Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.858 tác phẩm
2.760 tác giả
1.055
123.165.780
 
Bụi vết tháng năm
Trọng Huân
Chương 2 - 2

CHƯƠNG II - CỨ VIỆC NHÀ MÀ KỂ

 

Trưởng họ là ông Tây

 

Trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam có 964 họ, người Kinh có 165 họ, người Hoa có 164 họ, người Nùng và người Mường ít nhất, mỗi dân tộc có 11 họ.

 

Ở phương Tây, họ hàng, ngoài quan hệ huyết thống, còn là quan hệ hôn nhân. Nó có thể trên phạm vi nhiều nước và mang tính xã hội hơn ở phương Đông. Phả hệ phương Tây được ghi từ lâu đời. Đầu tiên ghi các hoàng đế, quý tộc. Ở Pháp còn lưu giữ cuốn “Lịch sử hoàng tộc Pháp”, xuất bản năm 1674.

 

Dòng họ và ghi phả hệ phương Đông chủ yếu theo gia đình, dòng họ. Trung Quốc có phả hệ ghi từ nhà Chu, chép các dòng dõi đế vương, quan khanh. Đến đầu Công nguyên các sỹ tử đi thi phải khai tam đại, nên viết tộc phả là yêu cầu tất yếu của sỹ tử.

 

Phả hệ đầu tiên của Việt Nam là cuốn “Lý triều ngọc điệp”, soạn đời Lý Thái Tổ. Tiếc là không còn tìm thấy nữa. Cho đến nay các dòng họ Việt Nam còn lưu giữ nhiều cuốn phả. Riêng dòng họ gốc Nguyễn Bặc, từ triều Đinh, tìm được mấy trăm cuốn.

 

Đại tự trên bức hoành phi nhà thờ họ của tôi phiên âm là Nhị ngũ hoá sinh, nghĩa rằng: khí âm dương chung đúc nên. Thấy truyền rằng, bức hoành phi xin chữ của cụ Tam Nguyên Yên Đổ, quê bên Bình Lục.

 

Gia phả họ tôi bắt đầu ghi vào cuối thế kỷ XVI, tính đến nay, tới đời thứ mười lăm. Cụ Tổ đời thứ năm làm nên công trạng.

Trịnh Doanh lên ngôi chúa, trong nước nhiều vùng diễn ra loạn lạc. Thế nhà Chúa thật ngả nghiêng, đích thân chúa Trịnh Doanh phải nhiều lần xuất chinh. Trình Quận công Hoàng Công Kỳ được cử làm Đại tướng, thống lĩnh đạo Sơn Nam, đi dẹp quân nổi dậy. Cụ Tổ của tôi là một trong những thuộc tướng của Trình Quận công. Trong đợt xuất chinh dẹp quân nổi dậy Đoàn Danh Phương ở Vĩnh Phúc, khi duyệt chư tướng tại bờ sông Hồng, bên thành Thăng Long, cụ Tổ tôi được vua ban sắc, phong hàm Phấn Lực Tướng Quân, chức Bách Hộ. Cụ  từng tham gia chinh chiến tại các vùng: Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hưng Yên, Bắc Giang, Vĩnh Phúc và Nghệ An.

 

Cụ Tổ trực hệ đời thứ chín của tôi ra lính, đóng đến chức Chánh đội trưởng. Từng nghe cụ tham chiến và tử trận ở vùng Chợ Đồn. Do tử trận, mất xác, nên lễ an táng ở quê nhà được tổ chức tượng trưng, đầu lâu - hoa gáo bằng sọ dừa. Trong khi dò tìm, phân tích để chép lại gia phả, tôi cố hy vọng, cụ tham gia phong trào Cần Vương theo chiếu vua Hàm Nghi chống Pháp. Bụi thời gian quá dày, chưa thể minh định cụ đánh Tây, hay giúp Tây đánh ta. Thôi thì người đã khuất, không khiên cưỡng, uốn đặt gia phả.

 

Hồi tìm hiểu tư liệu gia phả, anh em trong cơ quan bảo tôi hâm. Gần hai tháng ngồi lì thư viện lục tài liệu, điện thoại gọi đến, anh em đùa, ông ấy đang bận viết gia phả. Những tư liệu mà tôi thu thập được, kể ra rất lý thú, xin kể ra đây đôi ba chuyện:

 

Một chuyện khá lạ và hài hước, phái nhất thờ cúng, trông giữ nhà thờ họ tôi hiện nay, gốc gác từ giống người Tây. Trước hết xin kế vài chuyện trước:

 

Trong số tư liệu chữ Nho ít ỏi do một số gia đình trong họ cung cấp, tôi nhờ Viện Hán Nôm dịch ra chữ Quốc ngữ. Mày mò nghiên cứu, tôi phát hiện trong một cuốn gia phả ghi rất sơ sài và bỏ qua một số nhánh và đời trong phái đó. Nếu theo ngày tháng và tên người viết, thì lúc đó ông này mới bảy tuổi. Bảy tuổi mà viết nổi gia phả bằng chữ Nho, hoạ có thần đồng. Thôi rồi, một văn tự khuất tất. Đến gia phả một chi phái, người ta còn sửa chữa, thì không lạ gì, có những điều to tát hơn, bị bóp méo.

 

Một tài liệu khác lại không liên quan đến gia phả, mà là chúc thư chia tài sản. Điều thú vị ở đây là tại một vùng quê nghèo nàn, heo hút Hà Nam, vào đầu thế kỷ trước, đời  vua Duy Tân, người ta đã văn minh, lập chúc thư. Bà cụ ngoại tôi, cũng người họ này, là chị cả được chia bảy sào ao. Tất nhiên cụ được chia ít hơn so với các ông em trai, nhưng như thế là bình quyền đấy chứ. Trong chúc thư, ngoài chữ ký người cha lập di chúc, còn có tất cả chữ ký của con cái và triện, cùng chữ ký của lý trưởng và thấy một người ký với hai tư cách, con trai và lý trưởng. Nếu văn minh kia được duy trì, phát triển, thì đến bây giờ, tránh cho không ít gia đình rơi vào cảnh, khi cha mẹ mất, con cái đánh chửi nhau, vì di sản của cha ông để lại.

Về ông trưởng họ gốc Tây, có lẽ Việt Nam ta, ít thấy trường hợp nào đặc biệt vậy. Việc xảy ra  khi Pháp mới sang đô hộ An Nam. Ở phái nhất có ông trưởng họ tôi ra lính. Đi binh về quyền, sau mấy năm ra lính quay về làng, ông thành người oách, có chức vị nhà binh. Ngoài tên thường dùng, dân làng còn phải gọi thêm cái chức ông đóng lính. Ra đình, ông đủ chuẩn ngồi chiếu trên với các cụ. Ngoài danh mang về và cả làng phải trọng, ông còn rước về cô vợ bụng chửa tướng, quê gốc Huế.

 

Giữa một miền quê Bắc bộ, nói giọng bèn bẹt vùng chiêm trũng, vợ ông giọng Huế trọ trẹ, làm người làng nghe rất lạ tai. Chuyện của ông dân làng kháo cả tháng không hết. Tiếp đó họ lại được một chầu thì thầm nữa. Đó là khi cô vợ sinh con, đứa bé trai chẳng giống trẻ mỏ xứ ta, mà nó da trắng tuyết, tóc râu ngô, mắt mèo xanh biếc.

 

Thuở ấy dân làng ai đã trông thấy giống người Tây Dương đâu. Họ  kháo nhau, hay là do ông ấy ra lính, đến vùng rừng thiêng nước độc, nên sinh ra giống con vậy. Cũng có thể do vợ là người miền Trung, nên sinh ra, trẻ mỏ nó khác. Mãi sau này, khi gặp quan Tây, dân làng mới ngẫm ra, rồi suy đoán, cô vợ kia chửa trước với ông Tây. Kẻ ăn ốc, người đổ vỏ. Để đổ đám vỏ ấy, ông được quan Tây trả cho cái danh nhà binh về làng, song phải rước người đàn bà kia về quê làm vợ. Là người biết rõ đứa trẻ không phải dòng giống mình, nhưng ông không nói ra. Không nói ra, đứa trai lai tất thành trai trưởng, anh em và họ hàng ai dám nói. Thời gian trôi đi, ông bố qua đời, lúc này anh em có sự xì xào, nhất là ông em út, ông này từng là lý trưởng, định làm ầm lên, muốn truất thằng cháu trưởng lai. Rồi chuyện chẳng đi đến đâu, giở ra chỉ tổ vạch áo cho người xem lưng. Thế là giữa một vùng quê Hà Nam dày lệ tục, cậu Tây lai vẫn thành trưởng họ. Sờ sờ ra đấy, cả nhà biết, cả họ biết, cả làng biết,... thế thì những chuyện thâm cung bí sử, chịu là đúng.

 

Mấy vị cao niên ở làng còn nhớ về cụ Tây lai, mắt xanh như mắt mèo, mũi lõ, một búi tóc tướng sau gáy và cụ rất sành chữ Nho. Nếu còn sống, ông cụ Tây lai trưởng họ tôi giờ cũng hơn trăm tuổi rồi. Hậu duệ của cụ, giờ tới hàng chắt chút. Nay đám chắt chút chẳng còn mắt xanh, mũi lõ nữa, nhưng dáng vẫn hơi khác, cứ cao lòng khòng, mũi gồ gồ to.

