm khá gì. Lấy chăn đệm, điều hòa, rèm kính hay mượn rượu hâm nóng tráng chí của con người tưởng là thượng sách mà lại là hạ sách. Khi cõi lòng đơn độc, càng ấm áp gối chăn, điều hòa, chè rượu, cuộc đời càng thăm thẳm, hoang liêu. Lúc này, họ Đào đang rơi vào cái hố thẳm ấy. Con tàu còn có ga dừng, trạm đỗ, còn hú mừng một ban mai, chào đón một cung đường. Có khi đi từ đêm đen, từ bão lốc, từ băng tuyết mà đến với hoa mai hoa đào hò hẹn, với băng rôn, cờ hiệu xòe tay bắt mặt hoa da phấn miệng cười. Hoặc như Y còn có cơ quan đoàn thể, vợ con, bồ bịch, phong bao, bắt tay, điện thoại, đưa đón, dù xã giao chiếu lệ, dù đầu tắt mặt tối, ganh ghét, tị nạnh, dọa dẫm, a dua, thớ lợ, viển vông thì những tít mù ấy còn đắp vợi đi cái cô đơn, hoang vắng của kiếp người. Cứ như họ Đào, thân cô thế cô, bấp bênh nghề ngỗng, lang bạt kỳ hồ, gia đình xa vắng, vợ con không màng, tiền tài im lặng, trú ngụ thất thường, độc thân hơn bốn mươi năm lại tội nợ cầm bút viết văn, lại viết không xu thời nịnh thế thì kiếp người có khác gì kiếp bướm, như có như không, có cũng như không ở cuộc đời này. Phía bên ngoài, đoàn tàu đang chạy qua một khu rừng, chắc là ở một góc núi hiểm hóc của dải đất mấy trăm năm chiến tranh giặc giã liên miên. Trên khoang, mọi người như thấy con tàu đang chao lắc, uốn lượn giữa những đoạn đường gập ghềnh, hiểm trở. Có những khúc quanh xoắn ốc, con tàu như bị ai hút mất tiếng động, nó thoát rời khỏi mặt đất mênh mông, lao vút lên trời thẳm. Rồi tiếng ầm ầm, ình ình lại dội lên. Khi chui vào những hầm núi bị đục đẽo, cảm giác hạ xuống mặt đất thật rõ ràng. Đã có những lo sợ mơ hồ biết đâu những dãy núi đá hàng triệu tấn trên nóc hầm chẳng bất thần ập xuống, nghiến nát vụn con tàu tội nghiệp và những sinh mạng đáng thương đang thiếp giấc. Rồi nó chui ra khỏi cái lỗ đen ngòm hun hút để như lại muốn thăng thiên lao vút lên trời lần nữa. Những suy nghĩ lạ lùng về con tàu trở đi trở lại trong cái đầu ong ong của Y. Nghe tiếng tàu, Y nghĩ đến những người lính thú xa xưa bị xúi đến vùng lam chướng, bụi bờ đầy các loài mãnh thú ẩn lấp trong rậm rạp của đại ngàn. Từ những địa thế hiểm hóc, biết bao bi kịch khủng khiếp xảy ra. Chém giết, hãm hiếp, giam kìm, bao nhiêu trò thương tâm, mông muội đã diễn ra mấy trăm năm nơi rừng thẳm. Những câu chuyện thê thảm, rùng rợn về ma trành, tinh hổ, ma sói do con người có lẽ quá buồn thảm đã thêu dệt nhằm hãm hại lẫn nhau. Con tàu đơn độc lao mình trong đêm đen về nơi vô định. Bóng tối trập trùng, lạnh lẽo bủa vây. Nó như một con thú bị thương, thỉnh thoảng lại rít lên òng ọc đầy bất lực. Nằm phía bên kia, thỉnh thoảng họ Đào lại ngáp. Ngáp mà mắt vẫn mở trừng trừng về phía trời đêm, như nhìn xuyên cả không gian, vật chất, phi vật chất mà thoại với ông trăng đơn độc ngoài kia đang ngơ ngác ừ nhỉ sao khuya khoắt thế rồi cái con tàu dớ dẩn này còn thao thiết chạy để làm gì. Cứ chạy như phát rồ phát dại trong đêm thẳm rồi cũng chẳng giải quyết được vấn đề gì đâu. Cứ chạy đến mông muội mụ mị cả đời cũng chẳng giác ngộ được điều gì đâu, anh bạn ạ. Ta là ta nói thật lòng đấy. Cả cái cuộc đời từ non trẻ mảnh mai đến già dặn tròn đầy lão luyện ta chưa bao giờ nói dối ai. Nói dối như Cuội ta còn không chấp, còn cấp cho nhà cửa, ngựa xe, cây cối và mỹ nữ để chi dùng. Anh ngốc ạ. Anh quả là ngu ngốc. Quả không một ai ngu ngốc như anh. Cả các người nữa. Các bạn thật là ngu ngốc. Ngu ngốc lắm. Ngu lắm… Ha ha ha. Ha… ha… ha… Giữa đêm trăng lạnh, họ Đào đột nhiên cười khanh khách. Y chợt thấy lạnh rởn người. Một luồng khí lạnh đột ngột chạy buốt sống lưng. Chết rồi. Họ Đào là ma chứ không phải là người. Y còn nghe đồn rằng con người ta không ít lúc như có ma quỷ nấp sẵn ở  bên trong, khi oan khuất, u uẩn, lại là những đêm trăng lạnh rất hay nhập vào trêu cợt bạn hữu, lương dân. Toàn thân Y như bị chuột rút. Con tàu bỗng biến thành một thỏi băng lạnh cứng, im lìm, trôi lừ lừ trong sương không một tiếng động. Biến đâu mất tiếng ình ình quen thuộc. Không khí trong khoang đặc quánh, lạnh buốt. Hai vị khách nằm tầng dưới không còn bóng dáng, chỉ trơ lại chiếc vỏ ga trải giường xộc xệch, nham nhở, âm u. Họ đã biết trước giờ khắc ghê gớm này để rút khỏi đây ư? Hay có thuật tiên tri và đã rời sớm trước một ga khi tiếng cười ma quái kia cất lên. Không thể nào. Buổi tối, khi Y dốc cạn giọt rượu cuối cùng, hai ông khách già tầng dưới còn cảm ơn mấy ly rượu nếp hoa vàng đem từ châu thổ ấm nồng bờ bãi rồi lạch xạch nằm xuống bảo hai chú trẻ tuổi cứ tâm sự thoải mái, bọn tớ già mõ ra rồi chả còn lạ trò gì trên đời các chú cứ nói chuyện chán thì ngủ. Đến ga Cửa rừng ấy, chúng tớ sẽ gọi. Chúng tớ lạ quái gì cái ga khỉ ho cò gáy ấy. Người già đã hay mất ngủ lại ở trên tàu thì ngủ thế nào được. Các cậu trò chuyện chán thì cứ ngủ, chúng tớ canh gác cho. Bây giờ họ biến đi đâu? Hoang mang. Cứng lạnh. Im ắng rợn người. Phía bên kia lại rộ lên một tràng ha ha ha…ha… ha… ha… Họ Đào nằm bất động, mắt mở trừng trừng. Có một làn khói mỏng đùn phảng phất trên khuôn mặt hoang hóa, râu ria, lạnh lẽo. Nơi khe rèm kính, sương nhiều vô kể loang loáng tràn vào. Nằm cứng như bắt vít xuống giường tàu, tim óc Y bắt đầu cựa quậy, rồi sùng sục sôi lên. Mẹ kiếp! Ta đã chán ngấy những trò sương khói, ma mị. Nếu là ma thì ta đây chứ không phải là mi có quyền trỗi dậy dọa nạt bạn bè. Cầm bút thì cùng cầm bút, hà cớ gì làm ma mãnh, xảo thuật dọa nạt, trù úm anh em. Hỡi họ Đào, ta không sợ mi đâu. Mi có đắng cay, tủi nhục, oan khuất thì ta cũng có đắng cay, tủi nhục, oan khuất. Chớ hòng dọa nạt, khống chế. Mẹ kiếp! Bố mày đây cũng không phải thằng vừa. Đừng khuất phục vô ích. Ta không sợ trò ma thuật của mi. Ha ha ha... Ha… ha… ha… Một tràng cười ma mị nữa lại đột ngột cất lên rất trêu ngươi. Tràng cười này như có gì u uất, thê lương lắm. Sương ở đâu tràn lạnh cả khoang tàu mờ mịt. Đôi mắt họ Đào mở trừng trừng ngân ngấn những giọt nước đục ngầu trong sương đục. Nước mắt trong sương lạnh đỏ nhờ nhờ như phù sa, rồi đỏ quạch như máu. Quái lạ. Đã từng bị điện giật. Đã từng bị bóng đè. Đã từng bị chuột rút toàn thân. Từng suýt chết ngạt, chết đuối, từng ngất lịm, từng hôn mê chưa bao giờ Y rơi vào trạng thái bất lực đến thế này. Y thầm nghĩ. Lát nữa họ Đào sẽ sang giết ta chăng. Giết ta thì mi được lợi lộc gì hay chỉ càng chuốc vào thê lương, oan khuất. à mấy lần mắt mi lóe lên khi nhìn cái xe đắt tiền của ta, nhà cửa của ta, ruộng vườn của ta, bạn bè của ta. Thèm muốn? Nhân dịp này mi sẽ giết ta để đoạt lấy những thứ ấy? Vớ vẩn và nhảm nhí. Nông cạn. Cứt chó. Ta chửi vào giả định ấy, khát thèm mông muội vớ vẩn ấy của mi. Tưởng gì. Như thế thì không được. Y bỗng bật cười to thành tiếng. Trời ơi! Ta đã cười được. Trời ơi. Y muốn gào lên. Họ Đào nằm phía bên kia chợt rùng mình, giãy giãy lên mấy cái rồi ú ớ lẩm nhẩm câu gì vô nghĩa. Không gian càng đặc quánh. Mồ hôi túa ra lớp nhớp trong sương. Họ Đào vẫn bất động, mắt mở trừng trừng, quanh người sương khói phà ra mờ mịt. Thì ra họ Đào sợ tiếng cười, sợ cái ha ha ha của con người, dù là ngay cả người quen thân, bạn hữu lăn lóc khốn khó với nhau bao nhiêu năm cứ ha ha ha là gã hoảng. Đã thế, Y lại cười. Ha ha ha… Ha… ha… ha… Ha… ha… ha… Họ Đào giãy như bị điện giật rồi bất động nằm im, mặt nhăn nhúm, mắt mở trừng trừng không chớp…

 

Mấy hôm sau, cũng đêm trăng lạnh cóng nơi góc rừng biên giới, Y chế giễu họ Đào. Ông làm ma nhát tôi cũng đếch đến đầu đến đũa. Mới đầu tưởng ông giết tôi. Ông giết tôi thì được cái quái gì. Ai bầu bạn với ông. Ai sẽ hiểu ông. Không không. Mày mới là ma thật. Mày là ông mãnh con. Tao biết. Lúc ấy mày cười thêm tí nữa là giết chết tao đấy, đồ khỉ ạ. Mà thế cũng hay. Có khi chết cũng không hẳn phí công vô ích. Mẹ kiếp! Bọn khôn ngoan thì bây giờ đã không ở đây. Như thế là tốt. Ta thích cô độc và cuộc đi đang theo chiều hướng ấy. Nào, đêm nay trăng cũng lạnh, giữa nơi biên giới hoang vu này hãy quăng đi tất cả những gì vớ vẩn mà soi rọi vào nhau, vào cuộc đời, ông bạn ạ. Họ Đào lại triết lý, vân vi, ngẫm ngợi. Ngoài kia, trăng nhờ nhờ, đùng đục, bàng bạc hơi sương. Những rừng khộp bên này bên kia biên giới trút hết lá, trải nhiều cuộc cháy lớn nhỏ, đen đủi, run rẩy dưới tàn trăng. Đêm biên giới u u, mang mang, huyền bí. Những người trẻ tuổi trong lán trạm ngủ từ lâu. Buổi chiều, khi cùng họ xuống suối bắt cá, gã làm mọi người rất ngạc nhiên. Họ Đào cực kỳ sát cá. Ai ngờ được bàn tay chuyên cầm bút nhỏ bé, xinh gọn lại bén nhạy nơi khe đá, luồn lách và tóm gọn những chú cá ngạnh, cá lóc suối, cá bống và cả những loài da trơn chưa ai đặt tên. Họ Đào tỏ vẻ khoái trá, mắt sáng rực như đồng nhập. Mấy cậu trẻ tuổi cả kinh lúc gã tợn tạo sục tay vào những hẻm đá sâu hoắm. Biết đâu chả có một con giải, một con trình hoặc một con vật bí hiểm thiến sống bàn tay xinh xẻo kia. Số gã cực kỳ đen đủi, chạm vào cái gì toàn đổ vỡ. Ai nấy cuống quýt khi gã mắm miệng gầm gừ giục mọi người hỗ trợ gã kéo một con ba ba lớn trong hẻm đá. Y hốt hoảng bảo thôi đi, hãy tha cho nó làm chúa tể ở đây, ông hiếu sát như vậy không tốt gì trong chuyến xuyên rừng xuyên suối này đâu, tháng trước có mấy người đi rừng bị voi giẫm chết bi thương lắm. Họ Đào lẩm nhẩm câu gì, lục sục buông tay tiếc rẻ, lòng bàn tay nhớt dãi của loài da trơn vừa để sổng nhểu xuống tanh lợm. Chúng tôi vẫn tiến sâu trong lòng suối nhưng có lẽ chỉ gã còn mê mẩn với những săn bắt của mình. Mặt trời bắt đầu tắt, từng chùm sương trắng mỏng bốc lên mờ mịt giữa lòng suối. Phía khu rừng, không khí âm thầm ảo não, đám chim muông lạt sạt chao lượn trên các tầng cây. Nhiều âm thanh, tiếng động lạ lùng phát ra mơ hồ đứt nối nhưng vẫn rõ từng tiếng hú, tiếng gọi, tiếng gầm ghè của biết bao sinh vật, động vật trong vật lộn sinh tồn. Những ồn ào phức tạp khó tả ấy chen chúc thỉnh thoảng rộ lên trong tiếng gió u u. Giữa rừng sâu, toán người bỗng thấy những tiếng động, màu sắc đang bủa vây, đe noi mình, nhất là những người mới đến. Y trấn tĩnh xốc lại lòng can đảm, sẵn sàng chấp nhận sự đột biến đang rình lấp. Từ lúc đó, Y và cả họ Đào nữa trở lên trầm lặng. Toán người lầm lũi tiến dọc theo lòng con suối. Những lúc như vậy, Y luôn khâm phục tinh thần của gã. Không phải lúc nào con người ta cũng có tinh thần như thế. Tinh thần làm chủ hoàn cảnh của mình. Bàn chân Y giẫm lên những thảm lá mục còn sót lại, dấu vết của những đám cháy loang lổ. ấn tượng đầu tiên khi tiếp cận con suối là sự nhớp nháp của dòng nước đục. Không hiểu sao lúc mới nhìn dòng suối, mắt họ Đào sáng hẳn lên. Toán người lầm lũi tiến trong dòng suối.