 

Trong quá trình sưu tầm, chép lại gia phả, tôi gặp lắm chuyện khó lý giải. Quê tôi tận Hà Nam, lại mấy chục năm loạn lạc, văn tự thất lạc, đương lúc tưởng như vô vọng, ấy vậy mà trong một chuyến công tác về thị trấn Nam Sách, tôi tìm được cuốn gia phả họ mình bằng chữ Nho, lưu lạc đến tận đây. Cũng trong dịp này, tôi tìm được phần mộ cụ Tổ trực hệ sáu đời của mình, cùng cụ chính thất và kế thất. Theo gia phả, cụ thuộc đời thứ tám.

 

Thành tâm với tổ tiên, tôi được các cụ phù hộ độ trì rồi đấy! Cuối năm chín lăm, sau chuyến đi công tác, về nhà, thấy hàng xóm hai bên đều đang xây sửa nhà cửa. Tôi lo lắng, nhà mình sụp xuống bất cứ lúc nào. Cột và tường nhà chung nhau, thì cái bị dỡ, cái bị cưa. May có cô bạn của vợ tôi, người làng Cót, cho vay ba ngàn đô, nhà dành dụm được một ngàn và hai bên chi chút thêm một ngàn nữa, chúng tôi có tiền xây nhà.

 

Trước khi xây đã lường trước, chắc chắn mấy ông phường sẽ tới, tôi ra xin trước với họ, ngày khởi công, khỏi vào lập biên bản cho đỡ xui. Đã xin, đã kiêng kỵ, vẫn xui, dân trong ngõ xúm nhau vào kiện. Mấy nhà giáp bên không có ý kiến gì, chỉ toàn những nhà xa vời vợi đâm đơn. Nào là, xây nhà có giấy phép không; nhà xây lên che lấp hết ánh nắng, không khí nhà họ,... toàn những lý do chẳng đâu vào đâu. Có kiện là ông chính quyền xô tới, gia chủ phải hầu. Khi nhà xây xong, hạch toán ra, riêng khoản lót tay hầu kiện, mất toi một phần mười chi phí ngôi nhà.

 

Hôm chuẩn bị đổ trần tầng một, trong khi kiện cáo đang căng, lại đúng vào ngày giỗ họ, gia phả vừa in xong, phải về dâng trước họ, tôi đành nhờ ông chú giúp cho việc này. Trèo lên mái ghép cốt pha tầng một, trước mâm lễ cúng đổ trần, tôi khấn nôm:

- Trình các cụ! Cả đời con, đây mới là xây nhà lần, mà có to tát gì đâu, tiền lại đi vay. Thế mà họ cứ xúm vào đòi phá. Con lạy các cụ! Các cụ phù hộ độ trì cho!

Nhà không bị phá. Một năm sau vợ chồng cày kéo, trả xong nợ. Nghĩ cũng lạ! Trước làm ăn mãi chả thấy tiền đâu, vay nợ, một năm sau, kiếm ba ngàn đô, trả đủ!

 

Cha tôi

 

Thời Kháng chiến chín năm chống Pháp, Thái Bình là tỉnh chiến tranh diễn ra ác liệt, ta và địch giằng co nhau từng làng qua mỗi trận càn. Trong một trận càn, cả nhà chạy giặc, riêng cụ nội tôi, vì quá già, ngoài bảy mươi, nên ở lại. Lúc giặc tới, chúng mang cụ già ra khảo. Không chịu được đòn, cụ chỉ đám của nả gia đình giấu dưới ao, lũ lính nguỵ lội xuống, bao nhiều nồi, mâm đồng, bát, đĩa,... chúng vớt lên tiệt.

 

Trong bối cảnh ấy, mẹ tôi kể, bận sinh con đầu, bà bụng mang dạ chửa tháng cuối, vẫn phải chạy giặc. Chửa vượt mặt, chạy càn đâu chỉ vác bụng, bà còn gồng gánh đám của nả: mấy cái nồi, chiếc mâm đồng, ít quần áo,... Tây càn, nghe súng nổ làng này, bà chạy tránh giặc sang làng khác. Cuộc sinh nở của bà diễn ra trong một trận chạy càn. Trú nhờ nhà người, một nhà bất kỳ, trong cái làng bất kỳ, bà cũng không nhớ nổi là làng nào nữa. Lúc đau đẻ bà dò dẫm ra vườn. Tục quê, người ta kiêng kẻ lạ đẻ trong nhà. May có bà già tốt bụng, làm phúc, không thì mẹ tôi vượt cạn một mình. Sinh ra, chị cả tôi được cắt rốn bằng chiếc liềm cũ. Mẹ tôi tự rắc gio, lau dọn chỗ mình vừa sinh nở, rồi ra sông giặt giũ. Đẻ xong hôm trước, hôm sau bà phải bồng bế con rời làng ấy, tiếng súng Tây càn vọng tới.

 

Chạy càn, đàn ông tách riêng, hoặc xuống hầm bí mật núp. Đã chạy, họ phải chạy trước. Đàn ông mà Tây vớ được, tuổi từ trung niên trở xuống, nếu bị nghi là du kích, thì xơi đòn ốm, còn không, cũng bị bắt lính. Đàn bà, con gái và người già thường chạy chung với nhau. Các bà già thì thôi, chứ đám phụ nữ ít tuổi, phải bôi bẩn, làm sao thật nhếch nhác. Một lần không may, mẹ tôi cùng đám phụ nữ và người già chạy nhầm vào vùng có Tây. Cả đoàn sợ sệt, ngồi túm tụm lại một chỗ. Mẹ tôi dù con còn đỏ hỏn, vẫn phải tự làm bẩn - nhổ nước trầu, rắc gio vào váy áo, tóc tai cũng bôi phân cho nhơ nhớp. Lần ấy lũ Tây đen sấn lại, định bắt gái. Thấy đám đàn bà hôi rình, trẻ con khóc oe oe, chúng mới buông tha.

Vợ thoát, nhưng một lần khác, chồng bị bắt. Cha tôi bị Tây bắt, chúng điệu ông về căng Cầu Bo. Kẻ trong tù đã khổ, người bên ngoài còn khổ hơn. Những ngày nuôi chồng tù là những ngày cơ cực với mẹ tôi. Bà mang theo con nhỏ, chị gái tôi lúc đó hơn hai tuổi, ra thị xã Thái Bình buôn bán loanh ở chợ, vừa kiếm sống nuôi mình, nuôi con, ngày ngày còn tiếp tế cho chồng. Chị gái tôi bị bệnh đường ruột, ở nhờ nhà người quen. Mẹ trải lá cót xuống nền nhà, hai mẹ con nằm và chị tôi cứ xoèn xoẹt ỉa suốt đếm. Cứ vào buổi trưa tan chợ, bà bế con, vai khoác bị cói cơm, chen sát hàng rào trại tù, chồng bên trong chờ, vợ bên ngoài tìm và ném cơm vào tiếp tế.

 

Cha tôi lúc bị bắt, đám tù toàn đàn ông, Tây lùa tuốt lên xe cam nhông. Mấy chục người chồng đống lên nhau, dạt vào góc thùng xe, để lại một khoảng trống cho mấy thằng Tây đen ba vạch hiếp tù. Ở Phi châu, tại một vùng có tục, người ta gây vết thương lên mặt, tạo sẹo - ba vết - nên dân ta quen gọi là Tây Ba Vạch. Những người đàn ông xấu số bị Tây hiếp, vào tù một thời gian, thường bị chết. Bởi đói khổ và họ bị bọn Tây đổ cho bệnh giang mai, hủi lậu.

 

Trong trại, người tù phải làm nhiều việc nặng nhọc, kể cả làm cũi giam. Một lần cha tôi cùng đám tù bị xua đi khuân gỗ, gỗ phá từ một ngôi đình. Đốc tù có cả nguỵ binh, Tây đen lẫn Tây trắng. Hôm đó có thằng sỹ quan da trắng chỉ huy rất ác. Nó luôn vung roi, đánh tù đến toé máu và cứ lăm lăm khẩu súng ngắn, doạ bắn. Thằng này ác quái, ra cái lệnh còn quái ác hơn: chuyến chuyển gỗ đầu, hai người tù khuân một thanh sà gỗ lim; chuyến thứ hai, bắt tăng lên gấp đôi; chuyến thứ ba… tăng nữa. Chỉ một thanh đã nặng, song tù nhân sợ roi và súng, cắn răng khiêng. May đến chuyến thứ ba hết gỗ, không hôm đó có tù nhân thiệt mạng.

 

Trại tù có hàng rào và hào nước xung quanh. Rác sinh hoạt, phân, nước tiểu của tù thải ra, trút xuống. Hình ảnh cha tôi nhớ nhất: Một hôm ngủ dậy, người tù ngơ ngác, không tin nổi mắt mình, sau một đêm, hàng rào xung quanh trở lên xanh rì. Thời tiết nóng nực, phân, nước tiểu dưới hào là môi trường cho ruồi nhặng sinh nở. Ấu trùng - giòi, đến kỳ thành nhặng, bay lên, đậu vào hàng rào, xanh rì như luỹ tre làng.

Cha tôi có thời gian tham gia du kích. Trong một lần liên lạc bị lộ, giặc túm được ông. Chúng dùng đủ cực hình tra tấn. Ông kể, sợ nhất khoản đi tàu ngầm và tàu bay. Nước xà phòng hoà ớt bột, chúng dúi đầu vào cho sặc nước, sau đó treo lên, quay tít, thỉnh thoảng chí điện cho giãy đành đạch. Gần chục ngày giặc dùng đủ cực hình, ông nghiến răng chịu. Nghĩ chuyến này chắc chết, nhưng ông không khai. Không lo cái chết, ông chỉ nghĩ, khai ra sẽ nhục cho gia đình, vợ con. Can trường trước kẻ thù, chấp nhận cái chết, chỉ vì nghĩ đến gia đình. Đánh chán, tưởng ông không phải là du kích, chúng thả ra. Sau lần đó, ông sợ, không tham gia du kích nữa. Khi tôi đã lớn, vào những ngày trở giời, cha tôi kêu mình mẩy ê ẩm, mẹ tôi lại chép miệng, tại ngày xưa Tây nó đánh cậu mày đấy!