 

Một luồng sáng đâu đó nhóa lên. Chợt họ Đào cắt ngang dòng suy nghĩ của Y. Này! Ông toàn phá tôi. Lẽ ra chúng ta đã có một bữa tiệc ba ba ra trò ở nơi này. Y nhìn gã, trăng leo lét tưới tắm thân thể, tóc râu, áo quần, thân phận mấy con người rừng rú. Trăng lênh loang, tràn khắp lều bạt, gỗ lạt, củi cành, phên giậu, cỏ cây, đá sỏi một vẻ mông muội, hoang sơ. Đời người hữu hạn sao ham muốn khôn cùng, trách nào không rước về tai họa. Cuộc đi này ngoài việc hoàn thành bài ký vùng biên viễn cho số báo Tết, Y còn thu thập tài liệu cho cuốn tiểu thuyết đang viết. Rủ gã đi, Y luôn nghĩ sẽ giải quyết được điều gì. Họ Đào vốn dòng dõi nho gia, trải binh biến, thăng trầm đến đời ông nội thì sa sút. Có thực tài, thực học nhưng tính tình gàn bướng, lạc thời lạc thế, trong cuộc sống chỉ toàn ưa thích những chuyện ma mãnh, gió trăng. Lạ là văn chương họ Đào âm thầm nhân hậu. Văn phong lạ lùng, kỳ ảo da diết, vang sâu và rất thiện tâm, thiện chí ở cuộc đời. Oái oăm ở chỗ dường như rơi đúng vào cái buổi người ta không cần những đặc tính trên, họ còn đang mải bè cánh, thù tạc, phỉnh phờ, xúi giục lẫn nhau, những thứ mà có chặt đầu gã cũng không làm được. Những sáng tác của gã thường rơi vào im lặng, chìm khuất, mỗi mình Y hò hét, phèng la cũng chả ăn thua. Chẳng lẽ sáng tác chỉ hai thằng biết với nhau, hiểu với nhau. Thế khác gì chỉ anh biết, tôi biết, trời đất biết còn ra quái gì. Là con người chứ có phải thánh nhân, mặt trời mặt trăng đâu mà tự sống, tự hiểu, tự bỉ, tự tri, tự kỷ một mình. Hôm nọ, lúc đối thoại với vầng trăng thần thánh ngoài khoang tàu, gã đã ngộ ra cái nhỏ nhoi, hạn hẹp, dốt nát, tối tăm của kiếp người chưa nhỉ. Cái lúc họ Đào cất tiếng ha ha ha sao tự đắc, tự cao thế. Rồi ha ha ha nhuốm màu u uất. Rồi ha ha ha hãi sợ chính tiếng vọng của mình…

 

Ngoài trời đêm, những giọt trăng suông mỏng mảnh, leo lét rót xuống núi rừng, cây cỏ và những suy nghĩ đứt nối. Bếp lửa đã tàn,  những tàn lửa nổ lép bép, lục bục. Đêm càng khuya càng lạnh. Tiếng gió u u rất nhỏ, có những lúc im bặt rất lâu rồi lại u u, loạt soạt. Bên tàn lửa, giữa đám gỗ đẽo gọt nham nhở, tạm bợ, ẩm ướt, họ Đào nằm xuống, tay gác lên vầng trán đẫm ướt, mắt mở trừng nhìn phía trời đêm. Trên nền trời đen thẫm, ông trăng đã trốn đi chỉ tỏa ra một chùm sáng yếu ớt không đủ sức pha loãng màu tối dưới gầm trời. Y không ngủ được. Cũng chả phải sợ sệt cảnh giác gì vì ở nơi đây, nơi cuối đất cùng trời, với những con người này, những con người yếu đuối, lương thiện, chất phác, giản dị, luôn sẵn sàng nhường nhịn thì hãi sợ gì. Nhưng Y buồn, một nỗi buồn thoạt đầu chỉ nhu nhơ, sương khói bỗng vụt lớn lên, trùm khuất, xuyên thấu những nghĩ suy, tràn ra cây cỏ, lều bạt, tràn ra đất đá, sỏi cát, tràn lấn ra trăng, rồi hòa lẫn vào trăng, hòa lẫn vào vũ trụ mênh mang. Bên kia đống lửa tàn, trên ván gỗ ẩm, họ Đào dường như cũng buồn lắm. Hai khối buồn được ngăn đại khái giữa một đám lửa tàn tịnh không xâm lấn vào nhau như hai khối pha lê trong suốt đặt song song cuối chân trời. Bỗng có tiếng u uôm u uôm như tiếng chó sói tru từ đâu vọng về. Không phải tiếng gió vì gió nửa đêm gần sáng đã ngưng thổi. Tiếng u u uôm uôm vọng đến khá gần, mơ hồ như có tiếng chân sói nhón bước lạt sạt trên các tàn cây cỏ. Liệu rằng có còn loài hồng cẩu quẩy ma mị nơi biên viễn trong một đêm cuối năm tàn tạ buồn phiền ghé thăm dọa dẫm con người. Hay oan hồn của chúng lảng vảng trêu ngươi, tròng ghẹo loài chúa tể muôn loài đã tận diệt bầy đàn của chúng. Đã không ít những câu chuyện về lũ hồng cẩu quẩy thành tinh bắt gái đẹp, xây lâu đài, tổ chức bộ máy sói tinh vi, ảo diệu, dù chỉ là những đồn thổi hãi hùng vô chứng cớ nhưng vẫn gây không ít hoang mang, sợ hãi trong lương dân. Phía bên kia, họ Đào nằm im bất động, chắc chắn đã nghe thấy tiếng tru u uôm thê thảm, thấm xuyên ấy. Thật lạ lùng, qua tàn trăng, bỗng chợt ánh mắt gã lóe lên ranh mãnh, độc ác và ma quái. Thôi chết. Hay gã có liên quan đến bầy sói kia chăng? Biết đâu tổ tông gã chả bắt nguồn từ loài hồng cẩu quẩy. Có một lần, đã khá lâu, hôm ở vùng rừng cực Bắc, trong một buổi uống rượu tàn canh với đám thợ săn, gã khóc rưng rức khi biết con chó đầu đàn, con chó lai sói có bộ lông rực lửa bị con lợn lòi bị thương trong cơn tuyệt vọng tợp nát bét hai chân sau trong một cuộc tàn sát đang chờ chết. Gần sáng, mọi người say lăn lóc, Y tỉnh dậy không thấy gã đâu. Buồn đi tiểu, lọ dọ ra sau nhà, một cảnh tượng hãi hùng, hi hữu đập vào mắt. Họ Đào ôm hai chân bị thương của con chó đầu đàn, nước mắt lặng im chảy. Con chó ngồi xổm, dựa hẳn vào lòng người đàn ông lạ, nó liếm liếm cái đầu bờm xờm như đầu sư tử của người đàn ông. Thỉnh thoảng, từng giọt nước mắt chó vón cục, đỏ như máu rỏ xuống mái đầu tổ quạ. Y thoắt rùng mình khi nhận thấy ở sâu trong những hốc mắt đẫm nước, cả người và chó hằn lên những tia xanh lét, rờn rợn mà nghe đồn chỉ có ở loài hồng cẩu quẩy. Y rùng mình nghĩ đến một kết cục không hay ho xảy đến với mình. Chiều hôm đó, khi toán người đi săn ở góc rừng, Y đã thấy cái gì bất thường đang sắp xảy ra. Toán thợ săn ngồi dựa vào gốc cây, vách đá, phanh ngực thở sau một ngày săn đuổi, bắn giết. Bỗng đâu tiếng u uôm khàn đục như vỡ ra từ trong rừng sâu. Toán người nhớn nhác nhìn nhau, mau chóng xốc đồ nghề và mấy con thú bị bắn hạ cắt rừng đi xuôi về phía bản. Mấy con chó lệt bệt chạy phía trước đoàn người. Con chó đầu đàn nằm trên cáng tre, máu từ vết thương của nó nhểu ra, thấm xuống lá cây rừng. Hôm nay, nó đã đụng phải loài mãnh thú và nếu không có sự can thiệp kịp thời của toán thợ săn thì hẳn con lợn gộc đã giết chết nó bằng một cú siết bản năng mà lũ chó nhà không đủ khôn ngoan để né tránh. Con chó đầu đàn giơ cẳng chân sau ra chịu đòn và nó mãi mãi trở thành thương tật. Toán thợ săn lùi lũi bước. Cuộc đi săn đã phải trả một giá quá đắt không ai lường được. Cái đêm ở vùng rừng cực Bắc, cũng là một đêm trăng mờ ảo, thấm đẫm sương lạnh, nhưng hôm ấy xung quanh còn có mấy tay thợ săn cự phách sẵn sàng bắn giết và lũ hồng cẩu quẩy chỉ hiện thân vào con chó thương tật đang chờ chết. Hay lo sợ Y cáo giác hành vi dị mọ, cặp mắt ma mãnh mà hôm nay, ở một núi rừng khác, trong một khung cảnh khác, xa xăm kín nhẹm hơn, họ Đào sẽ ra tay trừ khử Y để không còn ai biết được bí ẩn ma quái của đời mình, để ngày mai hắn phủi sạch dấu vết, trở thành một nhà văn thành danh với những tác phẩm xu chiều thời thế. Lúc tối, chiều ý bọn Y, những người trẻ tuổi rút ra lán phía ngoài, để hai ông nhà văn tiện đối thoại và đàm đạo. Nào ai nghĩ đoàn công tác vẻn vẹn hai người lại có thể nảy sinh những mâu thuẫn khó hiểu và mưu toan đen tối. Đã mang kiếp nạn giấy bút văn chương xiềng xích như nhau, ai nghĩ ra sẽ có một lúc này. Đàn sói đang tiến dần, bây giờ chúng không tru mà rít lên thê thiết. Họ Đào khoái trá, mắt gã lại lóe lên ma mãnh trong đêm. ánh sáng của trăng mỏng mảnh, run rẩy, chỉ chực tắt ngóm. Mắt gã càng rực lên, xanh lét màu lân tinh, như vẫy mời những đốm xanh lóa nhóa đồng loại đang gầm gừ, tru rít ngoài kia, đến xé xác ông bạn đồng hành, đến xé xác một trêu ngươi, một thách thức, dám dọ biết điều bí ẩn thiêng liêng truyền kiếp. Giữa chốn rừng khuya, Y có cảm giác xung quanh, trong bóng tối âm u đang lạo xạo một cách bí ẩn, bất trắc. Cố trấn tĩnh, đẩy lui sự hãi hùng chợt đến trong bộ óc căng thẳng. Bộ óc nhiều khi lắm sự cầu kỳ, khó hiểu, quên cả sinh mệnh chủ nhân đang lâm nguy tò mò nghĩ ngợi, bứt rứt. Nó nghĩ rằng, có sa vào nơi hang hùm nọc rắn mà được thỏa thích thói hiếu kỳ thì thiệt phận cũng sẵn sàng. Cứ nằm im như thế, Y chăm chú nhìn ra phía ngoài, nơi đang phát ra những tiếng lào xào mong muốn cái gì đang ẩn nấp hãy xuất hiện ra đi. Cũng chẳng phải đợi lâu, tiếng lạt sạt gấp gáp xiết dần vòng vây về phía Y. Máu như ngừng chảy trong huyết quản. Tim như ngừng đập. Toàn thân bị bắt vít bằng những con ốc xanh lét, rờn rợn. Lũ hồng cẩu quẩy như có sự khích lệ, dẫn dụ, chúng bắt đầu trườn nhẹ như sương, nhanh như gió, lừng lững tiến vào. Có những con chợt dừng lại, ngồi chễm chệ như người, hai chân trước bơi bơi, khua múa mau lẹ vô cùng, ẩn hiện trong  sương đục. Có những con nhe cặp nanh trắng nhởn cười cợt. Một luồng khí lạnh thốc vào sống lưng. Tóc Y đột nhiên dựng đứng. Bên kia, ánh mắt họ Đào rực lên, đắc chí ra lệnh. Những bóng vàng, đen, trắng, đỏ loang loáng đang khua múa nhận được mệnh lệnh, chúng dừng lại cung kính với gã. Những cái lưng đẫm sương vờn lên như sóng khép thành một vòng tròn bắt đầu chuyển động xung quanh gã, thỉnh thoảng bọn chúng rướn hai chân trước lên khoảng không từng nhịp từng nhịp  vái chào chủ nhân, vị chúa tể đầy thành kính. Chúng bay lượn phiêu diêu nhẹ nhàng vô cùng. Bỗng họ Đào tru lên một tiếng trầm khàn. Tấn trò đột ngột dừng lại. Mệnh lệnh thứ hai được phát ra. ở những khoảng rừng chập chờn tối sáng, bỗng hiện ra rất nhiều cái bóng, xam xám, trăng trắng, vằn vện, rực đỏ đứng ngồi lố nhố dồn khép vào nhau nối mãi ra vô tận. Càng lúc, Y càng thấy sống lưng mình lạnh buốt. Quá sợ hãi, Y không thốt lên được một tiếng rên, hơi thở đứt quãng. Y bắt đầu nhận ra những luồng sáng xanh lạnh, chờn chợn, ngoằn ngoèo hình thù kỳ dị như những sợi dây xanh lét định mệnh quấn từng vòng, từng vòng một vào cổ mình, chúng bắt đầu co rút lại, nhanh kỳ lạ, và chúng thít nghẹt, và chúng xiết… Ha… ha… ha… Ha… ha… ha… Gom hết sức bình sinh, Y bật ra một tràng ha ha ha như đại bác bắn màng tang. Những tàn tro lốm đốm lửa bắn lên tung tóe. Y càng điên cuồng man dại. Ha… ha… ha… Ha… ha… ha… Bên kia tàn lửa, họ Đào như bị điện giật, người nảy lên, giãy giãy, u ơ rồi lại giãy giãy, u ơ. Ha… ha… ha… Ha… ha… ha… Y cười chìm, u uất. Họ Đào co rúm lại, hai con mắt bạc đi, tím tái. Xung quanh, vọng ra những tiếng tru thê lương, căm phẫn. Những vụn củi khuất trong tàn lửa, gió ở đâu thốc đến, bùng lên. Những luồng xanh leo lét, hờn căm rú lên như trúng tên trúng đạn chạy dạt đi, hỗn loạn, va đập vào nhau răng rắc. Họ Đào rũ ra như cái xác không hồn, nhắm tịt mắt, uất ức gào lên: Thôi… đi… Đáp lại không một tiếng tru. Tất cả đã biến mất. Chỉ tàn trăng rơi rớt. Sương ở đâu đùn ra trắng đất trắng trời.

 

Đêm tiếp theo cũng một đêm trăng.

Đêm vùng biên cuối năm giữa rừng già sâu thăm thẳm, dài hun hút và dường như bất tận. Trong căn lán bắc ghếch lên thân cây sung đổ nghiêng rợp cả lòng suối bây giờ chỉ còn lại Y và gã. Hai cậu trẻ tuổi đã xin theo lái xe và anh cán bộ dẫn đường về trạm trung tâm cách đó mười bảy cây để lấy xăng và nhận quà Tết. Giao cho Y khẩu súng đã tháo rời hộp đạn, người trẻ tuổi nghiêm ngắn nói. Nếu các anh quyết ở đây qua đêm thì cứ cầm súng, đạn em để trong tủ. Khóa đây. Các anh là cán bộ, là nhà văn, những gì em dặn quá bằng thừa, nhưng thực sự nguy hiểm thì mới được nổ súng. Cậu lái xe và anh cán bộ ái ngại nhìn họ Đào và Y. Đúng mấy bố nhà văn, có giời chiều. Êm ấm không muốn yên thân cứ khăng khăng đòi tụ vạ ở đây. Bàn bạc, tư liệu con khỉ mốc. Tốt nhất là mặc kệ, cái ngữ này không ăn cướp của ai thì thôi chứ còn sợ gì ai. Trên răng dưới cát tút ai thèm động đến. Mà ở đây từ lâu voi cũng hết hổ cũng hết cũng chả ai vồ được các bố. Có rượu quá chén ngã xuống suối cũng không chết được vì suối cạn. Mặc. Chào các bố. Chúng em đi. Trưa mai quay lại đón đi trạm khác. Cứ thế nhé. Nào, tạm biệt hai bố dở người. Hai bố tha hồ lạc vào thế giới văn chương kỳ thú của các bố. Xe lọc xọc quay đầu rồi mất hút. Lầm lì bụi đỏ bám vào những thân gỗ xám dọc hai bên đường. Cả cánh rừng trụi lá, xám ngoé, mông lung. Chỉ dòng suối trước mắt, ngoằn ngoèo, đứt nối, thi thoảng những sung, lộc vừng cổ thụ, ngã nằm ngã ngồi, quanh năm tứ mùa lá xanh om, mỡ màng, lạc lõng. ở nơi đây, đến cây cối cũng chả hiểu thế nào. Cây thì xanh rợn lên, cây quắt queo, còi cọc, lỏng khỏng cành rễ. Lửa được nhóm lên. Hoan hô tự do. Tự do muôn năm. Sau mấy lần va vấp, mộng mị, Y càng thấy quý mến họ Đào, thán phục ý chí phi phàm của gã. Họ Đào bảo, ông ạ, sau đợt này chắc chắn sẽ có một cuốn khá, một cuốn sâu, một cuốn tôi săn nó từ lâu lắm rồi, chỉ chờ kiểm chứng, chiêm nghiệm, những linh nghiệm chót là bắt tay. Mà ông biết tài tôi đấy, đã bắt đầu là kết thúc, là xong và đẫm, là hay và mới, khác tất cả. Đây sẽ là một cuốn quyết định đời văn của tôi, sự kỳ vọng của ông, rồi tôi sẽ hóa, sẽ biến khỏi mặt đất này, để vinh quang cho ông tận hưởng. Này, này. Y nhìn họ Đào như một gã tẩm. Lu loa vừa thôi. Ông không phù hợp với lu loa. Khoe khoang nơi rừng xanh núi đỏ hay hớm gì. Mà ông lạ nhỉ. Diễn đàn thì im như thóc, có vãi cứt vãi đái vào cũng ngậm miệng hến nay trước đá sỏi lại cua cá mở mồm. Rượu. Tôi đi nướng cá, ông vặt ít lá sung non. Mà ông đừng bắt cá nữa. Trong cái chum sành này đã quá đủ rồi. Ông bắt cá cứ như hùm đổ đó, kinh bỏ mẹ. Ai cũng như ông loài cá tuyệt chủng lâu rồi. Họ Đào im im, lặng lẽ trèo lên cây vặt lá sung non. Trời chạng vạng. Gã leo cây như loài báo rình mồi, uyển chuyển, ẩn hiện chập chờn giữa tàn lá sung rừng. Y gom củi, bật diêm, bắt đầu nhóm lửa. Lửa cháy hồng, thơm mùi cá nướng. Hai thằng đàn ông lặng lẽ bên nhau. Mấy chai rượu dần dần cạn nhẵn, nằm lăn lóc bên đống lá sung héo rũ, quăn queo. Họ Đào khi uống rất lầm lì. Hầu như gã và Y chẳng trò chuyện gì với nhau, thỉnh thoảng bẻ những cành khô quẳng vào đống lửa chập chờn cháy. Đêm nay trăng rất muộn. ánh sáng yếu ớt, lạnh vắng, lờ nhờ, loáng thoáng trong sương đục. Những tàn cây lúp xúp chạy ngoằn ngoèo, loang lổ theo dòng suối u uẩn, buồn thảm và cô độc. Không biết những người trẻ tuổi sống ở đây thế nào nhỉ. Có ai vì buồn chán mà bỏ đi hoặc tự vẫn không. Thỉnh thoảng vẫn xảy ra những vụ tự tử không rõ nguyên nhân, chắc rằng cũng ở những nơi hoang liêu quạnh vắng. Như có tiếng mang tác đâu đó, tiếng loài thú khụt khịt ăn đêm dưới lòng suối. Mới ngày nào, chắc dòng suối mỗi tuần trăng ông ba mươi chả mò ra bắt cá ăn chơi và nghịch ngợm. Rừng trụi lá, suối cạn trơ cát sỏi nham nhở bây giờ chắc chỉ hấp dẫn mấy ả chồn mái đi tìm đực chứ hổ đâu ra. Bọn buôn lậu buôn người cũng không có nốt. Chúng phải tìm đến những nơi nhộn nhịp, cửa khẩu, đường quan đánh quả tết nhất chứ nơi tịnh không bóng người này moi móc đâu ra. Y và gã ngồi như hóa đá, chán uống rượu lại ngắm trăng. Rồi trăng cũng lặn đi đằng nào mất. Y chẳng tranh cãi hay hỏi han gì thêm. Từ chiều, trông gã đã bứt rứt. Đêm xuống thì im lặng, hỏi chỉ gầm gừ qua chuyện. Từ lúc có ánh trăng đục cứ ngồi thừ ra, đầu tóc xõa sượi như thằng phát vãng. Lúc nào cũng như âu lo cho mọi kiếp người, đấu tranh với oan khiên, bênh vực lương dân quên bản thân mình. Hôm nay thì thây kệ, mặc xác ông, em tẩn rượu vào em ngủ, có họa điên mới lo lắng cho cuộc đời. Chẳng hỏi han. Không thông báo. Với mấy gộc củi quăng vào lửa, giũ giũ tấm chăn hôi rình ra sạp gỗ, Y nằm co quắp, quay mặt vào đống lửa, ngáp vặt mấy cái rồi thiếp đi.

 