 

Là người kiệm lời, ông sống khiêm nhường, đã nói là làm, làm thì làm cho kỳ được. Ông làm nhiều nghề. Lúc trẻ học đến lớp nhất, khi thi vớ phải bà đầm Tây hỏi. Dân quê đã bao giờ nghe Tây nói, nên chẳng nghe được từ nào. Thế là trượt. Rồi cha tôi theo ông nội tôi ngược xuôi buôn bè. Sang thời ta, ông buôn bán, làm ruộng, thả chài kéo lưới, có dịp ra Hà Nội làm công nhân ở Sân bay Gia Lâm, rồi lại về quê làm mộc, đóng thuyền, trước thời kỳ hợp tác xã tan giã, làm thủ kho.

Ông hiếu đễ với mẹ già. Mẹ tôi tính, gần ba mươi năm về sống gần nhà bố mẹ vợ, chỉ Tết cuối cùng, vì đau ốm ông mới không về được với mẹ đẻ. Muốn ăn Tết cùng, mẹ tôi phải theo ông về nhà chồng. Ngày mới lớn, tôi và ông, cha con không hợp chuyện nhau, cứ cha nói là con tranh luận ngược lại. Sau này khôn lớn, tôi mới hiểu, cha con gần gũi, tâm sự nhiều với nhau hơn.

 

Ông có thú làm thơ. Một điều tôi ân hận là chưa một lần chú ý nghe ông đọc thơ. Tôi chỉ nhớ đại ý một bài trào phúng, cha tôi sáng tác tặng ông thợ cúp tóc. Thơ đùa rằng, ông kia cầm đầu khắp thiên hạ. Thơ từ ông để lại, cất trên gác sép, một lần mối xông hết.

 

Tôi không có dịp bên cạnh lúc ông qua đời. Một tuần trước khi mất, bác sỹ bệnh viện Bạch Mai kết luận, bị ung thư gan giai đoạn cuối, tôi đưa ông về quê. Trước hôm trở lại trường, khuya rồi, cha con ngồi uống nước với nhau. Tôi biết bệnh ung thư đau đớn lắm, nhưng ông vẫn gắng gượng ngồi nói chuyện, vì hôm sau tôi phải lên trường, không biết ngày nào cha con gặp nhau. Mọi người vẫn giấu, động viên yên tâm dưỡng bệnh, nhưng ông tự biết, bệnh tình của mình. Tôi ân hận mãi điều mình nói về bệnh tình của ông. Nghe con trai nói, từ khoé mắt ông, lăn dài dòng nước mắt. Tôi xót xa và càng đau lòng hơn, khi nghe cha tôi đứt quãng:

- Cậu không… ân hận gì. Nghĩ chỉ... không phụng dưỡng được mẹ già. Các con sau này…. nhớ về thăm bà nhé!

Trước ngày cha tôi mất vài hôm, anh tôi nhờ thợ lên cỗ gỗ. Đã cố giấu, mà cha tôi vẫn biết. Nghe tiếng cưa đục sau nhà, biết thợ đến nhà mình làm gì, ông bảo con trai vực ra xem. Trước ánh mắt ái ngại của mấy ông thợ, cha tôi yêu cầu con trai dìu quanh cỗ quan tài. Đi hết một vòng, ông yếu ớt nắm tay mấy ông thợ, thều thào cảm ơn họ. Giây phút lâm chung, bạn bè, hàng xóm vây quanh, cha tôi gắng sức tàn, chào câu cuối nhân gian:

- Các ông bà ở lại… tôi đi đây!

 

Ông ra đi vào một ngày mưa, gió…. rất to.

Đầu năm Đinh Hợi, tôi có ý định sang sửa lại mộ phần của ông. Việc xây mồ, sửa mả là việc trọng, tôi cẩn thận nhờ thầy, xem ở đầu phố thị quê tôi. Nghe nói, ông thầy xem hay, khách Hà Nội, Hải Phòng về xem nườm nượp. Đặt lễ xong, tôi vừa định trình bày, thì thầy phán: cứ để cậu xem.

 

Cậu khen mồ mả các cụ nhà tôi đẹp. Cậu nói như từ trong bụng tôi nói ra, rằng: Không bốc hót, mà chỉ sửa sang phần mộ. Mộ phần cất lâu rồi, nay xung quanh thiên hạ xây cất cao lên, thành ra phần mộ của cha tôi thấp xuống. Đúng quá, tôi nghĩ bụng. Cậu lại phán:

- Nhà ông có người chú mất trẻ.

Nhà ai chẳng có chú, bác mất trẻ - tôi thoáng nghĩ.

Cậu phán tiếp:

- Ông này liệt sỹ. Đừng mất công tìm kiếm nữa. Linh ông ta yên phận chốn đó rồi. Có tìm, chẳng được đâu.

Đúng quá! Lâu nay, ông chú tôi áy náy, muốn đi tìm hài cốt anh trai mình, định xuống cả thầy Liên mãi Hải Dương, xem.

 

Địa chủ hụt

 

Mẹ tôi có cái tên được đặt theo địa danh nơi bà sinh ra – bến Hới, ngôi làng dệt chiếu nổi tiếng bên bờ sông Luộc, quê hương bà Nguyễn Thị Lộ, vợ yêu của Nguyễn Trãi. Trong một chuyến tàu khách, bà ngoại tôi từ quê gốc Hà Nam ra phủ lỵ  nơi bà  sinh sống, mẹ tôi được sinh ra khi tàu qua bến ấy.

 

Mẹ có cơi trầu ăn hỏi từ năm mười ba, tận năm hăm mốt mới về nhà chồng. Cứ chuẩn bị cưới, thì không bên nọ có tang, lại bên này có tang. Tang một năm, tang chín tháng, tang sáu tháng, nghĩa là tuỳ theo quan hệ dây mơ, rễ má, mà chở. Tám năm trời nhà trai vất vả sêu tết: Đoan Ngọ mùng năm tháng năm, tết ngỗng; Trung thu, tết hồng cốm; Nguyên đán, tết gạo,.... Tết nhiều thì nhà gái sướng. Chẳng phải vì quà cáp, cái chính là vinh dự trước bàn dân thiên hạ, con gái có người sêu tết. Như nhà ông bà ngoại tôi, được sêu tết, tính ra lại lõm.

 

Ông bà nội, ngoại tôi đều người cùng làng. Trai có thể lấy gái thiên hạ, chứ gái lấy chồng, nhất thiết phải người cùng làng. Làng có lời nguyền, con gái lấy chồng thiên hạ, chết một đời cha, ba đời con. Có người bảo, lời nguyền ấy có lẽ để giữ nghề làng, không cho truyền sang làng khác; có người bảo, một bà gái người làng, bố tước quận công, vì lấy chồng không được như ý, nên nguyền vậy. Giờ ở làng có nhà thờ quan lớn, họ Phạm. Thấy bảo họ ấy, xa xưa từng mấy đời tước quận công. Dân làng tôi thường tản mát đến các bến, các phố buôn bán và làm nghề làng. Hàng năm vào hội làng, hay Tết, họ tụ tập về quê. Gia đình ông bà nội, ngoại tôi sống ở hai bến. Dịp sêu tết ông nội tôi đi xe tay ra phủ lỵ nơi ông ngoại tôi sống, quãng đường gần bốn chục cây số. Trong dịp sêu tết, ông ngoại tôi là người khoái trí nhất, ông có cớ để vui vẻ công khai. Những dịp khách khứa như vậy, chủ nhà phải khoản đãi khách. Thông gia tương lai thuộc hàng khách trọng, nhất thiết khoản đãi phải chầu tom chát.

 

Mẹ tôi kể, chính bà rất thích ngắm và nghe cô đầu hát. Họ hát hay lắm, người lại đẹp nữa. Mẹ tôi được nghe, được ngắm cô đầu, bởi mỗi bận ông ngoại tiếp khách khoản tom chát, đến bữa, mẹ tôi được bà ngoại sai đi mời ông ngoại và khách về ăn cơm. Lắm hôm đến nơi, thấp thó đứng nghe, vì hay quá, bà quên cả việc chính của mình. Con gái mới lớn, nhìn các cô đầu quần là áo lượt, mặt hoa da phấn, ai chẳng mê.

 

Tám năm được sêu tết, mà ngày cưới, mẹ tôi thật vất vả. Sau ngày Toàn quốc kháng chiến, phủ lỵ quê tôi thực hiện tiêu thổ kháng chiến, dinh cơ của bà ngoại tôi bị tống rơm đốt tiệt, gia đình tản cư về quán Cháy, nằm bên quốc lộ Mười, chạy qua đất Thái Bình. Ngày cưới của mẹ tôi diễn ra tại nơi tản cư ấy.

 

Ngoài mê hát cô đầu, ông ngoại tôi còn thú đánh bạc và hút thuốc phiện. Ông diện bạch đinh, còn bà ngoại tôi là con cụ chánh tổng. Chánh tổng mà gả con gái cho bạch đinh, chuyện hơi lạ. Cụ chánh tổng nghiện thuốc phiện, chàng bạch đinh giỏi tiêm thuốc, trong khi tiêm thuốc cho cụ chánh, chàng khéo cưa kéo, khéo đến mức cụ chánh gả luôn cô con gái rượu cho.