Họ Đào gần như không nói không rằng từ chập tối. Ngồi uống rượu, hai thằng đàn ông nơi hoang dã cho cảm giác mỗi tiếng nói cất lên chỉ càng lạc lõng. Lục lại những tội lỗi cũ, oan ức cũ cũng chỉ là để đấy, ai biết người đó, vậy thôi. Có biết thêm về nhau cũng chẳng giải quyết được gì. Màn sương đục tràn vào lán. Thỉnh thoảng, những giọt sương rụng xuống tàn lửa xèo xèo. Giấc ngủ chập chờn kéo đến. Bắt đầu là tác dụng của rượu lên não bộ. Trong suốt hành trình, Y và gã uống rất nhiều rượu và phải nói rằng cái khoản này đã trợ giúp thần kinh rất tốt. Chuếnh choáng, lơ mơ rồi thiếp hẳn. Y bỏ mặc gã bên kia đống lửa. Giấc ngủ vừa kéo đến thì một cảnh tượng dị thường xảy ra, ngay trong đầu óc, ngay bên  đống lửa cạnh con suối hoang lạnh. Khởi đầu những tàn lá lay chuyển lào xào rồi ở giữa những lùm cây loang lổ nơi họ Đào ban chiều hái lá bỗng có tiếng động khe khẽ, tiếng một người con gái yếu ớt thoảng ra, ngấm vào sương loang đến. Anh đã đến đấy ư? Em đã chờ. Em chờ bao nhiêu năm rồi. Nước mắt cũng đã cạn. Trái tim đã héo khô rồi sao bây giờ anh mới đến. Hôm nay anh đến, nhìn thấy anh bằng xương bằng thịt em không còn khóc được. Cả bạn anh nữa, người đâu mạnh mẽ táo tợn quá chừng. Còn dám sai anh lên vặt lá bẻ cành. Người đâu quá vô tâm, tăm tối, không có linh giác, linh hồn. May anh gượng nhẹ với em. Em biết anh đã nhận ra em nên gượng nhẹ. Từ lúc em không còn ứa nhựa khi anh chạm đến lòng anh chắc đau đớn lắm. Bạn anh không phát hiện ra nên cứ thản nhiên ngốn ngấu. Rượu đã làm cho hắn tê tái thiếp đi chết giấc đi rồi. Cơ mà hắn cũng đáng yêu. Nếu anh ra lệnh cho em, cảm thán với em về hắn, em sẽ giúp anh, hắn sẽ biến thành sỏi đá ở chốn này, dưới chân em, hầu hạ em. Sẽ chỉ là một cơn sốt rừng, một cơn gió độc, một vết rắn cắn chẳng hạn. Có khi chỉ là một cơn mơ, một ru vỗ mê hồn, một làn hương kỳ bí đều có thể đưa hắn biến khỏi mặt đất này. Nhưng anh sẽ sống với ai? Với mấy ả đàng điếm, xanh đỏ, nhầy nhụa, nông cạn ư. Với mấy thằng giả danh trí thức, dâm đãng, đểu giả ư. Với bọn lưu manh, trộm cướp, hãm hiếp ư. Hay sống với quê hương, với kỷ niệm cũ kỹ, bảo thủ, cứng nhắc. Không. Thà rằng cứ để hắn sống cùng anh. Để anh bớt đi sự nghĩ, sự chán, sự hận, sự giết mình. Cứ để hắn sẻ chia mang tai ách cùng anh. Em sẽ bảo trì mạng sống cho hắn. Tốt nhất cứ để cho hắn cống hiến trong cuộc đời này. Và khi nào anh ra lệnh đều không muộn. Anh ơi, mình hãy gần nhau hơn đi. Anh hãy lên đây với em, anh ơi… Tiếng nói thoang thoảng, chất chứa tâm tư. Hoá ra họ Đào hàm oan một mối tình từ thuở nào không ai biết, chỉ hôm nay, nơi lán trạm hoang vu mới tình cờ phát lộ. Đống lửa dường như vẫn tỏa ra những sợi ấm miên man, vĩnh hằng, nhưng người phía bên kia đống lửa không còn ở đó. Họ Đào đã tự nguyện rời nơi ấm áp đến với nơi lạnh lẽo, cô đơn, nơi đón chờ tưởng cơ hồ tuyệt vọng. Trong ánh lửa tàn, trong sương lạnh, gã lặng lẽ, vất vơ tiến về phía phát ra tiếng người như kẻ mộng du. Tàn cây càng lay động, trong sương đục, bóng người con gái chừng mười lăm mười sáu thấp thoáng, ẩn hiện chập chờn rồi dần dần lững lại. Một cô gái. Một cô gái có đôi mắt màu xanh ngọc, mái tóc dài đi chân trần. Đôi chân trắng xanh đang bắt đầu lạnh cóng giẫm giẫm lên những hòn cuội trắng trong lòng suối. Hai người ngồi quay lưng về phía đống lửa tàn. Sương phủ lên che kín họ. Họ thì thầm những gì với nhau không một ai nghe thấy. Có chăng chỉ đất trời, những hòn cuội trắng và sương trắng nghe thấy những thì thầm. Họ nói gì với nhau? Người con gái nhìn họ Đào mỉm cười, đắm đuối. Nàng ngồi sát vào bên gã, thân người uyển chuyển trong màu áo phủ đầy sương tỏa một mùi hương mong manh. Nàng đặt một cánh tay lên vai gã, họ Đào bỗng rùng mình khi bàn tay con gái chạm vào. Gã nắm lấy những ngón tay nhỏ mát lạnh như đá suối. Một tay gã quàng sang tấm lưng đã lả đi. Cả người gã đang dâng lên một điều gì nửa như chua xót nửa như dâng hiến. Cô gái ngoan ngoãn trong vòng tay của gã. Tại sao em lại ở đây? Bí mật lạ lùng đến thế? Anh ơi! Em là người trong mộng của anh. Hôm nay mộng thành sự thực. Với một giọng khàn, trầm đục, họ Đào bảo, anh muốn ôm chặt em  hơn. Nhưng em ơi! Chúng ta cứ mãi thế này ư! Người con gái siết ngang lưng họ Đào, đôi môi ẩm ướt tiết ra một làn khói mỏng. Họ Đào lim dim mắt, cái miệng nhỏ hơi há ra nuốt nuốt làn khói. Cô gái thầm thì. Biết thế này em không hiện ra thì hơn, cứ chỉ nghĩ về nhau có khi lại hơn chứ đã gần nhau thế này rồi, ngày mai ngày kia xa nhau không biết sự thể thế nào nữa. Nàng thở dài, nhỏ ra mấy giọt nước mắt xuống má người tình. Họ Đào khẽ rên mấy tiếng. Người con gái thì thầm kể những phiêu bạt của mình. Chàng và nàng an ủi nhau. Người con gái bảo, anh có biết em đã trải qua bao nhiêu thác đoạn cuộc đời không. Hôm nay gặp anh là phải có duyên lắm. Nói đến đấy, nước mắt người con gái lại rơi lã chã. Chàng ẵm nàng vào lòng, vuốt những sợi tóc lòa xòa trên vầng trán xanh xao, an ủi. Hôm nay gặp được nhau đây sao em cứ buồn mãi thế. Người con gái càng thút thít. Hai mái đầu xanh nhòa lẫn vào nhau trong mờ mịt sương đêm.

 

Y tò mò ngẫm nghĩ rồi tự nhủ, mình cũng chỉ nên biết đến thế ở sự việc này. Việc yêu đương của loài người biết sâu hơn để làm gì. Tọc mạch việc yêu đương của bạn hữu là điều cấm kỵ. Mừng cho gã ở nơi rừng thẳm gặp được người xưa, dù vô tình dù cơ duyên cũng đều là phúc phận. Hóa ra ai cũng có lúc vô tâm, luôn o ép, ban phát vô lối những ý kiến chủ quan rồi tự cho mình là nhân đức. Bao lần giục giã việc riêng, họ Đào chỉ cười trừ, có khi cau có, có khi im lặng nhưng chưa bao giờ phản ứng. Hai người chắc phải yêu nhau lắm. Và, trong tình thế này thì cô bạn chắc đã sang kiếp khác rồi. Vậy mà vẫn yêu thương, chờ đợi và hy vọng. Không như chúng sinh nhan nhản, vừa bồ bịch um sùm vừa thề bồi loạn xạ rồi ngày ngày giáo dục nhau về đạo đức, lương tâm và lòng chung thủy. Hai kẻ kia đang hòa vào làm một. Ngôn ngữ bây giờ của đôi uyên ương đã không phải bằng lời. Họ thấm vào nhau qua sương, qua trăng nước mắt. Hai người đã đúc thành một khối huyễn ngọc trong đêm trăng tàn nơi biên giới bất chấp bao nhiêu li gián của dương gian…

 

Ngày hôm sau một tin không vui đến với hai người. Chiếc xe cũ ậm ạch đưa đoàn đi bị hỏng, phải sửa chữa chưa biết thế nào. Các anh bảo xin lỗi, còn mong muốn Y và gã tự đi bộ ngược về trạm chính, cách đó mười bảy cây. Mười bảy cây, sức dài vai rộng sá gì. Cũng đừng tự ái. ở nơi quá thiếu thốn kham khổ không có chỗ cho lòng tự ái. Nhận được thông tin khi chiều muộn, họ Đào xuống suối bắt cá chưa về, Y phân vân có phần hơi hoang mang nhưng rồi khẽ mỉm cười. Biết đâu chả là xảo thuật của cô gái muốn lần nữa ôm ấp người tình thêm một đêm. Chả giúp nhau được gì cứ lặng im để họ

 

tình tự. Kiếp người vốn ngắn ngủi, mỏng manh và quá nhiều oan khuất. Món quà trời đất tặng cũng nên mừng, mừng trong im lặng với ông bạn càng ngày càng lạ lùng, kỳ bí biết đâu còn khám phá ra những vô lý, kỳ bí khác. Họ Đào tiếp nhận thông tin ậm ừ, không mừng rỡ, không bồn chồn bứt rứt như hôm qua. Như thế là thế nào? Không mong mỏi điều đó ư? Định trốn chạy một tình yêu oan khiên ở đây? Để tiếp tục đến với một bí mật một đặc quyền nào nữa hỡi họ Đào. Vẫn yên lặng không một phản ứng vui buồn, thản nhiên, gã xiên những cọng le rừng vào miệng từng chú cá bống suối. Bàn tay thoăn thoắt, thoăn thoắt tóm bắt, giết chóc. Y rùng mình ớn lạnh rồi đột nhiên trở nên cáu bẳn khi những chú cá bống suối xinh xinh cỡ ngón tay duỗi đuỗn người vây vẩy dựng ngược trước cái chết không báo trước khi chiếc dùi lạnh buốt xuyên thấu từ đầu đến chân. Mắt cá mở ngơ ngác, lồi ra kinh hãi. Chúng loắc ngoắc tấm thân nhỏ bé, yếu ớt vĩnh biệt cuộc sống bơi lội tự do, vĩnh biệt khe suối, rễ cây, rong rêu và bầy đàn trong lặng lẽ. Không một tiếng vang. Không một cảm thông, thương xót. Tự nhiên, Y không bằng lòng cái sự vô cảm ấy. Nhưng cũng chỉ giây lát, khi mùi thơm lựng bốc lên từ những kẻ tử nạn, Y quên béng ngay những suy nghĩ vớ vẩn của mình. Thật vớ vẩn. Đó là đào thải sinh tồn tự nhiên. Nào, hãy rót rượu ra đi. Tự do muôn năm! Hãy uống đi xót đếch gì mấy con cá nhép. à ông bạn, a ha, hãy leo lên vặt mấy lộc sung rừng. Cá nướng thiếu cái vị chát mềm ấy còn ra quái gì nữa. Ông bạn, hãy leo cây như buổi hôm qua đi. Họ Đào hơi nhăn mặt, chùng chình, chống chế, giơ hai bàn tay đen nhẻm lấm láp vảy cá về phía Y, gục gặc đầu, như thanh minh. Những hình ảnh đêm qua hiện về, loang loáng trong cái đầu tỉnh táo chưa có men. ừ thì thôi, chắc lại bênh nhau, không muốn cấu rứt gì. Y chiếu thẳng tia mắt vào gã, dừng cái nhìn nơi bàn tay dính đầy vẩy cá. Có thể lắm, mọi toan tính của gã bao giờ cũng chi li, kín kẽ, không ít lúc nhuốm màu thần bí. Buổi chiều lặng lẽ xuống suối bắt cá khi Y đang lơ vơ ghi chép và định chụp mấy cảnh cái lán hoang sơ, tạm bợ thì thật lạ lùng, chiếc máy ảnh đột nhiên hết pin dù hôm trước vẫn căng đầy, chụp loang loáng, tanh tách. Có thể lắm, Y sẽ đưa hình cây sung nơi biên ải lên báo chí, lên các trang Web. Biết đâu, những manh mối mơ hồ, bí mật mà họ Đào cố giữ sẽ bị phơi ra. Trong hàng triệu hàng triệu những người ưa soi mói đời tư người khác, những gã phù thuỷ, những tên bịp bợm, những kẻ vong thân, những gã vô công rồi nghề chả xuất hiện, phá phách. Chúng tiến thẳng ra đây đào bới vận chuyển cây sung này về làm cảnh, làm nô lệ cho một công sở, một khuôn viên, một trọc phú nào, rồi đến một ngày rửng mỡ, ngày lãng quên, ngày thù tạc điên rồ chúng đem cây ra giết. Khi ấy hồn oan nối tiếp oán cừu, tang tóc. Họ Đoàn đã lo cho bạn tình? Gã lén lút đánh hỏng xe, làm hỏng máy ảnh? Đêm qua, anh ả đã bàn bạc những gì và hôm nay giở những trò gì nữa. Y ngồi lên tấm ván sát đống lửa, gỡ cá bống suối nướng thơm nức thong thả cho vào miệng. Họ Đào ngồi im, tự rót rượu. Uống rồi lại rót, lặng lẽ không tiếng động. Trời tối hẳn. Không biết ở đâu tiếng chim lợn eng éc, eng éc nổi lên, gần rồi xa, chờn vờn, thê thảm. Tình cảnh Y và họ Đào khác gì loài chim cô độc ấy. Không nghĩ gì, những tàn lửa nhảy múa vô tư. Những viên sỏi dưới lòng suối bắt lửa nhấp nhóa, mờ ảo. Dòng suối tập hợp của những kiếp sỏi, kiếp cát và kiếp đá. Mỗi cây cối, cá cua, rong rêu đều có linh hồn, một đời sống riêng biệt, bí truyền. Không biết đêm nay anh chị tình tự với nhau như thế nào. Và Y nữa, sao bao nhiêu rượu uống vẫn không say, không lịm thiếp, mộng mị để đôi kia tiện bề tình tự. Y cứ tỉnh trơ trơ hẳn cô nàng oán lắm. Đêm dài gì với những đôi tình nhân vong mạng, oan khiên, cách biệt âm dương. Họ Đào vẫn lầm lì bên đống lửa. Nhìn về đâu, xa lắm. Lòng suối ư? Cả một ngày mò mẫm, mân mê từng viên sỏi nhỏ, những gờ đá, những rong rêu. Lòng đất ư? Cả một đời đi đứng, ăn ở và bây giờ đang ngồi trên mặt đất. Họ Đào nhìn vào lòng cây? ừ, chỉ có thể là như thế. ở đó có người thiếu nữ, đã từ đâu lang bạt vào đây hay kiếp trước họ Đào từng sinh sống ở đây. Hôm đi ngược lên vùng rừng này, khi bắt gặp những chiếc xe dài thượt, gầm ghè, rùng rùng cõng từng súc gỗ lớn, những thân cây vạm vỡ, gồ ghề đốt mắt bị xén gọn, trói bằng xích sắt lao ầm ầm, mù mịt trong điên loạn, gã nhắm tịt mắt lại. Anh lái xe tưởng bụi, kéo cửa kính, chửi rủa liên hồi. Ai biết gã đang đau, đang xót và lo sợ việc chém giết vô tội vạ của những kẻ kia biết đâu đã kết thúc hy vọng cuối cùng của một bí mật không thể tỏ cùng ai. Lúc đó, khi nhìn thấy tàn cây sung hiện ra nơi lán nhỏ, gã đột nhiên va cốp đầu vào thành cửa xe. Cậu lái xe vò cái đầu trọc lốc, rối rít xin lỗi…

 