 

Phố phủ quê tôi có cửa hiệu bán thuốc phiện công khai, đại lý của nhà bà Nghị Thích. Trước cửa hiệu treo cờ vàng, trên ghi hai chữ: R.0 - Régie opium - đại lý thuốc phiện. Cùng với cửa hiệu R.0, còn có cửa hiệu R.A - Régie Alcool - đại lý rượu.

 

Có một ông chồng chẳng chú ý tới việc làm ăn, suốt ngày chỉ mải tom chát, cờ bạc, hút xách, mình bà vợ buôn bán, mà nhà vẫn giàu.

 

Bà ngoại tôi ngày sóc vọng đều lên chùa, lễ Phật. Những người có đạo, sống nhân từ, làm điều thiện. Tuy là con gái chánh tổng, nhưng cụ chánh không nhũng nhiễu dân, nên nhà nghèo. Bà ngoại tôi lấy chồng, vợ chồng gần như hai bàn tay trắng. Bà lam làm, tần tảo, chỉ hai mươi năm sau khi lập gia đình, gây dựng được một gia sản kha khá. Trước năm bốn lăm nhà có tới hai dinh cơ ở phố phủ, lại còn dư tiền về quê tậu mấy mẫu ruộng. Lắm tiền, bà còn về quê mua chân phó lý cho chồng và con trai, tức ông ngoại và cậu ruột tôi. Cậu tôi lúc đó khoảng mười tuổi đã thành anh phó. Chân phó lý, dịp đình đám, về làng không phải vác cờ, bê trống, cỗ bàn ngoài đình ngồi chiếu trên. Cậu tôi bảo, theo thời giá bây giờ, chân phó lý đó bằng khoảng dăm chỉ vàng. Vì sai lầm đầu tư vào đất, nên trong Cải cách ruộng đất, ông bà ngoại tôi bị quy là địa chủ. Chắc khi bị trưng thu ruộng đất, bà ngoại tôi chẳng hiểu mình bị tội tình gì, tội hay lam làm chăng? May mà sau sửa sai, nhà được xuống thành phần.

 

Nhà ông bà ngoại tôi đã khốn khổ về cái chức địa chủ trượt đó. Cha tôi là chàng rể cũng bị vạ lây. Sợ liên luỵ đến các em, vào kỳ cải cách ruộng đất, bố tôi đành bồng bế vợ con rời vùng đất nơi ông đang sinh sống cùng mẹ đẻ và các em, về sống gần nhà ông bà nhạc cho cùng nhục một thể.

 

Ông bà ngoại tôi bị người ngoài đấu, người trong họ đấu và suýt nữa còn bị cô con gái nuôi đấu. Năm đói Ất Dậu, đi chợ bán hàng, mẹ tôi xin về một cô bé. Cứu một người phúc đẳng hà sa. Nhà ấy có ba bố con, mẹ tôi xin đứa lớn, chừng tám, chín tuổi. Cũng khó đoán, vì đói kém, trẻ mỏ ngày đó ba ngơ lắm. Cứ như bây giờ, tầm tuổi ấy, chúng biết tuốt. Xin về, mẹ tôi đặt cho cô cái tên là Gái. Cô Gái chẳng rõ quê quán mình ở đâu, tên bố mẹ là gì. Lúc mẹ tôi xin, ông bố muốn cho cả hai chị em, nhưng mẹ tôi chỉ nhận một. Mẹ tôi cho ông ta ít tiền. Bà đồ rằng, chắc rồi mấy ngày sau bố con nhà ấy cũng chết hết thôi.

 

Phủ lỵ quê tôi kỳ đói là tụ điểm cho kẻ đói kéo về. Họ vạ vật ở các nơi: chợ, bến tàu, bến xe,… Đói, không xin được gì, xác chết rải rác các phố. Hàng sáng có phu lóc cóc dắt xe ba gác thu gom, rồi chở đến bãi tha ma, chôn. Để giữ vệ sinh, mỗi lớp xác người quẳng xuống, được rắc vôi bột và phủ lớp đất, hôm sau lại đổ tiếp lớp khác. Đổ đến khi đầy, thì phủ đất dày lên trên, chuyển sang đào hố mới. Thường mỗi hố chôn được ba lớp. Trước khi chôn, ông trưởng phố lên trình quan Tây, báo số người chết, để lĩnh tiền chôn. Công ấy gồm nhân lực thu gom, vận chuyển, đào hố, phủ đất và tiền vôi bột. Lúc đầu còn chiếu bó xác, sau chẳng chiếu đâu cho xuể, cứ nguyên xác chết mà phủ đất. Thường ông trưởng phố khai tăng số người chết thêm một ít, để lĩnh khống công chôn các suất đó. Lúc đầu là đồng một suất, sau chết rộ, giảm xuống, chả còn đáng bao nhiêu. Biết rằng giá gạo hồi ấy, có lúc tới tám mươi đồng một thùng, chục cân thóc. Tính ra chôn mười xác người chưa nổi cân thóc. Vị trí chỗ chôn là trước và sau nghĩa địa hiện nay của quê tôi. Tổng số cả đợt đói có bảy hố, bốn phía trước, ba  phía sau. Nay trước bãi tha ma của phố thị có khoảng đất trống phẳng, cỏ mọc xanh. Ấy là các hố chôn chung người chết đói.

 

Các nhà ở phố rất kỵ xác đói trước cửa. Muốn xua kẻ đói chưa chết, cứ chập tối,  chủ nhà mang nước ra đổ ở vỉa hè. Ướt, người đói nằm lạnh, không ngủ được, phải bò sang chỗ khác. Số người chết ở phố phủ không thống kê chính xác được là bao nhiêu. Xin lấy một nơi gần phủ lỵ quê tôi, xã này có non ba ngàn dân, mà năm Ất Dậu, chết đến hơn một ngàn hai trăm người.

 

Qua lời mẹ kể, tôi còn biết một nhà hàng xóm chết hết cả nhà, là ông bà Sự và hai cô con gái, Tỉnh lớn và Tỉnh bé. Mẹ tôi chơi với Tỉnh lớn. Kỳ đói, thỉnh thoảng bà giấu cho tấm bánh. Một lần bà cho tấm áo, sau đó Tỉnh lớn chết. Có người doạ, người chết mặc áo của mình đi, mình sẽ bị điên, mẹ tôi sợ quá, đòi lại cho kỳ được.

 

Dắt cô Gái về nhà, mẹ tôi đưa cô Gái đi lòng vòng khắp phố thị. Bà nghĩ, đưa đi như thế, sau này cô Gái không biết đường quay về nhà mình nữa. Mới đầu mẹ tôi định nhận cô Gái làm con nuôi, những sau có ý ra vào, bảo con gái chưa chồng, nhận con nuôi làm gì, thế là mẹ tôi chuyển cô Gái thành em nuôi. Lúc đưa cô Gái về, mẹ tôi bị ông ngoại tế cho một trận. Ông bảo, rước khỉ về nhà. Đúng là cô Gái như con khỉ, người xanh xao, gầy nhẳng, chấy rận, ghẻ lở khắp mình. Sau khi đưa cô về, mẹ tôi phải đem cô Gái ra tổng vệ sinh, cạo trọc đầu, lột hết quần áo đem đốt và tắm rửa cho một trận cẩn thận.

Quy định đầu tiên với cô Gái là mỗi bữa chỉ được ăn hai vực cơm, hoặc cháo cám. Nhà bà ngoại tôi tuy khá giả, nhưng trước cảnh đói đâm lo, không biết tình hình thế nào, nên phòng trước, nhà ăn cháo cám. Cô Gái rất tự giác, cứ ăn đúng hai vực là đứng lên, chỉ khi người nhà bảo ăn thêm, cô mới dám làm vực nữa. Mẹ tôi bảo, nghĩ cũng thương và còn khen cô bạo thế. Nhà bà ngoại tôi có hai dinh cơ, chỉ ở một, còn một để không. Ban đêm cô Gái được cử ra gác dinh cơ kia. Trẻ con mới tám, chín tuổi, đêm hôm vòng võng một mình gác nhà, chỉ riêng chuyện ma, nghĩ đã kinh, thế mà cô Gái chịu được.

 

Cuối năm năm tư bộ đội ta về tiếp quản phố thị quê tôi, chấm dứt sự chiếm đóng của quân Pháp. Bước vào kỳ Cải cách ruộng đất, cô Gái lúc này đã lớn, đã là thiếu nữ. Hồi đó họp hành tợn lắm, nhà nhà, người người đêm nào cũng họp. Cô Gái rơi vào tầm ngắm của đội. Có xâu, rễ vận động cô tố người từng cưu mang mình thoát khỏi trận đói Bốn lăm. Nhà ông bà ngoại tôi nín thở, sợ cô con gái nuôi tố. May mà cô Gái không tố. Nghe kể lại, cô bảo với mấy người xui mình rằng: Cha, mẹ nuôi tôi đâu có ác! Đâu có bóc lột gì tôi. Thật hú vía cho nhà ông bà ngoại tôi. Sau này cô Gái đi thanh niên xung phong, rồi làm công nhân ở nhà máy chè thuộc tỉnh Phú Thọ. Cô lấy chồng là cán bộ tập kết miền Nam. Giải phóng Bảy lăm, cô theo chồng về sống ở thành phố Đà Nẵng.

 

Số cô vất vả, lấy chồng, lại vớ ngay phải ông chồng bị tù tội. Ngày ấy tôi còn bé, thấy cô Gái về thăm mẹ nuôi, tức bà ngoại tôi, mà chẳng thấy chồng cô đâu. Sau mới biết, ông bị đi tù. Sau này gặp chú rể, thấy ông hiền khô, dễ gần. Tôi cứ thắc mắc, không hiểu tại sao ông bị đi tù. Lớn lên tôi mới hay, ông là cán bộ tập kết, hay cãi lãnh đạo – cái tội công thần, nên giám đốc đánh bẫy, vu cho tội chống đối, thế là lĩnh án và bị đi tù dăm năm.

 

Nói về trận đấu tố ông bà ngoại tôi, trừ cô con gái nuôi không đấu, còn họ hàng ở quê, toàn những người nhận ruộng, nộp tô, khối người tham gia đấu tố. Phố thị quê tôi cách quê gốc chừng sáu mươi cây. Hồi Cải cách, từ quê, mãi tít tận Hà Nam, xã đánh ra cái giấy, thế là hai cha con, gồm ông ngoại và cậu ruột tôi, cum cúp về ngay quê. Hai người khoác theo bị cói tiền, về nộp cho địa phương. Tối đầu tiên ông ngoại tôi đến chơi nhà người cháu, gọi ông bằng cậu ruột. Ngồi ở nhà trên, ông ngoại tôi nghe rõ mồn một đứa con trai lớn của người cháu họ, ngồi dưới bếp nói to, nói cốt để ông nghe thấy, nước non làm gì cho thằng địa chủ! Tôi chưa lần nào nghe cậu ruột kể chuyện bố con ông bị đấu tố ra sao. Chắc nhục nhã lắm. Lại hiếp dâm, đánh người, bóc lột…

 

Khổ quá, bóc lột được bao nhiêu? Như mẹ tôi nhớ, đất chiêm trũng, năm cấy một vụ. Mỗi năm bà về thu tô một lần. Sào ruộng thu cỡ dăm cân thóc, mà có bao giờ thu đủ, thu róc đâu. Toàn trong họ, người ta khất và nài nỉ, nói khó, mẹ tôi con gái phố xá về quê, biết thế nào lúa má. Tiếng là có ruộng, tiếng là thu tô, nhưng có thu được bao nhiêu. Tiền vé tàu, tiền ăn, tiền quà cáp, trừ đi, mỗi năm thu được vài ba tạ thóc, chỉ đủ dùng cho cả nhà dịp về làng hội hè đình đám.

Phục ông cậu ruột tôi là người bền bỉ, kiên trì. Hơn chục năm, hết dân quân, công tác khu phố, rồi lăn lộn với hợp tác xã, ông được xét kết nạp vào Đảng. Lúc sắp kết nạp, lại có người lôi ra, bố là địa chủ. Khổ quá, có phải thế đâu, chỉ là địa chủ hụt thôi. Sau này ông còn là phó chủ tịch phố thị quê tôi. Đến tận năm hai ngàn, ông lĩnh được cả gốc và lãi số tiền phải nộp ngày cải cách của gần như tuốt tuột gia sản. Số tiền lĩnh được vừa đủ mua cái ban thờ các cụ. Ông lấy được là do vô tình còn giữ được cái giấy gốc ngày trước. Giữ không tính để đòi, để láy, mà chỉ nghĩ, giữ làm kỷ niệm.

Ông bà ngoại tôi dù bị mất tiệt gia sản sau cái vụ bị đấu tố, thì so với ông chủ tịch xã quê gốc của tôi, còn may chán. Ông bị quy là Quốc dân đảng và đem ra xử bắn.

 

Khi tròn bốn mươi tuổi, tôi mới lần đầu về bản quán, về đúng vào ngày giỗ họ của mình. Về giỗ họ, tôi gặp được bà vợ ông chủ tịch bị bắn oan năm xưa.

 

Ngay lần đầu về quê, cứ như các cụ trong họ nói, tôi nhận thấy, cần phải chép lại gia phả. Một trong những người tôi tiếp cận là bà vợ ông chủ tịch năm xưa. Cụ là bậc cao niên, vế cao trong họ, lại còn rất minh mẫn. Cụ hẹn tôi, nếu có dịp, ra tỉnh Đông, sẽ cung cấp những điều biết về dòng họ. Y hẹn, vài tháng sau, tôi đến nhà cụ. Ngoài chuyện gia tộc, câu chuyện về người chồng năm xưa được cụ kể rất nhiều. Ông là Chủ tịch Uỷ ban Kháng chiến hành chính xã, rồi bí thư chi bộ. Những năm Kháng chiến chống Pháp, ông lăn lộn với cơ sở, trung kiên bám dân, chỉ huy du kích đánh giặc. Sau hoà bình, trong cuộc Cải cách ruộng đất đợt bốn, ông bị đem ra đấu tố, bị quy là Quốc dân đảng. Khi sửa sai, ông được phục hồi danh dự, đảng tịch và truy tặng Huân chương Kháng chiến chống Pháp. Trong khi kể, cụ vạch áo đến khuỷu tay, chỉ vết sẹo dài:

- Sẹo này là bà bị trói đấy. Trói, phơi nắng suốt ngày. Lúc ấy bà đang bụng mang dạ chửa.

 

Nói rồi, cụ chỉ tay vào người phụ nữ đang nhặt rau ngoài sân:

- Đấy, ngày ấy bà đang chửa cô này. Cả tuổi mụ, năm nay cô này bốn hai rồi.

Chuyện kể rằng, lúc ông Quốc dân đảng bị dong ra bãi, ông cũng không ngờ mình bị bắn. Chỉ đến khi bị trói ghì vào cột, súng dương lên, ông mới ớ ra, ngỡ ngàng hỏi:

- Các đồng chí bắn tôi thật à?

 

Bà cụ kể: Tận lúc sắp ra bãi bắn, họ còn lừa bà, bảo ra xem họ thả chồng về. Thực ra họ lừa ra để ra xem bắn chồng mình. Đến nơi, bà thấy chồng đang bị trói ghì cánh khỉ vào cột. Nói đến đây, từ khuôn mặt răn reo của bà cụ ngoài tám mươi, dòng nước mắt rịn ra. Mấy chục năm rồi, nỗi uất hận còn ẩn ức trong con người già nua kia. Sau vụ chồng bị bắn, cụ đưa con cái rời làng, tới sống ở thị xã xa quê này.

 

Nghe người làng kể, những năm trước, cứ dịp về quê, cụ lại đi dọc đường làng, gào khóc, chửi bới những kẻ tố điêu và bắn oan chồng mình. Làng xóm chẳng thấy ai lên tiếng. Điều hay, lẽ tốt, thì mới tranh nhau, chứ cái dở, ai chường mặt ra. Năm tôi về giỗ họ, không thấy cụ đi dọc đường làng chửi bới nữa. Có lẽ cụ đã già, vết thương lòng thành sẹo. Thôi thì, chết đã chết rồi, chết gì mà chẳng là chết. Công lao, oan khuất, thì cả làng, cả xã biết.

 

Nguỵ binh bồng súng viếng

 

Ông chú phi công của tôi ở phố Gia Lâm. Có một phen ông khốn khổ với chuyện, sao ngày xưa lúc cha mất, lại có đội lính bồng súng viếng. Chắc quan hệ, hay Việt gian phản động gì chăng? Ông chú tôi phải giải trình mãi với tổ chức.

 

Chuyện là thế này: Ông bà nội tôi có bảy người con trai, một cô con gái và nuôi hai đứa cháu họ mồ côi từ tấm bé. Gia đình mở lò sũ và buôn bè ở phủ lỵ Tiên Hưng. Ông biết Nho học, thời gian rảnh rỗi, có thú tiêu khiển là đọc Tam quốc, chơi đàn bầu và lẩy Kiều. Buôn bè, mỗi năm ông độ lại ở Hà Nội dăm tháng. Sau khi bè từ suối Giút, Hoà Bình về tới Hà Nội, ông giao lại cho người làm, xuôi tiếp về phủ Tiên Hưng. Lấy cớ quan hệ, giao đãi khách khứa, ông ở lại Hà Nội. Nào giao đãi tiếp đáp gì đâu, ông đang bận... tom chát và đánh bạc ở mấy quán cô đầu nơi phố Khâm Thiên, hay mãi dưới Vọng.

 

Trong những ngày ngược xuôi buôn bán, nhất là dịp trú ngụ tại Hà Nội, ông quan hệ, giao lưu với một người tên là Chất. Khi Pháp lập tề vùng Thái Bình, ông ta được bổ làm Quận trưởng quận Tiên Hưng. Thỉnh thoảng Quận Chất đến nhà ông nội tôi chơi. Là chỗ quen biết trước đây, nhà lại có tời kéo gỗ và quen sông nước, Quận Chất nhờ ông nội tôi chỉ huy phu mấy làng, trục vợt chiếc phà bị đắm. Vất vả, lại trong nắng nóng tháng năm, ông nội tôi bị cảm, sau khoảng mười ngày thì mất. Trước khi qua đời, ông gọi vợ và con trai, tức cha tôi vào dặn, sau khi ông mất, gia đình phải dời đi nơi khác. Quận Chất biết nhà mình có con trai theo Việt Minh, nay ông còn sống, ông ta nể, bỏ qua cho. Nếu ông mất đi, thì...

Lúc đưa ma, Quận trưởng Chất điều hẳn một tiểu đội lính đến bồng súng viếng. Hồn ma ông cụ đâu ngờ rằng, đã để lại điều phiền toái cho con trai sau này.