Bây giờ chỉ còn toàn sương lạnh, lũ chim lợn kêu váng óc lúc chập tối không thấy lượn vòng trở lại. Rượu đã hết nhẵn. Những bộ xương cá lăn lóc, chỏng chơ, tung tóe trên ván gỗ. Ơ! Như là trăng. Trăng thật! Trăng muộn mằn, yếu ớt, run rẩy và cô độc trên nền trời xám ngoét. Trăng như một chiếc vung nồi méo mó, thủng lỗ chỗ đầy vệt ám khói. Họ Đào không nói không rằng, lặng lẽ rời đống lửa, gần như không gây ra tiếng động, đi hút dần ra phía lòng suối. Chắc họ đến với nhau. Thêm một đêm, một khắc bên nhau. Biết đâu ngày mai vĩnh viễn không gặp lại. Ngay từ đêm qua, khi chắp nối những hình ảnh âm thanh của cặp tình nhân, Y đã thấy nhiều kỳ bí đang diễn ra. Những hình ảnh, cử động theo hơi gió hơi sương lả lướt hiện về. Những tà áo mỏng manh, chập chờn biến hiện. Một điều gì lưỡng lự, chưa rõ rệt đang buông vào cõi bất định. Gió u u ngoài suối. Những luồng sáng chập chờn gieo rắc chợt chìm đi rồi lại bùng lên giục giã nài gọi. Đột nhiên, Y thấy rờn rợn. Mắt Y nhìn căng ra phía dòng suối. Tại sao sự việc lại xảy ra như thế. Tại sao những bí ẩn cứ nối nhau kéo đến. Lòng suối cạn như cái huyệt đen thăm thẳm, trải dài bất tận. Những tàn cây đen thẫm bí ẩn không ngừng đẩy ra tiếng lào xào. Bỗng lúc ấy, Y tái hẳn người đi. Một tiếng động rành rẽ cất lên. Y nín thở nghe ngóng. Giữa khung trời xám, từ từ hiện lên một khuôn mặt mờ mờ. Khuôn mặt đẹp đến choáng váng nhưng chỉ thoáng thôi lại từ từ biến mất như chưa từng hiện ra. Cái khuôn mặt thoáng hiện ra rồi biến đi ấy có phải người con gái đêm qua? Chắc lần này vẫn là sự hò hẹn, dụ khị, thề bồi dang dở. Thốt nhiên, Y cảm thấy mình đang ám hai người và hai kẻ tình tang đang tìm cách bưng bít một sự thật. Khuôn mặt vừa tan vào đêm ấy đã kịp hằn rõ trong trí não. Khuôn mặt trắng bệch, lạnh lẽo, cô hồn khẽ mỉm cười. Y không tin đó là một ảo ảnh vì từng nét môi, vành tai nhỏ và nhất là cặp mắt hoang thỉnh thoảng long lên như oán thán điều đã đọng lại trong trí não. Không, đúng là sự thật. Hình ảnh ấy kích thích  chốc chốc gây nên những hốt hoảng tinh thần. Y nghĩ người con gái kia phải có một sợi dây bí ẩn nối với họ Đào. Cái dáng ngồi lặng lẽ, cái lối hiện lên rồi lại biến đi nhanh chóng và cả những hành vi dị mọ của gã mấy hôm nay đang hé mở những giấu giếm của hai người. Trước kia, không ít lần truy bức gã bạn về đời sống riêng tư  chỉ nhận được sự ăn nói nửa vời, nước đôi có phần tinh quái. Cũng không ít lần gã kể những chuyện ma mị ở trò trai gái, những lúc ấy ánh mắt gã lóe lên ranh mãnh. Điều đó làm Y băn khoăn, nhưng rất nhanh, họ lại cuốn sang những câu chuyện khác. Hôm nay, ở đây, khi giáp mối những đầu chỉ rối lại với nhau, Y dần thấy hiện lên một cái gì mà mình đang tìm kiếm.

 

Một âm thanh nhỏ len qua sương khói, thủ thỉ, thầm thì vọng đến từ nơi nào xa lắm. Không rõ âm thanh gì, tới từ đâu và sẽ đi về đâu. Nó mỏng manh như tiếng lá miết, tiếng sỏi cọ vào nhau nơi ngọn cây, đáy suối, như tiếng nhựa chảy thầm trong thớ gỗ, xôn xao, âm ỉ, nhưng rất trong, rất dội, ngấm sâu như tiếng đàn bầu. Cố lắng nghe, âm thanh như có gì oán thán, tiếc than, u uẩn, lay động, lẩy bẩy rộ lên lúc lúc rồi bặt dừng im. Những giọt sương đọng trên lá rơi tí tách xuống ngàn vạn sỏi cát nơi lòng suối. Đã bao nhiêu sương đêm từ lá cây rừng rơi xuống lòng suối, lòng sông và lòng đất. Âm thanh mỏng như tơ chốc chốc da diết vang lên. Mãi sau này, Y mới biết đó là tiếng khèn lá đặc biệt của dòng họ Đào, một tín hiệu tưởng đã thất truyền. Cũng sau này, Y mới ngộ ra một điều không giải thích được là khi linh hồn oan tình oan khuất cách biệt âm dương có cơ duyên gặp lại vì quá nhớ thương mà hiện ra tình tự có người thứ ba chứng giám thì chỉ được một lần ấy thôi, rồi vĩnh viễn không thể gần gũi nhau được nữa, chỉ có thể vọng niệm về nhau bằng suy nghĩ và âm thanh qua sương khói. Họ Đào thổi khèn lá cho bạn tình nghe. Âm thanh chắt ra thê lương, thảm não. Nghe tiếng khèn, nước mắt Y chảy ra từ lúc nào không biết. Nước mắt rơi xuống tàn lửa lèo xèo. Tiếng khèn bập bùng, leo lét như ngọn lửa, lúc tỏ lúc mờ, khi trầm khi bổng. Tiếng khèn dẫn dụ về thủa xa xưa, ngày họ Đào mười sáu mười bảy và cô nàng chắc chỉ độ mười ba mười bốn. Họ cùng ở trên một con đò, cùng nhau đùa bỡn với dòng sông. Họ đuổi nhau trên bãi bồi tít tắp. Trong đêm trăng, trên sườn đê thoai thoải mênh mông như mặt biển, hai cô cậu ngồi sát bên nhau im lặng. Ngoài kia dòng sông đang chảy. Dưới chân, đất đai đang thở phập phồng, triệu triệu lá cỏ đang ứa nhựa, mở ra, sinh sôi, cựa quậy. Họ run rẩy hôn nhau. Trăng đột ngột trốn vào mây rồi vỡ òa ra, rơi vàng trên mặt nước, nhuộm vàng triệu triệu lá cỏ xanh, hai mái đầu xanh thẫm ánh trăng. Những đêm trăng, họ Đào lạc vào thế giới khác, phiêu linh, mộng mị và bí ẩn. ánh trăng mờ dần, mờ dần rồi tối hẳn. Tiếng khèn lịm dần, lịm dần chợt nấc lên da diết một chuỗi âm thanh ai oán thê thiết dội vào đất đá, cỏ cây, tàn lửa, dội vào vòm trời cao thẳm, âm u… Không… Không thể nào… Không… thể… nào… Tiếng khèn tắt lịm. Họ Đào ngồi bất động. Sương lạnh. Đêm khuya. Dưới chân sỏi đá ướt rượt, lạnh lẽo. Ngoài kia, những cánh rừng nham nhở, loang lổ, mịt mùng, tối thẫm chìm trong tịch mịch.

 

Từ từ ngồi dậy, Y quàng tấm chăn hôi rình, ẩm ướt lên người, gom mấy gộc củi vào tàn lửa, mắt lần tìm bóng dáng họ Đào. Không thấy đâu. Xung quanh toàn sương trắng. Những lá cây rũ xuống bất động, ẩn nấp trong sương. Hay gã đã bị người con gái dụ sang thế giới khác. Nếu thế mọi chuyện sẽ rất phiền toái. Đồng loại xung quanh, đôi khi chỉ chờ một cái gì rất nhỏ để xoay chuyển, dìm lấp một ai đó. Huống nữa một chuyện lớn như thế này: Chuyện sinh mạng. Chuyện mất tích hoang đường mà mọi người luôn quen nghĩ rằng không thể xảy ra ở thời đại chúng ta. Một thứ suy nghĩ ấu trĩ đang độc chiếm. Nghĩa là phải có một âm mưu nào đó, thâm độc, bí hiểm, khó lường. Y cười chua chát. Đời thiếu gì những hàm oan, đố kỵ, mất tích, vu vạ vây bọc. Cây ngay sợ gì chết đứng. Y bất chợt nhìn khẩu súng, nó nằm bất động ngay sát miếng gỗ kê đầu. Nó im lặng, vô hồn, lạnh lẽo. Có mùi gì khen khét như mùi thuốc súng lởn vởn từ đâu xộc vào mũi. ừ, có thể lắm, nó sẽ là nguyên cớ, chứng tích của một vụ giết người hoặc bắn trọng thương đẩy người chạy sang bên kia biên giới. Ai sẽ làm chứng và bênh vực kẻ đẩy bè bạn của mình vào tuyệt tích. Mày chôn xác ở đâu? Mày truy đuổi nó về đâu? Tại sao? Có thật không? Chập chờn. Nanh ác. Rồi biết đâu không có sự ép cung, đánh đập. Biết đâu một lúc nào bàn tay bầm giập trí óc suy kiệt chả phải cúi đầu nhận bừa. Sự mất tích của họ Đào đột nhiên òa ra bao nhiêu dự định, toàn là những tình huống xấu, oan ức trớ trêu. Bất giác, Y thở dài liên tiếp. Tiếng thở dài đơn lẻ thân phận dội vào chính tâm can trí não mình. Tiếng thở dài như mũi kim xuyên lạnh buốt thấu xương, âm u, chìm khuất. Xung quanh hoàn toàn im lặng. Trời đang thiêm thiếp sáng. Những âm u, tăm tối vỡ dần ra. Tỉnh táo hơn, Y với ca nước tu một hơi òng ọc, nhổ phì phì nhìn quanh quất. Một đốm thẫm lay động cuối dòng suối xa tầm mắt thấp thoáng ẩn hiện chợt rõ dần, khật khừ rẽ sương tiến về căn lán. Đúng gã rồi, cái dáng đi lũn cũn cố hữu, đầu hơi cúi, mái tóc bờm xờm như đang rũ ra những suy nghĩ không một ai lường ấy dậm dừ tiến về căn lán.

 

Y đứng dậy, vươn vai, vặn mình răng rắc, tu nước súc miệng òng ọc, nhổ phì phì nói vọng ra với con người thất thường kia, ông bạn kỳ dị. Này, bố tẩm, thu dọn hành lý rồi chúng ta chuồn khỏi đây thôi. ở đây thêm thành người rừng mất. Họ Đào nhìn Y gục gặc, lúc lắc đầu, như kẻ mộng du không nói không rằng. Y hạ lệnh. Lên đường! Đeo súng lên, thế thế, một hai, một hai, một hai... Giã biệt lòng suối. Sỏi đá, chào mi! Họ Đào quay người lại, nhìn tán lá sung, nhìn căn lán, nhìn dòng suối chạy quanh co rồi bước theo. Hai thằng đàn ông với ít đồ lỉnh kỉnh, một khẩu súng không đạn, hai cái túi gần như rỗng tuếch, những cơn mộng mị hư thực, những ước muốn hão huyền, nối nhau bước đi như hai gã tâm thần nơi rừng hoang. Qua hai đêm, râu ria, người ngợm cáu két, hốc hác, dị mọ như hai gã thổ phỉ. Chiếc máy ảnh mất tác dụng đeo lủng lẳng như chiếc đầu lâu lúc lắc. Bỗng họ Đào kêu ối một tiếng, ngã dúi về phía Y, mũi súng thúc vào mạng sườn đau điếng. Y vội dừng bước, xoay người đỡ gã. Chân gã va vào đá hộc, máu bắt đầu ri rỉ. Gỡ khẩu súng khỏi đôi vai gầy nhỏ, tiếp đến là cái túi du lịch xộc xệch. Quái. Sao nặng thế. Họ Đào rên rẩm. Chiếc túi du lịch kêu lạo xạo. Sỏi! Trời đất! Ông rước cái của nợ này về làm gì. Kỷ niệm cục cứt. Đi đâu cứ tưởng rước đá rước sỏi về thành trưởng giả trải đời ư. Dốt nát. Chỉ tiếng rên ư ử như chó ốm đáp lại. Y ngồi bệt xuống, kéo ống quần bê bết đất lẫn máu lên. ống quyển họ Đào nổi u tím ngắt. Nhìn ánh mắt u ám tuyệt vọng của gã, Y chế giễu. Nào sói hoang, hãy phù chú gọi bầy đàn về giúp đỡ đi. Nếu không lát nữa mặt trời lên, máu ra nhiều, chết khô chết khát ở cái sa mạc này đấy, ông kễnh ạ. Y bỡn cợt và bỗng giật mình, không khéo lạc đường thì khốn. Hôm đi lên đây bằng ô tô. Mười bảy cây số mất hàng tiếng đồng hồ. Nay hai thằng lạ nước lạ cái cuốc bộ hai ba tiếng rồi mà bóng dáng nơi trở về vẫn chả thấy đâu. Rừng trọc lốc, hoang hoải, không có cây to định vị. Hai thằng nhà văn đã từng lạc ở ngay trong nhà mình thì bây giờ cầm chắc lạc rồi. Tết nhất đến nơi, ai rỗi hơi tìm kiếm mấy bố lẩn thẩn. Họ Đào chừng đau lắm, mặt mũi nhăn nhúm, tay bịt vết thương rỉ máu miệng rên ư ử. Y hoang mang, nếu các cậu trẻ tuổi không tìm thấy thì sao. Họ đinh ninh hai người sẽ về được trạm thì sao. Rồi biết đâu đến ra Giêng họ mới lên trạm, mới về trung tâm để phát hiện ra sự mất tích hy hữu này và thông báo đại khái về cơ quan, rụt rè xin lỗi đã sơ ý không quan tâm làm hai nhà văn đi thực tế viết bài nơi biên giới mất tích. Khi ấy, với họ Đào, chắc chả ai để ý vì gã vốn tự do, chưa vợ con nhưng còn Y thì sao. Cơ quan chả mát mẻ chắc lại vô kỷ luật ở với cô nào, có khi bị gái dân tộc chài, có khi bợm bãi chài gái rồi vin cớ nọ cớ kia lần lữa không về. Cử đi viết bài bút ký không nên hồn văn chương gì. Phen này kỷ luật, cảnh cáo cho biết thân. Rồi treo niêu nhà nó lên. Cần thiết đuổi việc, chuyển công tác. Đáng đời. Họ Đào như cũng đoán được những suy nghĩ ấy, gã bạn nén đau, thu người dựa vào một gốc cây, miệng không rên rẩm nữa, với tay mở chiếc túi du lịch, lọc xọc dốc ngược, sỏi đá lăn ra kêu lộc cộc, con mắt gã dại đi. Không cầm lòng, Y ngồi xuống, vừa nhặt những viên sỏi suối đủ mọi hình thù, màu sắc, kích cỡ vào cái túi cũ kĩ vừa mắng. Thôi đi bố, bố để con. Rồi lại bảo con ác. Cứ bình tĩnh, thể nào mọi người cũng tìm thấy. Mẹ kiếp, chưa chi đã nản, bản tính ma mãnh của bố đâu rồi. Họ Đào xúc động, thở gấp, cùng nhặt những hòn sỏi cất trở lại. Đôi mắt gã lạc đi. Xong việc, Y dặn loáng quáng. Ông bị thương rồi đừng vận động nhiều. Cũng đừng kêu ca vô ích. Cứ ở đấy, tôi ra cái cây cao đằng kia trèo lên thử gọi xem sao. Tốt nhất là đừng di chuyển.