 

Ngoài chuyện khốn khổ trên, suýt nữa ông chú tôi còn mắc vào một chuyện rắc rối khác. May mà ông rút kinh nghiệm vụ lính bồng súng viếng cha, kịp căn dặn gia đình và ông chú tôi cũng giấu nhẹm đi. Sau này qua hai vụ, ông sợ đến mức, rút ra bài học cho mình và còn mang ra dăn dạy con cháu: Chúng mày phải cẩn thận, không quan hệ, không thân thiết, không quen biết với một ai hết.

 

Câu chuyện rắc rối thứ hai là từ bà chị nuôi ở Pháp gửi thư về. Bà tên là Tâm. Theo thứ bậc gia đình, tôi phải gọi bà bằng bác. Bà nội tôi sinh người con đầu lòng được vài tháng, thì mất. Hồi ấy ở xóm có một nhà nghèo khổ, làm phu xe, vợ ra Hải Phòng làm vú em. Tấm tửng thế nào, cô vợ lại có chửa với anh Tây. Lúc sinh ra, đứa trẻ gái mũi cao, mắt xanh, tóc vàng, đúng giống Tây. Anh phu xetay vẫn chấp nhận đứa con lai. Vào một mùa thuế, nhà ấy không đủ tiền đóng suất thuế thân cho chồng, cô vợ đành sang nhà bà nội tôi, gạ bán đứa con gái. Bà nội tôi bỏ ra mấy đồng bạc mua đứa trẻ kia làm con nuôi, nuôi không phải để sau này nó xuất ngoại, gửi tiền về, mà nuôi để cho đứng đầu đứng số, đứa trẻ vẫn khi đi, khi ở nhà mình. Bà nội tôi đâu ngờ, mấy chục năm sau, suýt nữa nó thành hoạ dáng xuống nhà mình.

 

Khi ở tuổi thiếu nữ, bác nuôi tôi là cô gái đẹp nhất vùng. Đẹp đến mức, con trai ông Nghị Quảng, dịp về quê nghỉ hè, một lần nhìn thấy nàng Bạch Tuyết, đem lòng mê ngay. Dịp ấy để tránh phiền toái, bà mẹ đẻ và mẹ nuôi phải gỡ mãi, cuối cùng đành gửi cô con lai ra Hải Phòng. Nghe kể, vợ chồng nhà phu xe đều chết đói năm Ất Dậu, chỉ còn người con trai lang bạt lên Hà Nội, sau tòng quân, rồi chuyển sang ngành công an, phong thanh lên đến hàm thiếu tá, công tác ở một quận thuộc Hà Nội. Nếu nay còn sống, ông ta cũng tuổi ngoài tám mươi rồi.

 

Khi Pháp gây hấn, bác Tâm đã có chồng, bồng bế con chạy giặc từ Hải Phòng về tá túc ở nhà mẹ nuôi. Bác có ba mặt con, nhưng mỗi đứa một vẻ, đứa giống Tây trắng; đứa giống Tây đen; đứa nâu nâu giống người Ấn Độ. Là giống người lai, sống ở thị thành, nhưng bác Tâm rất đảm đang việc nông tang, sàng gạo, ươm tằm, ươm tơ, bác làm được hết. Chỉ phải cái tính chất Tây là bà bác không sao gột rửa được. Giữa một vùng quê chiến tranh loạn lạc, chiều chiều, cô đầm lai đánh cái panh-sơ-lây, chơi thể thao bơi lội dọc sông.

 

Ở một thời gian, chiến tranh vùng phủ Tiên Hưng diễn ra ác liệt, Tây càn suốt, bác Tâm đành bồng bế con trở lại Hải Phòng. Trước ngày Hoà bình năm tư, nghe đồn, bác lấy một ông Tây - người Pháp, rồi bác theo chồng về đất trời Âu. Bất ngờ vào quãng năm năm tám, có ông cán bộ trên huyện cầm lá thư, đến hỏi bà nội tôi rằng, có quan hệ thế nào với người Tây tên là Tâm. Nhớ kỳ Cải cách ruộng đất, bà nội tôi nhanh trí, cãi phắt. Bà bảo, không quen biết, không biết gì với cái người trong thư kia. Thật hú vía!

 

Lúc đó ai cũng bảo và nhất là ông chú phi công, bà nội tôi xử lý thật sáng suốt. Bây giờ thì có người tiếc đấy. Chính tôi cũng tiếc. Giá mà biết địa chỉ bác Tâm, liên hệ sang, bà bác nuôi gửi về cho vài trăm nghìn đô, cả họ thoải mái tiêu. Tiếc thì tiếc, song nếu nay bà Tâm tôi nay còn sống, cũng ngót nghét tuổi chín mươi rồi. Tôi đành an ủi, già như vậy, lấy đâu ra tiền, khéo lại đang lụ khụ trong viện dưỡng lão. Bà ấy mà quay về nước, lại đem theo lũ cháu chắt Tây, cả họ phải nuôi thì khốn. Thôi chả tiếc nữa! Chả liên hệ gì với bà bác Tây lai nữa.

 

Cảm tử quân làm kinh tế

 

Hồi tôi đang lay hoay tìm việc ở Hà Nội. Thấy thằng cháu đang trong tình cảnh khó khăn, ông chú ruột phi công định tạo thêm thu nhập, việc làm cho thằng cháu, ông bảo:

- Chiều chiều, mày sang bên chú. Cứ cái túi nhỏ, xách mươi vỉ thuốc, về bên Hà Nội ấy mà đổ. Chấp mấy thằng phòng thuế, công an gác cầu Long Biên, đố biết.

 

Ông chú tôi nhiệt tình với anh em, con cháu, nhất là sự học. Năm năm ba từ đơn vị, ông cùng cha tôi, đưa hai em ruột và người em vượt mấy trăm cây số, qua bao đồn bốt giặc, đến vùng tự do của ta tại xứ Thanh học văn hoá. Ông chú áp út mới mười tuổi, mà chui lủi, đi từng ấy cây số, giỏi thật. Kỷ niệm đói ngày đi học đó, ám ảnh một ông chú khác của tôi mãi. Ông kể, nhớ nhất món rễ khoai lang, luộc lên, rồi sát vào rá để hứng thứ nước bột sền sệt, ăn. Cũng chuyên đi này, ông chú phi công bảo, nhớ nhất cảnh giảm tô ở Thanh Hoá, người ta mang ông già ra vặt trụi râu.

Về nhã ý của ông chú phi công giúp thằng cháu buôn thuốc tây, tôi không nỡ từ chối, chỉ ậm ừ. Tôi đem tham khảo ý kiến ông chú hiệu trưởng. Tham khảo là tham khảo, tôi biết chắc, ông này sẽ phản đối. Như vậy tôi có cớ để từ chối. Y rằng, vừa mới đưa ra, ông té tát cho một chặp:

- Học thì không học, làm thì không làm, lại nghe ông ấy đi buôn. Thôi, ông ấy buôn, mặc xác ông ấy. Tao cấm! Mày mà buôn lậu, tao từ.

 

Tôi không buôn, nhưng vợ ông chú hiệu trưởng lại bí mật buôn lậu thuốc tây. Bà giấu chồng, vào cữ tan tầm, đạp xe sang Gia Lâm, xách túi thuốc về rải ở mấy cửa hàng bên Hà Nội. Không có những chuyến buôn ấy, nhà lấy gì mà ăn? Ông thì suốt tuần cắm cúi vào công việc ở trường, chỉ đảo qua nhà ngày Chủ nhật. Có dạo bà thím nuôi con lợn, được một, hai tháng, con lợn chừng ba mươi cân, lăn đùng ra chết. Bà vợ tiếc của, khóc sưng húp mắt.

 

Thở phào nhẹ nhõm vì ý kiến của ông chú hiệu trưởng không cho tôi buôn lậu và tôi có cớ để từ chối ông chú phi công. Trong thâm tâm, tôi thực có muốn đi buôn lậu đâu. Tôi hứa, không bao giờ dây vào cái khoản buôn bán cả.

 

Hằng tuần, ông chú phi công có vài chuyến bay vào Tân Sơn Nhất. Ngoài nhiệm vụ quốc phòng, ông còn kiêm thêm việc buôn hàng cấm, có khi chuyển thuê cả tiền. Rất lạ rằng, ông vốn là người có tác phong quân sự, sống giản tiện, ngày bé ham chơi, chẳng chú ý đến việc buôn bán, làm ăn của gia đình, nay lại thành ông buôn lậu và khá thích tính tiền.

 

Khi nghỉ hưu, ông hay hỏi thằng cháu là tôi, thu nhập mỗi tháng được bao nhiêu, lương bổng thế nào,… Tiếp đó ông thông báo về lãi suất ngân hàng đang áp dụng và tính toán số tiền lãi ông được hưởng tháng đó. Buồn cười rằng, ông tính tiền lãi sẽ hưởng trong năm năm, mười năm tới, cứ y như tính cua trong lỗ. Nghe bài toán lãi suất  nhà băng của ông, có lần tôi đùa:

- Với số tiền gốc gửi hiện nay, mười năm nữa, chắc chú giàu lắm! Nhưng chú ơi, nếu ngân hàng họ nâng lãi suất lên, chú tính tới khoản này chưa?

Nghe thằng cháu nói vậy, ông chú tôi nghệt mặt ra:

- Ừ nhỉ! Sao tao chưa tính tới nhỉ.

 

Và ông sung sướng như bắt được vàng. Nhờ thằng cháu mà ông phát hiện ra khoản lãi lớn sẽ có. Vội vàng ông lấy bàn tính, giấy bút, tính tính toán toán. Nhìn vẻ hớn hở của ông, tôi đâm băn khoăn. Một người từng bao lần vào sinh ra tử, chỉ vì khoản tiền lãi giả định của thằng cháu, mà sung sướng vậy sao? Đồng tiền có sức mạnh thật đấy.

 

Đang trong thời kỳ căng thẳng của cuộc kháng chiến chống Pháp, ba anh em ông, gồm cha tôi là anh lớn, ông và người em trai, dắt díu nhau vượt sông Hồng tòng quân đánh giặc. Không rõ vì lý do gì, cha tôi và chú em quay lại, chỉ có ông vượt thoát. Ông an toàn qua cuộc Kháng chiến chín năm. Bao lần xông pha, bom rơi đạn lạc, ông chỉ bị mỗi viên đạn bắt xướt mông, làm đổ tý máu. Do có sức khoẻ, ông được tuyển vào không quân và được đào tạo tận Trung Quốc. Về Trung Quốc, ông còn nhiều lần bay tới quốc gia này. Ông kể, từng chứng kiến Cách mạng văn hoá. Trên đường phố Thượng Hải, nhưng dãy cột treo người. Người sống bị treo cứ kiễng kiễng chân. Không kiễng thì thòng lọng thít cổ, kiễng thì mỏi chân. Muốn chết song thòng lọng quá thấp, không tự tử được. Sống không nổi, chết không xong.

 

Tết Mậu Thân, để phối hợp với lực lượng nổi dậy, không quân Việt Nam tổ chức đợt không kích vào một số cứ điểm ở thành phố Huế và tiếp tế cho bộ đội ta ở khu vực xung quanh. Ông là một trong những quân nhân được tuyển lựa trong nhóm cảm tử quân đó. Hỏi tại sao có tấm ảnh ông và đồng đội treo tại bảo tàng ngành, ông giải thích:

 

Máy bay được dùng là loại vận tải, cải tiến thành máy bay tấn công. Lực lượng chuẩn bị gồm sáu tổ, với ba mươi sỹ quan, chiến sỹ, mỗi tổ năm người trên một máy bay, chưa kể lính nhảy dù. Máy bay cất cánh từ sân bay Gia Lâm vào lúc chiều muộn. Để bảo đảm bí mật, khi cất cánh, ta chỉ dùng pháo hiệu, không dùng điện đài. Đưa máy bay cánh quạt vào sào huyệt địch ở cự ly năm trăm cây số, không có ra đa dẫn đường và đài chỉ huy dưới đất, chưa kể tàu sân bay của Mỹ, hệ thống ra đa rà soát cực mạnh, cùng hệ thống phòng không của địch dưới đất, là nhiệm vụ cực kỳ nguy hiểm.

 

Trước khi lên máy bay, đơn vị tổ chức nghi thức mặc niệm, đọc lời thề cảm tử và chụp hình lưu niệm. Chuyến đầu tiên, cả sáu tổ đều xuất kích. Điểm tập kích là đồn Mang Cá. Xác định xong mục tiêu, máy bay của ông chúc xuống đến độ cao bốn trăm mét, thì cắt bom. Lần tấn công thứ hai, chúc xuống đến độ cao hai trăm mét, mới cắt bom. Bay trong vùng địch, nhất là lúc lao xuống tấn công, đạn địch ở dưới bắn lên dữ dội. Trên đường trở về, máy bay ta là là bay, không bật đèn. Chú tôi còn nhìn thấy đèn của máy bay địch trên cao đang săn đuổi. Hôm đó bốn máy bay trở về sân bay Gia Lâm an toàn, một chiếc phải hạ cánh bắt buộc xuống Thọ Xuân, còn một chiếc hy sinh.

 

Ta lại tổ đợt chuyến xuất kích thứ hai, gồm một máy bay. Ông chú tôi tham gia chuyến này. Khi ném bom xong, máy bay quay ra. Do máy bay ta tốc độ chậm, chỉ hơn ba trăm cây, còn máy bay giặc tốc độ gấp rưỡi, chúng rượt đuổi tới tận Phủ Lý. Nhờ máy bay MIC của ta lên trợ chiến, ta mới hạ cánh an toàn xuống Gia Lâm. Tối tiếp nữa có ba máy bay xuất kích. Hôm ấy không chiếc nào quya về.

 

Sau đó ông chú tôi được phân công bay tiếp. Đến lần này, ông phản đối. Lý lẽ đưa ra: “Không phải tôi thoái thác nhiệm vụ. Tôi tham gia lần bay thứ hai rồi. Bây giờ, cứ luân phiên hết lượt, tôi sẽ bay tiếp. Chẳng còn đến lần thứ ba, máy bay và phi công ta đã vãn. Sau chiến dịch, ông được nhận Huân chương Quân công.

 

Nhân nhắc tới sỹ quan chính trị, ông bình phẩm: Lúc bình thường, thì mấy ông chính trị suốt ngày lên lớp về lòng yêu nước, sự hy sinh, tinh thần chiến đấu, nhưng vào những ngày đoàn bay bị thiệt hại nặng nề, trước lúc xuất kích, chẳng thấy bóng vía ông nào ra động viên anh em nữa. Họ sợ, anh em mà choảng cho một câu, các ông có xuất kích đâu và máy bay còn rộng, họ lại lôi tuột lên, để trên ấy mà động viên, thì khốn. Vì không có ai ra động viên, có lần ông chú tôi là dân kỹ thuật, phải đứng ra động viên anh em. Ông thì được, bởi chính ông từng tham gia bay rồi.

 

Sau này nước ngoài có dư luận, không có hoạt động chi viện của không quân Bắc Việt năm Mậu Thân. Máy bay Bắc Việt lạc hậu, tốc độ chậm, làm sao có thể hoạt động được trong vùng kiểm soát của lực lượng không quân Hoa Kỳ. Dịp ấy tuyệt đối bí mật, nay bằng chứng lấy ở đâu? Ông chú tôi, một thành viên từng tham gia, giờ đã mất rồi. Giá mà hồi ấy, tôi dùng cái máy cát sét ghi lại lời ông, đem ra làm bằng, thì họ cứng lưỡi.

 

Dịp vào Huế, tôi hay thẩn thơ ở khu vực đồn Mang Cá, địa danh mà ông chú tôi kể. Tôi cứ hy vọng, biết đâu đấy, sẽ tìm thấy một cái biển, trên đề: Năm Mậu Thân, Không quân Việt Nam từng chiến đấu tại vùng trời nơi đây. Tôi chẳng tìm thấy đâu. Có lẽ không ai biết, hay biết, nhưng lâu quá, quên hết rồi chăng?

 

Cũng về ông chú phi công, có chuyện liên quan tới ông đại tá nhà báo nổi tiếng. Năm đó, báo Hà Nội họp cộng tác viên. Sau cuộc gặp mặt, ở sân toà soạn, tôi chào bậc nhà báo cha chú:

- Chào chú! Cháu là phóng viên Đài. Cháu vừa đọc trên báo nội dung cuộc phỏng vấn của chú với phi công họ Nguyễn . Ông ấy là chú ruột cháu đấy. Thay mặt gia đình, cháu xin trân trọng cảm ơn chú!

Nhà báo đại tá ta cảm động quá, nắm tay tôi, lắc lắc:

- Thế à! Cậu là cháu ruột ông ấy?

- Vâng ạ! Nhưng thưa chú, … ông ấy cấm khẩu, liệt giường gần một năm và mất lâu lắm rồi ạ!

 

Phản động thì sao

 

Ông bà nội tôi có ba con người trai tham gia chống Pháp và đánh Mỹ. Trong hai người con trai chống Pháp, ông chú nhập ngũ sau, một lần từ chợ Hưng nhắn tin về nhà. Khi bà nội tôi tới nơi, thì đơn vị hành quân đi mất rồi. Bốn người trong làng nhập ngũ cùng lứa, chỉ một trở về, ba người biệt tăm. Sau có tin đồn, họ đã hy sinh. Bà nội tôi vẫn hy vọng...

 

Hoà bình năm tư không thấy chú tôi về. Mọi người trong nhà nghĩ, hay ông vào Nam đánh Mỹ. Có lúc sốt ruột, bà nội tôi sai các con lên xã, lên huyện hỏi, chính quyền trả lời, chưa rõ. Đợi mãi, bà lại giục thư từ lên trung ương,... không thấy hồi âm. Hỏi mãi, hỏi nhiều quá, có lần đích thân bà tôi đi hỏi, một ông chính quyền giải thích: Bây giờ chưa rõ con bà thế nào. Phải thận trọng! Nếu không, công nhận con bà là liệt sỹ, nhỡ ra sau này, anh ta phản động, theo địch thì sao?

 

Uất quá, bà nội tôi quát thẳng vào cái mặt cái nhà ông cán bộ kia: Ông bảo con tôi theo giặc à? Ông kia hoảng quá, lỉnh mất. Về nhà, cụ vẫn còn tức. Con trai mình tòng quân đánh giặc, cả làng, cả xã biết, thế mà người ta bảo, phản động. Giải phóng miền Nam bảy lăm, vẫn không thấy chú tôi về. Mãi sau này, ông mới được công nhận là liệt sỹ. Lúc này thì bà nội tôi già quá mất rồi. Một lần tôi về thăm, bà cười, chỉ cái Bảng vàng và khoe với thằng cháu: Nhà mình được ông Uỷ ban cho cái giấy, đẹp lắm. Để trên bàn thờ kia kìa. Mày lại mà xem. Nhớ thắp nén nhang cho chú mày nhá! Bà ơi! Đấy là Bảng vàng Tổ quốc ghi công chú cháu, một núm ruột của bà, đâu phải tờ giấy đẹp. Bà tôi già quá, lẫn thẩn mất rồi chăng, hay trông chờ quá lâu, nỗi đau không còn nữa?