 

Giao cho họ Đào khẩu súng, Y nhằm hướng lùm cây cao phía bên trái, hăm hở bước. Nhìn gần mà đi mãi mới tới. Mồ hôi rịn ra ướt hết người. Cởi nốt cái áo lót cầm tay, Y hăm hở trèo lên cây bằng lăng trắng muốt thẳng đứng cỡ một người ôm. Cây trơn trượt như bôi mỡ. Trèo được hai mét thì người cứ thế trôi tuồn tuột xuống. Từ cái bụng trắng hếu ướt sượt mồ hôi, những vết xước bắt đầu rỉ máu. Trời hửng, mặt đất ẩm mốc bốc hơi nước oi nồng khó chịu, ngứa ngáy. Khát nước cháy cổ họng. Đây là đâu? Cánh rừng chó chết này làm sao thoát ra. Hai người đã hoàn toàn mất phương hướng. Rừng cao nguyên vùng biên giống nhau kỳ lạ. Cứ trụi lông lốc, cháy lam nham thỉnh thoảng mới có dăm bảy cây to, thường là báng, bằng lăng và khộp. Khộp rừng còn leo được chứ bằng lăng thì chịu. Kể cả thợ rừng cũng chịu loài bằng lăng trắng. Cây cứ trắng muốt, thẳng đứng, trơn nhẫy, vươn tít tắp thẳng bầu trời. Có cây cao đến gần trăm mét. Y loay hoay tìm một cây khộp có thân sần nào đó để leo lên. Mãi xa kia, thấp thoáng một cụm khộp rừng. Y lệt bệt đứng lên, tiến về phía bụi khộp. Miệng khát khô, đắng ngắt, đầu óc ong ong chỉ chực ngã dụi xuống. Khi đến bụi khộp mới biết mình sẽ phải làm một việc rất khó và vô ích. Cây khộp không lớn, có thể trèo lên nhưng tầm quan sát chả được là bao, có trèo lên cũng chỉ vô ích và phí sức. Lan man nghĩ ngợi, đợi hồi chút sức lực, Y mắm miệng, làm cái việc vô bổ ấy. Khộp quả là dễ leo hơn. Lên đến cái chạc ba cách mặt đất chừng tám chín mét, Y ngồi nghỉ để thở. Giá có họ Đào ở đây nhỉ, hắn không bị thương thì phải biết, gã leo trèo rất giỏi, còn tưởng như tổ tông gã đích thị là loài vượn leo cây và gã mới thoát thai được vài ba kiếp. Trời ong ong không gió máy. Vịn chắc chạc cây, nghển cổ nhìn ra xung quanh, không một bóng người, không bóng thú rừng, chim chóc, chỉ thỉnh thoảng những tổ kiến to, đen, đeo lủng lẳng, bừa bộn vào các chạc cây. Lấy hết sức bình sinh, Y hú đại một tràng rồi gọi váng lên… Có… ai… không… Không tiếng vọng. Không tiếng trả lời. Chỉ đàn kiến leo cây nhanh như gió chợt sững lại, ngoe nguẩy đôi râu rồi lại tới tấp lao đi, cần mẫn phần việc của mình. Y tuyệt vọng gào lên… Có… ai… không… Có… ai… không… Chỉ tán lá lao xao nhè nhẹ. Im ắng vô cùng. Bỗng chạc cây đang ngồi từ từ tách ra, rách toạc, Y hoảng hồn, chưa kịp bấu víu vào đâu thì cành cây đã rời khỏi thân mang cái nặng hơn sáu mươi ký ào ào rơi xuống. Thế là hết. Khốn nạn. Không kịp  nguyền rủa. Một va đập mạnh đột ngột dội lên toàn thân. Quay cuồng. Choáng váng. Y ngất lịm, không biết trời đất gì nữa.

 

Một màu trắng mênh mông phủ khắp núi rừng, sông suối. Một màu trắng rờn rợn, giàn giụa khắp không gian. Màu trắng loang loáng, chói gắt sao như ngàn vạn mũi kim châm chích các tế bào nhạy cảm. Màu trắng lạnh lẽo, cô hồn, vây hãm. Những dải lụa trắng, ngàn vạn dải lụa trắng phất phơ, thả loạn trong trời thẳm khua múa dập dờn, dọa nạt. Bỗng không biết ở đâu, văng vẳng. Tiếng sói tru thê thiết. Tiếng u u, uôm uôm vẳng rợn như dội lên từ mấy tầng địa ngục. Tầng tầng trắng đột nhiên dạt ra, phơi lộ một khuôn mặt râu ria hoang hóa đẫm nước. Họ Đào! Trời ơi! Họ Đào tiến đến gạt phăng những màng trắng dải trắng sợi trắng bên thân thể thương tích bầm giập của bạn, mắt quắc nhìn những quầng trắng bốn bề vây bủa, dọa dẫm và bỗng nhiên gã tru lên một tràng u… uôm… rợn óc. Đáp lại tiếng tru não nề ấy, hàng ngàn hàng vạn tiếng u… uôm… u… uôm…  vang động núi rừng sông suối, cỏ cây hỗn loạn. Những quầng trắng, dải trắng, sợi trắng run rẩy dạt vào nhau, rồi tan chảy, rồi biến mất dần trong ảo giác. Họ Đào đặt tay lên trán bạn, bàn tay mát như thạch, êm như nhung. Trán Y bỏng giãy. Ai đó đưa ra cái khăn bông đẫm nước lạnh đặt lên, hơi nước bốc mờ mịt. Y lại ngất lịm đi. Trước khi hoàn toàn mất cảm giác, Y còn thấy ánh mắt đẫm nước của họ Đào chợt lóe lên xanh lét, bí ẩn. Y lịm đi trong tuyệt vọng, sẵn sàng chờ đợi một cái gì tồi tệ đang bắt đầu xảy đến.

 

Tiếng suối chảy róc rách, róc rách mơ hồ dần dần đánh thức trí nhớ của Y. Từ từ mở mắt, thấy mình nằm trên sạp gỗ, toàn thân quấn gọn trong chiếc chăn xù màu đỏ sợi to còn thơm mùi vải. Rõ ràng đang ở trong một căn nhà gỗ. Những tấm ván ghép nằm vắt ngang như những chiếc vảy cá lớn xếp chồng lên nhau bao bọc căn nhà. Bên đống lửa cháy, họ Đào đang nói gì đó với mấy người xung quanh. Nói liên miên và những người nghe ra chừng khoái trá lắm, thỉnh thoảng lại cười rộ lên. Cạnh đó là ghè rượu, mấy cái cần cong cong, bóng in lóa nhóa lên vách gỗ. Ai đó đưa cần về phía gã. Họ Đào bập miệng vào cũng là lúc một người nghiêng chiếc sừng trâu đã đục một lỗ nhỏ chĩa vào miệng ghè rượu. Hai phút, rồi ba phút trôi đi, khi gã khoan khoái rời miệng khỏi chiếc cần khẽ thu rút người về phía sau cũng là lúc những giọt nước cuối cùng từ sừng trâu ngừng nhỏ xuống. Ông bạn quả sành ẩm thực, đặc biệt là chè rượu. Tiếng róc rách là tiếng động vang lên từ chiếc sừng trâu rỗng của đám người đang quây quanh ghè rượu. Miệng khát khô, cổ họng bỏng rát, nước mắt ứa ra. Mình còn sống. Họ Đào đang thù tạc với mấy cậu trẻ tuổi. Mọi chuyện thế là tốt. Và, thật lạ, hôm nay gã nói liên tục, nói rất có duyên và những anh bạn trẻ nghe như nuốt lấy từng lời. Những mái đầu xoăn tít, cháy khét mùi nắng gió luôn gật gù. Trời đã khuya. Mấy con chó con hiền từ rúc rúc đầu vào gã và anh bạn trẻ da sạm màu đồng hun. Anh bạn tóc xoăn có cái nhìn rụt rè luôn ngước lên đợi những câu chuyện gã kể. Họ Đào phát ra tràng tiếng dân tộc, tất cả ồ lên cười. à ra hắn nói được tiếng ở đây. Có thể chỉ biết một vài câu nhưng như thế là quá đủ để đám người này thán phục. Y cũng biết một số tiếng dân tộc nhưng thường chỉ để dùng vào tán tỉnh các cô gái trẻ các vùng núi phía bắc. Có lẽ gã chu đáo hơn, luôn dự kiến những hoàn cảnh trớ trêu để từ đó trổ tài. Những lúc không có chuyện quan trọng gì, gã toàn im lặng, kín đáo và bí hiểm. Họ Đào biết tiếng ở đây từ bao giờ? Chịu. Và gã nói những gì với mấy cậu trẻ tuổi. Chắc là chuyện tốt chuyện vui rồi vì ai cũng hớn hở, chăm chú thỉnh thoảng chỉ cười rộ lên. Còn vết thương của thì sao. Y kinh ngạc khi gã vươn vai đứng dậy, bước ra ngoài một lát rồi nhẹ nhàng đi vào ngồi xuống lẩm bẩm bảo ngoài trời lạnh lắm. Họ Đào cử động không vẻ gì đau đớn, bàn chân nhún nhảy bước cao qua cái ngạch cửa gỗ bắc ngang. Y khẽ nhắm mắt. Không một ai biết Y đã tỉnh. Y định nói một câu nhưng không cất giọng lên được. Mọi người cũng không ai đả động gì đến, kể cả gã. Hay họ tưởng Y đã chết. Không. Không phải. Nếu thế không khí đã không ấm cúng như thế này. Bạn chết, đặc biệt ở nơi rừng thẳm, có vô tình đến mấy cũng không thể dửng dưng. Huống nữa lại vui mừng chè rượu. Huống nữa lại ba hoa đùa bỡn bằng đủ các thứ tiếng. Đó là cầm thú chứ không phải là người. Họ Đào không phải là cầm thú. Bếp lửa vẫn cháy hồng. Sao hôm nay gã ba hoa nhiều thế. Đã bao nhiêu sừng trâu cạn, đã bao nhiêu gộc củi tàn. Có những lúc gã im lặng dõi mắt ra ngoài trời. Có lúc gã đánh mắt về phía Y, vẻ mặt lạnh lùng, khó đoán. Sau lần mở mắt duy nhất ấy, Y nằm im, nghĩ ngợi, lắng nghe. Im lặng kéo dài, không còn những tiếng róc rách nữa. Những tiếng nói cũng thưa dần rồi im hẳn. Mọi người lặng lẽ tìm cho mình một chỗ nằm, mỗi người mỗi góc. Cả nhà có cái sạp gỗ đã nhường Y. Duy họ Đào không nằm, cứ ngồi im, bóng in sững trên vách gỗ.

 

Y nằm bất động. Những hình ảnh âm thanh nối nhau ẩn hiện chập chờn, lúc lúc va đập dữ dội trong não bộ. Tiếng tàu ình ình, ình ình. ánh trăng leo lét, lạnh lẽo, kỳ bí, cô hồn. Những tàn cây ẩn hiện sương khói. Tiếng tru thê thiết rợn óc của bầy hồng cẩu quẩy. Nước mắt người đàn ông nơi xó rừng bết cứng rỏ xuống vết thương con chó đầu đàn. ánh mắt tuyệt vọng, căm hờn của con chó bị thương. Tiếng khèn lá da diết, u uẩn. Hình bóng người con gái mỏng manh, run rẩy, lạnh cóng, oan khiên. Những tàn lửa lập lòe. Những dải lụa trắng dập dờn, hỗn loạn. Những thân bằng lăng trắng muốt như cây cột điện khổng lồ chọc thủng bầu trời xám. Những viên sỏi đủ các sắc màu va nhau kêu lọc xọc và cặp mắt của họ Đào chốc chốc lóe lên xanh lét, ranh mãnh, bí ẩn, thách thức, khi lại cụp xuống đờ đẫn, vô hồn, nhẫn nhịn. Và hàng vạn cánh bướm đủ mọi sắc màu ở đâu kéo về rờm rợp. Tất cả chợt lung linh, huyền hoặc rồi đột ngột biến đi như không có thật. Họ Đào ngồi thiền ngay giữa lòng suối cạn. Mi mắt khép hờ. Tay mân mê những hòn sỏi như đang lần tràng hạt. Vô số bướm sặc sỡ bay lượn vòng quanh, vòng quanh, dập dờn, hân hoan, kỳ vĩ. Họ Đào mở mắt, cặp mắt xanh lét lóe lên ma mị. Lũ bướm bàng hoàng chết sững, vụt bay loạn xạ, va đập vào nhau rơi vô số xuống lòng suối. Ha… ha… ha… Họ Đào cất tiếng cười man dại. Ha… ha… ha… Ha… ha… ha… Tất cả đột nhiên bị xới lật tung lên. Hoang tàn. Lạnh xương. Buốt óc. Tê cứng. Chết khiếp bởi tiếng cười. Đầu óc tê liệt hoàn toàn. Y chết lịm, hãi hùng, mộng mị…

 

Sáng hôm sau tỉnh dậy, những chàng trai đã tản đi đâu hết. Y thấy đau ê ẩm khắp người, hai bàn chân được bó cứng bằng băng và những lá lẩu giã nhỏ đắp vào. Bàn chân sưng tấy do trật khớp dị dạng nực cười. Họ Đào ngồi ngoài nhà, đang giã nát từng nắm lá rừng trên cái cối gỗ sứt sẹo, nham nhở bằng chiếc chày dài ngoẵng như chiếc gậy. Thấy Y cựa mình lục sục, gã nhìn vào trong. Quần áo râu ria sạch sẽ, gã như một chú tiểu đồng đang luyện thuốc. Họ Đào đến bên, ân cần, thủ thỉ như người chị dỗ dành đứa em nghịch ngợm, gãy chân gãy tay. Lặng lẽ, thận trọng, gã tháo từng vòng băng ở bàn chân sưng ú và gỡ những lát lá đã khô cong, thay vào đó là đám thuốc lá mới giã. Mát dịu và tức thì giảm đau nhanh kỳ lạ, bàn chân đau nhỏ dẹt, hồng hào trở lại. Thành thục, gã băng bó và thu dọn rất nhanh. Khi cảm giác phấn chấn, sảng khoái trở lại cũng là lúc gã mang ra một bát cháo thơm phức. Y lặng lẽ ăn hết bát cháo. Mồi hôi mồ kê tháo ra dấp dính khó chịu và ngứa ngáy. Đỡ Y ngồi dậy, gã lặng lẽ dùng khăn nước nóng lau khắp thân thể và thay quần áo. Rồi, như một người mẹ bằng lòng với đứa con đang khỏe mạnh trở lại, gã buông một câu thoang thoảng như gió thổi. Thế là phúc đức nhá. May mà còn sống về tết nhất với vợ con. Phúc phận còn dày đấy. Độ cao như thế, người khác chắc tan xương rồi. Y khẽ cử động thân thể, vặn vẹo chỗ này chỗ kia, từ từ hồi nhớ cái khoảnh khắc rơi từ chạc ba cây khộp xuống đất. Lúc ấy tất cả xảy đến trong khoảnh khắc. Nhưng còn những cơn mơ, những hình ảnh nối nhau khua múa, chèn ép, ẩn hiện trong trí não? Tại sao nó luôn xuất hiện, ám ảnh. Y nhận ra hình như có điều bất thường đang bám riết từ phía họ Đào, không hoàn toàn, không liên tục, nhưng dai dẳng và xuyên suốt mọi hành vi. Y lờ mờ nhận ra có một sợi dây mơ hồ, xoắn bện luôn ẩn hiện giữa các suy nghĩ của Y về gã với những bí ẩn ở đâu đó, nơi nào đó, quá khứ và tương lai, có khi cũng không hẳn là quá khứ hoặc tương lai đang vận động. Rõ ràng rằng một ẩn số, một kết cục có thể là bất trắc, khó lường đang đợi chờ phía trước.

Cái tính kỳ quặc của gã Y đã nhiều lần chứng kiến. Cách đây mấy năm, khoảng bảy tám năm, một hôm trong một cuộc chơi ngôi đình cổ, dạo ấy mưa triền miên mấy ngày, mưa ngập hết đường làng, ngõ xóm, sân đình cá chạy tung tăng. Trời tối, Y và họ Đào đốt một đống lửa bằng rơm và nướng cá uống rượu với cụ thủ từ. Khi cô gái cháu cụ thủ từ coi đền đến mang cho ông ít đồ nhắm, tất cả ngẩn ra. Cô gái như Hằng Nga từ cung trăng bước xuống. Từ chiều, họ Đào đã kiên quyết đòi ra đền, bảo sẽ gặp một người nào đó. Cả lũ ra đền. Ngồi uống rượu đến khi trăng lên thì không ai thấy đôi kia đâu. Đôi kia dắt nhau đi đằng nào? Họ Đào thường rất hay có những pha như thế. Bạn bè lần đầu cuống quýt nhưng dần dà quen. Cứ kệ gã, sáng mai tỉnh rượu lại đi làm, ngoan ngoãn lắm, như không hề có chuyện hôm qua. Cụ thủ từ cũng lạ, không buồn hỏi ông khách dắt cháu mình đi đâu, cứ lơ mơ say trên thếp rêu xanh nơi đình cổ, thỉnh thoảng nhắp rượu nhìn trăng cười. Lũ cá trong mùa nước lên, phởn chí chạy loang loáng trong sân đình, có con lao quá nhanh lên thềm gạch giãy đành đạch, mắt bắt ánh trăng đỏ đòng đọc. Y và anh bạn kéo nhau ra thị trấn gần đó chơi, nửa đêm thì về, sáng hôm sau tỉnh táo Y xuống đón họ Đào không thấy đâu cả. Anh bạn Y hoảng lên đi tìm không thấy. Cô cháu gái ông thủ từ chưa có chồng mà mất tích theo thì rầy rà lắm. Rồi đôi kia tự động kéo về. Ríu rít. Tự nhiên như biết nhau từ lâu lắm. Như cuộc đời chỉ có hai người. Hai người cười với nhau và nhìn mọi người cười. Tay họ còn xách theo một con cá quả, rau và bún. Hai người làm bún cá rí rách dưới bếp. Ngoài trời chim hót. Ngoài vườn hoa mướp nở vàng. Mấy chú mèo con giỡn nắng nô đùa đuổi bắt. ở trong nhà, Y và anh bạn nhìn nhau, nháy nhau bỏ đi. Thế giới có những lúc không nên tụ tập quá đông người. Sau này, nhiều khi chất vấn họ Đào, này, ông đã làm gì con nhà người ta chưa, gã chỉ cười bí ẩn. Có một hôm bảo thích lắm, hôm ấy thích lắm. Y gạn hỏi thích như thế nào, sao không thấy quay lại với người ta. Nghe nói còn nhắn nhe cho ông, định trốn chạy là không xong đâu, nơi đình chùa là nơi nghiêm cẩn vớ vẩn chết đấy ông bạn vàng ạ. Họ Đào cười, nhe mấy cái răng hạt ngô lỗ chỗ ngô nghê rồi cạy răng cũng không nói không rằng câu chuyện ở đình ngày ấy nữa.

 

Có một hôm họ Đào thì thầm với Y, buổi đi chơi khu đình cổ cô gái tóc dài cho gã xem một bức tranh cũ cóc gặm nham nhở. Bức sơn dầu khổ nhỏ ngay lập tức hấp dẫn gã. Bức tranh với những mảnh màu tối sáng đặc tả một gia đình nông dân những năm năm mươi. Một gia đình nông dân tại sao lại có đứa trẻ da đen trong ấy? Cô bé da đen có cặp mắt to tròn ngơ ngác. Những lọn tóc xoăn xòa xuống cái trán hơi gồ lên. Bên cạnh em là hai trẻ da vàng, đứa chị khoảng bảy tuổi còn cậu bé mới lẫm chẫm. Chúng đứng sát vào nhau, nép bên người cha mặc áo trấn thủ và người mẹ mắt hơi ngước bồn chồn nhìn người đàn ông. Người đàn ông nhìn về phía nào xa lắm, mắt u uẩn, thâm quầng. Cô bé da đen chắp tay lại như đang cầu nguyện điều gì. Phía sau là ngôi nhà tranh có vại nước và chiếc gáo dừa úp trên thành vại. Một con chó nhỏ màu vàng quẩn dưới chân cô bé. Em bé nhỏ tuổi lẫm chẫm mân mê bàn tay chị. Hai lòng bàn tay tương phản màu sắc gợi đến cái nhìn u uẩn của người đàn ông. Chắc chắn đã có một biến cố lớn lao với gia đình họ. Dường như người phụ nữ đã vướng vào một lỗi gì. Cô chị cùng màu da đứng nép vào người đàn ông, mắt nhìn mãi đứa em tóc xoăn sát ngay bên cạnh. ẩn ý của hoạ sĩ thật rõ ràng khi trình bày một vết thương sâu không mong muốn giáng xuống những số phận gia đình người nông dân. Khung cảnh là một vùng trung du mới giải phóng và người lính về làng đối mặt với những day dứt đang hàng ngày hàng giờ hiện diện trong tổ ấm. Bức tranh như một khám phá bản ngã không hiểu sao nằm phủ bụi nơi đình cổ mà cô bé tóc dài trong lúc phấn khích đã chỉ cho họ Đào. Họ Đào nâng bức tranh lên. Mắt gã nhỏ ra một giọt nước. Đôi mắt của đứa bé da đen trong bức tranh nhìn gã. Đôi mắt đứa bé con lẫm chẫm đứng bên chị y hệt đôi mắt của họ Đào những đêm vui cùng những người đàn bà ở khu nhà trọ tồi tàn. Nó vừa thơ ngây trong trẻo vừa như chất chứa một điều gì đã tuột đi không thể quay lại được. Họ Đào gần như quỳ trước bức tranh, miệng lẩm bẩm điều gì đó. Em bé lẫm chẫm trong tranh có một sự liện hệ bí ẩn nào đó với gã? Hay chính em bé ấy là gã? Không biết bao nhiêu lần họ Đào rưng rưng nhắc một người đàn bà bí ẩn có những ẩn ức riêng không dễ gì giãi bày được. Đã lâu lắm, một hôm gã bảo với Y gã biết một gia đình có người con da đen bỏ đi từ hồi bảy tám tuổi. Đã bao nhiêu năm nay, dường như như họ Đào tìm kiếm và chờ đợi người con da đen ấy. Người ấy bỏ đi khi còn quá nhỏ sau cái chết đột ngột của người đàn ông. Từ chiến trường trở về, người đàn ông không vượt được thử thách quá lớn của số phận. Người đàn bà lặng lẽ bên chồng và em bé da đen ngày ngày hồn nhiên bên người chị người em cho đến lúc bỏ đi. Đã không ít những em bé da đen được sinh ra không chủ đích trong các cuộc chiến tranh. Điều này khiến những người lính can trường nhất khi trở về làng không vượt qua được. Bức tranh vẫn nằm đó, tư tưởng của người nghệ sĩ trùng khít với nỗi đau. Nhưng lý do để bức tranh có mặt ở ngôi đình này không ai giải thích. Cụ thủ từ chủ nhân  bức tranh cũng đã quên từ lâu, có thể một người nghệ sĩ nào đó đã tặng cụ từ thời trẻ. Cháu gái cụ đụng đến do một sự tình cờ. Câu chuyện về bức tranh là một bí ẩn đã khá lâu không ai nhắc đến. Nó mờ dần, chìm đi như các nhân vật xấu số khác.

 

Mải mê suy nghĩ, Y không còn cảm giác đau. Hai bàn chân cũng đã xẹp xuống, những lá thuốc khô cong lại, lả tả bong ra. Y từ từ đứng dậy, nhúc nhắc đi khỏi chỗ nằm, hai cổ chân vẫn nhức nhưng cảm giác đau mất dần. Tự đi đánh răng, rửa mặt bằng nước lạnh. Nước lạnh làm Y nhanh chóng tỉnh táo. Lúc này, căn nhà gỗ chỉ còn mình Y. Mấy người trẻ tuổi đi đâu từ sáng. Họ Đào cũng không biết đã đi đâu. Chắc loanh quanh chặt củi hoặc bắt cá suối chuẩn bị bữa cơm trưa. Chiều nay, có lẽ hai người phải lên đường. Phải tính cách liên hệ và mau chóng kết thúc chuyến công tác quái quỷ. Năm nay nhất định Y nài nỉ gã về nhà ăn Tết. Để gã vơ vất mãi cũng chả mấy yên tâm. Cuộc sống ngày mai ra sao, Y và gã sẽ cùng tính toán. Ngoài trời, ánh nắng dìu dịu. Trời trong mát, cao và rộng rãi. Thỉnh thoảng, những đám mây bay hiền lành, ngơ ngác đến vô tâm. Gió cũng nhỏ, luẩn quẩn, xào xạc trong những tàn cây thấp lúp xúp. Không khí tĩnh lặng, thanh sạch. Y loanh quanh rồi trở lại căn nhà ngồi xuống tấm phản, mắt lơ đãng nhìn ra phía ngoài. Bên ngoài, con đường ngoằn ngoèo, phía trước, một chấm nhỏ xuất hiện, to dần đang tiến về căn nhà. Họ Đào về, địu trên lưng một bồ lá và ít thực phẩm. Nhìn Y tươi tỉnh, khỏe mạnh, gã tỏ vẻ rất vui. Miệng huýt sáo một điệu nhạc, gã dỡ mấy thứ lặt vặt ra khỏi cái gùi đan bằng mây. Gọn gàng xếp từng nắm lá thuốc còn tươi sang một bên, gã tiến lại nhìn hai cổ chân đã hồi phục khá nhanh của Y, gật gù ra ý bằng lòng. Y thông báo vắn tắt sức khỏe của mình và đề nghị chiều nay phải rút khỏi đây, về thị xã tính chuyện kết thúc chuyến công tác. Họ Đào nghiêm nghị nhìn vết thương điềm đạm bảo, muốn nhanh khỏi, bây giờ phải đắp một lần thuốc nữa. Nào, cứ ngồi yên để tôi giã thuốc. Mọi chuyện tính sau. Y nghiêm túc thực hiện lời đề nghị. Họ Đào thoăn thoắt giã thuốc, đắp và băng bó vết thương. Thuốc thay đến đâu, cổ chân mát rượi như có luồng sinh khí mới thổi vào. Loại lá cây rừng làm thuốc đắp này sao gã biết nhỉ. Và các vết thương của gã, sao khỏi nhanh kỳ lạ. Hôm nay, trông gã không một vẻ gì mỏi mệt, vật vờ như hôm trước. Sức lực lấy ở đâu ra? Cả Y nữa, sức lực lấy ở đâu ra? Chẳng lẽ từ những chiếc lá không tên không tuổi mát lạnh kia. Chẳng lẽ từ những bữa ăn rau cháo thất thường, lộc sung, cá suối. Hay từ lửa? Hay từ trăng? Hay từ những lo sợ mơ hồ thúc giục bản năng sinh tồn trỗi dậy. Hay do môi trường vùng rừng thanh sạch và tĩnh lặng. Chỉ biết đang khỏe ra, đang lành bệnh và tinh thần dường như khá phấn chấn sau mấy ngày quăng quật. Họ Đào đang nghĩ gì nhỉ. Họ Đào nghĩ gì thường rất khó đoán định. Trong tác phẩm của gã, phần lớn những nhân vật không tên tuổi, kỳ dị, đi lại thất thường, hành trang bí ẩn và thường là những kẻ bị thiên hạ hắt hủi, xa lánh, điên loạn hoặc đã chết. Một ngày nọ, ở tòa soạn ra, Y và họ Đào đang bàn về sáng tác. Y đang tô hồng một con người, một điển hình. Có những con người những điển hình luôn cần được ngợi ca. Họ Đào tán thưởng bằng cách im lặng. Chuyện tô hồng một ai đó cũng là chuyện bình thường. Đang đi, thấy cổng cơ quan lào nhào tiếng người. Bác bảo vệ đang khuyên răn một người ngồi bệt ngay giữa cổng. Họ Đào nán lại nhìn người đàn ông đang ngồi. Kẻ đứng người ngồi nhìn nhau. Mắt người đàn ông kia chợt sáng lên, như cầu cứu. Bác bảo vệ bắt đầu căng thẳng và kiên quyết mời người bạn đường không rõ xuất xứ kia đi đâu thì đi, miễn là đi khỏi chỗ ông canh gác, sang bên kia vườn hoa chẳng hạn, ra gầm cầu ngoài sông chẳng hạn. Chỗ đó là chỗ của mọi người, chỗ của những người như anh bạn chứ không thể ngồi đây đâu. Anh ngồi đây, dù đường sá chả của nhà ai nhưng có thể tôi sẽ mất việc. Đại loại họ nói với nhau nhỏ nhẹ và nhìn nhau bằng mắt khi thốt ra những lời ấy. Họ Đào lần chần rồi đứng hẳn lại. Gã quay sang người bảo vệ cười thân thiện. Đã bao nhiêu lần nhậu với nhau, nâng chén rượu nơi góc nhà kho bốt gác khi cơ quan vắng lúc chiều mưa, đêm bão thì cái cười ấy cũng có tác dụng. Người bảo vệ nhìn gã, ra chiều khó xử. Người đàn ông ngồi dưới đất rõ ràng đang rất mệt, đang đói lả và như là khát nước. Mọi người vẫn lướt trên đường, hối hả, vội vàng. Không ai để ý đến cái việc đang diễn ra ở vỉa hè. Thỉnh thoảng ô tô xe máy bấm còi inh ỏi, thỉnh thoảng có tiếng chửi thề tục tĩu của mấy ả ca ve gội đầu ngoáy tai bên kia đường. Họ Đào ra dấu bảo Y chờ giây lát. Gã lủi đi trên đường phố rất nhanh và quay lại rất nhanh. Trên tay là một chai nước và mấy cái bánh mì đưa cho bác bảo vệ và nhìn về phía người đàn ông rồi kéo Y bước đi. Người đàn ông nhìn hút theo, ngơ ngác cười như người có lỗi. Sau này, Y luôn bị ám ảnh bởi cái cười ấy. Dòng người vẫn hối hả ngược xuôi, như chả có ai nhìn thấy hành vi ấy. Khi đã ở quán rượu, nhâm nhi vài ba chén, Y đùa gã. Này ông, viễn cảnh tương lai của chúng ta đấy. Rồi biết đâu chả ra đường sá ăn mày ăn xin. Trả nợ đời trước như ông lại hay, đất trời chứng giám. Họ Đào hơi nhăn mặt. Sao lại suy nghĩ nông cạn thế được. Không nên. Đừng nên suy nghĩ nông cạn thế. Rồi thì sẽ đi đến đâu. Mày đúng là chỉ biết màu hồng. Y biết hắn lại giở bài triết học. Đừng tưởng đầu đường xó chợ là không còn nhân cách. Chúng ta phải có những suy nghĩ khác, ông bạn ạ. Phải biết cúi mình xuống. Phải nằm sát đất nghe giun dế than thở. Họ Đào lẩm nhẩm một hồi. Y nhìn ra ngoài trời. Tiết thu, lá vàng rơi rụng vô tội vạ xuống lòng đường, gió đến thì quẩn lên, lăn lóc, phiêu du, vô định. Quán rượu nhỏ nép bên gốc bàng già có hai thực khách bước vào. Họ dìu nhau trong im lặng. Bác bảo vệ và người đàn ông ban nãy. Ông ta bị thương tật ở chân, đi lại rất khó khăn. Cô chủ quán ái ngại thu xếp cho họ một chỗ ngồi khuất, sát gốc bàng. Họ nhìn hai người. Y và gã nhìn họ lặng im. Mỗi người theo đuổi một suy nghĩ riêng. Hai người đàn ông già ngồi ăn uống rất nhanh rồi đi. Người đàn ông thương tật thập thễnh bước về phía đầu cầu. Dòng người qua lại trên đường tấp nập và bình thản. Y và gã lặng im không nói gì nữa. Mà còn nói gì lúc ấy. Ngoài đường lá vẫn rơi, quẩn quanh, lăn lóc. Ngoài kia sông đang chảy, lặng lẽ, thầm thào. Y chợt nhớ một chiều mùa đông. Trời mưa bụi. Gầm cầu ẩm ướt, rác rưởi ngập ngụa. Nơi đó là một thị trấn đông dân, rác rưởi vô thiên lủng các vùng xung quanh dồn ra rìa sông, gầm cầu, chất chồng như núi. Không ai lý giải rác ở đâu ra. Ai đi làm điều ngu ngốc ấy. Người đàn bà điên từ lâu vẫn xuất hiện ở đây, quanh bãi rác, kiếm những thức ăn thừa ẩm ướt, hôi thối không biết từ khi nào và đến bao giờ thì kết thúc. Bao giờ cũng vậy, cứ chiều chiều, lúc sẩm tối, vắng người, chị lại vảng ra, bới những thức ăn thừa trong bãi rác, vừa ăn vừa khẽ mỉm cười, có lúc như là hát. Nụ cười lúc ấy, mãi sau này, mỗi khi còn lại một mình, Y không sao quên được. Chị luôn mặc hở hang đại khái. Mùa đông mùa hè đều phong phanh như nhau. Tóc chị đen, dài, cáu bết vào nhau, từng lọn, từng lọn ôm lòa xòa khuôn mặt khó đoán định tuổi tác. Hôm ấy,  cũng như bao đêm sau này nữa, một quán ốc đêm, những quán ốc đêm nào hàng đêm xả ra hàng đống vỏ ốc. Chị sán đến, bới đống vỏ ốc và khêu những con còn sót, những phần lòng ốc cứt ốc mà khách đã bỏ, hôi thối nồng nặc có khi từ mấy hôm trước thản nhiên ăn rất ngon lành. Cứ sịt soạt, xít xoa như phải bỏng. Lúc ấy trời đã nhá nhem tối. Y đi xe máy một mình, chầm chậm thu cái nhìn từ công việc mưu sinh quen thuộc của chị ở bãi rác. Cũng nhiều khi, Y nhìn thấy chị ngồi gốc cây sát bờ sông, lim dim ngủ hoặc làm một việc gì đó. Có khi chị bện những chiếc túi ni nông từ bãi rác thành từng con búp bê rồi nhìn nó trìu mến, ôm ấp, vỗ về. Rồi chị thả nó xuống dòng sông. Nhiều lần Y nói việc ấy với họ Đào. Gã lặng im tìm cách một mình quan sát chị. Sau này, họ Đào có một sáng tác khá hay về người đàn bà điên. Nhưng người điên trong sáng tác là một cô gái trẻ, xinh xắn và sau đó được vào trại tâm thần. Một thời gian cô gái điên biến mất không tăm dạng, không biết là có khỏi bệnh không. Còn người đàn bà điên ở gầm cầu thị trấn bây giờ vẫn còn sống ở đó. Không ai nuôi chị. Không trại tâm thần nào đón chị. Đã bao nhiêu năm chị vẫn ở bãi rác ấy, bới đống vỏ ốc các nhà hàng đổ ra trong những đêm đông. Chị dường như không già đi, cũng không chết đi và đương nhiên không thể nào trẻ lại. Từ khi có đoạn cầu vượt, bỗng nhiên chị có chỗ che mưa che nắng ngay dưới đống rác chân gầm cầu, liệu có bớt cơ cực hơn chăng. Chắc là chị không nghĩ tới điều đó, chị chỉ nghĩ tới những con búp bê bện bằng ni lông, vụng về và bẩn thỉu. Chị âu yếm chúng rồi thả xuống dòng sông, muốn trôi đi đâu thì đi. Chị se sẽ hát ru chúng, lời lẽ ngây ngô, bí ẩn: “Sông Lăng trăng sáng trắng / trời xanh xanh mây xanh / gió mát sương lạnh lạnh / con hiền lành hiền lành…”. Sáng tác của họ Đào không có chi tiết này. Y cằn nhằn, ông viết truyện toàn bỏ sót chi tiết. Họ Đào ừ hữ qua quýt. Cuộc sống thiếu gì chi tiết, lúc nào đưa vào chả được. Lúc ấy, Y cũng đang bắt đầu thành công với một số sáng tác của mình. Sáng tác của Y thời điểm ấy thường gãy gọn, bố cục chặt chẽ, khởi đầu oan khuất, kết thúc sáng sủa, văn phong giản dị, mộc mạc, dễ hiểu. Họ Đào thường chê và bảo hãy viết khác đi. Mày khá mà mày không biết. Mấy cái vớ vẩn thế đủ rồi. Y tự phụ bảo, ông chán bỏ mẹ, văn chương là chuyện lâu dài, mỗi thằng một con đường, mỗi thằng một tính cách. Viết có khi phải lấy yên thân an toàn. Sống không nổi viết gì. Phải sống sót đã. Còn viết hãy cầm chừng thôi, lựa nhau mà viết, cũng như lựa nhau mà sống. Họ Đào thở dài, im lặng. Tranh cãi với Y có những lúc gã thường đuối lý. Y có cách trình bày hiện thực của Y, tư tưởng của Y. Y khác họ.  

 

 

Chương : 1   2    3    4    5   
Phùng Văn Khai
Số lần đọc: 2657
Ngày đăng: 01.07.2009
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Cái giá của cuộc sống - Arundhati Roy
Sống Đời Bát Nhã - Trần Kiêm Ðoàn
Kiếp người xuống xuống, lên lên - Nguyễn Đức Thiện
Cành hoa đào lửa - Trương Thái Du
Mùa xa nhà - Nguyễn Thành Nhân
Giấy trắng - Triệu Xuân
Khói mây Yên Tử (Truyện Trần Thủ Độ) - Vũ Ngọc Tiến
Ba nhà cải cách- Tiểu thuyết lịch sử - Vũ Ngọc Tiến
Dầu máu - Vĩnh Trà
Gia phả dòng họ Đinh - Dương Ðình Hùng