 

Học xong lớp bảy, ông chú út tôi tình nguyện tòng quân đánh Mỹ. Nhà có hai anh trai nhập ngũ, ông thuộc diện được miễn nghĩa vụ quân sự. Những năm chiến tranh ác liệt, thỉnh thoảng nhà nhận được thư ông từ chiến trận gửi về. Là học sinh giỏi văn, những lá thư thấm đẫm nước mắt thương nhớ mẹ già, nhớ thương quê hương. Sau Ngày giải phóng bảy lăm, cả nhà vui mừng đón ông về thăm. Rồi ông về lần thứ hai, kịp xây dựng gia đình và để lại cho cô vợ trẻ đứa con trai.

Lúc chú út về, bà nội tôi chẳng tỏ rõ mừng vui, hay dửng dưng. Chờ đợi lâu quá chăng, hay những thăng trầm của cuộc đời, bà chẳng còn gì để hớn hở nữa? Những ngày về phép lần hai, chú tôi tụ tập ở đâu ra rất đông bạn bè, toàn những đồng đội vào sống ra chết ở chiến trường miền Nam. Đồng đội kể với giọng thán phục về ông: Lăn lộn khắp chiến trường miền Tây, miền Đông, ông là người gan dạ, đánh trận lỳ lắm.... Có gan dạ, ngoan cường, chú tôi mới được kết nạp Đảng ngay nơi trận mạc, mới được phụ trách trinh sát trung đoàn, như dòng chữ ghi trong giấy giới thiệu nghỉ phép của ông.

Một tuần, hai tuần,… nhà bà nội tôi vẫn thấy đồng đội của chú tôi tụ tập. Nhà có con lợn giết thịt ăn mừng, rồi đàn gà giết sạch, gạo trong thùng xúc đến hạt cuối cùng, vẫn tiếp tục đông khách. Đồng đội của ông vẫn hồn nhiên tụ tập. Chỉ thấy họ về nhà vài hôm, rồi lại đến. Trong một bữa, khi mở lồng bàn ra, nhìn có đĩa rau và mấy bát khoai tây nấu xuông, chú út tôi thì thầm hỏi bà chị, cơm đãi khách có thế này sao, bà chị thấp giọng:

- Nhà hết sạch gạo rồi. Phải bỏ khoai tây giống từ giàn xuống đấy!

 

Đến nước này ư? Chú tôi tưởng chỉ mấy nhà đồng đội gặp cảnh khó khăn, phải tá túc ở đây, đến nhà mình, dân buôn bán, cũng rơi vào cảnh này sao. Chú tôi đành xa xôi với đồng đội. Cuối cùng, họ hẹn gặp nhau trong ngày trở lại đơn vị.

 

Ta lại có giặc phía Tây Nam, những người lính như chú tôi đất nước đang cần, tiếp tục cầm súng đánh giặc. Tin về ông thỉnh thoảng vọng về quê, ông tham gia lực lượng quân quản ở Phnom Penh, ông trong tiểu đoàn bảo vệ tuyến đường từ thủ đô nước bạn về biên giới Tây Ninh,... Rồi chiến tranh Tây Nam tạm yên, không thấy ông về. Ông sợ cảnh đói ở quê, không về ư? Tin về ông ngắt quãng. Hình như ông buôn bán ở TP. Hồ Chí Minh; hình như ông buôn bán ở Phnom  Penh; hình như… Cứ vài năm, bà vợ ở quê lại nhận được một bức thư thấm đẫm tình cảm nhớ thương của chồng.

 

Người vợ quê, có chồng mà như không. Hơn chục năm trời thân nữ thui thủi nuôi con, bà không chính chuyên được nữa, tự mình sinh ra đứa con gái. Chồng mãi không về, vừa kiếm được đứa con, thì thấy chồng về, về bất chợt như ngày ông đi. Hoàn cảnh trớ trêu! Ông về mà không ruồng rẫy vợ con, còn lũi cũi đưa cái gia đình phức tạp ấy vào Nam, đến vùng đất biên giới tỉnh Đồng Tháp. Anh em đồng đội và những cơ sở chiến trường xưa cưu mang, họ dựng giúp gia đình ông túp nửa lều, nửa nhà, nằm ngấp nghé bên con rạch. Ông sống và nuôi gia đình bằng nghề làm thuê chăn vịt thả đồng và phá hoang ở vùng Đồng Tháp Mười đất phèn thẳng cánh cò bay.

 

Bao năm chinh chiến vùng miền Tây, sống cùng dân Nam bộ, tính cách Anh Hai thấm đậm vào ông, cứ ngang tàng sống. Không hộ khẩu, không giấy chứng minh, ông và vợ con thành những công dân tự do, vô thừa nhận của xã hội. Mọi người gọi ông là Bảy Búa, Bảy Phá, Bảy… Rồi có tin ông bệnh nặng. Anh trai tôi sống ở thành phố Hồ Chí Minh, cưỡi xe máy quãng đường hơn năm trăm cây số xuống thăm ông. Người ông nhỏ thó, chỉ có cái bụng kềnh càng. Thấy bảo, gan bị báng. Nghèo túng, không tiền đi viện, vợ con chỉ còn cách đưa ông vào một nhà thờ trong vùng. Ở đây, có khoản chữa bệnh bố thí cho kẻ khó. Rồi ông nhập đạo. Trước lúc mất, ông được nhà thờ làm lễ rửa tội. Ông về nước Chúa năm Quý Dậu. Sau này hài cốt được đưa về táng ở một xứ đạo vùng Biên Hoà, trên nấm mồ có cây thập ác.

Thôi, cũng chút nào an ủi một kiếp người ngang dọc. Bao ước mơ, chí hướng, giờ được che chở bình an trong vòng tay của Chúa.

 

Ngõ quê

 

Ngày bé, cứ dịp Tết hay hè tôi náo nức về quê, tức nhà bà nội tôi. Tôi háo hức nhất khoản tiền bà mừng tuổi, mỗi năm, mỗi đứa cháu được một đồng, chị em tôi đem bỏ ống nứa tiết kiệm. Nhà tôi cả nhà năm người, chỉ một cái xe đạp, mà đèo bồng nhau trên quãng đường ngót bốn chục cây số về quê nội. Do mệt quá, một lần bố mẹ tôi phải gửi con gái cả cho người đi xe cùng đường đèo giúp. Lần ấy, bố mẹ tôi tưởng mất cô con gái.

 

Ngõ xóm quanh co trước nhà bà nội là nơi tôi cùng lũ trẻ ẩn tìm, trèo rào, víu cây và bao trò chơi khác. Ngõ hẹp và sâu hút. Đường gạch vỉa nghiêng nghiêng. Hai bên chỗ tường đất, chỗ bờ rào duối rậm rịt, hay dải cúc tần hăng hắc. Có nhà lại trồng râm bụt, thấp thoáng những bông hoa đỏ chót. Về làng, từ xa tôi đã thấy cây gạo bóng cao vút, đỏ ối hoa. Làng có câu:

 

Đầu làng cây gạo

Cuối làng cây đa

Con gái làng ta

Như hoa thiên lý.

 

Từ đường cái vào làng có hai trụ gạch sừng sững, người ta gọi ấy là cổng làng. Bà tôi bảo, trước cổng làng to lắm, có mái, phía trên đắp nổi mấy chữ Nho, nay cổng làng sót lại là hai cái trụ gạch. Cổng làng có cánh cửa lim to dày, đêm đêm đóng lại phòng cướp. Tôi ngây thơ hỏi: Đóng cổng lại kẻ cướp vòng qua bên cạnh vào làng thì sao - đấy là cánh đồng và những bờ rào lúp xúp sát ngay bên trụ gạch.

 

Bà cười bảo: Ngày trước, làng không trống tềnh, trống toàng như bây giờ, mà có luỹ tre dày trồng trên bờ đất bao quanh, đến đạn Tây bắn còn không xuyên nổi. Tôi không hình dung được luỹ tre và bờ đất dày đến cỡ nào mà đạn cối Tây bắn không qua, nên cứ ngạc nhiên mãi cái cổng làng phòng cướp...

 

Cổng làng như vậy, nhưng cổng của ngõ xóm nhà bà nội tôi lại còn khá nguyên vẹn. Cổng tường xây dày đến ba, bốn mươi phân. Trên là vòm khum  cong cong, phía trên nhìn thấy mấy chữ Nho đắp nổi, to bằng cái bát ô tô. Chỉ còn mấy cụ cao niên trong làng là đọc được. Đấy là chữ ghi lại năm xây dựng cổng. Nghe nói xây từ đời vua Tự Đức. Đôi cánh cổng lim dày, vẫn còn đóng ra khép vào được. Lớp gạch hai bên bị xe cải tiến va quệt và trâu, bò qua lại gõ sừng, làm vẹt lõm, trơ ra mạch vữa và những hàng gạch mỏng quẹt.

 

Người ta bảo, ngày trước vữa xây bằng mật mía, muối và vôi cát đánh nhuyễn, còn gạch dùng rơm rạ đốt. Tôi cứ phân vân, cổng ngõ to lớn thế, phải tốn nhiều mật mía để xây và rơm rạ đốt gạch lắm. Thảo nào, bao năm mạch vữa còn gắn kết, gạch thì không phồng, mà mỏng đều và bền một màu gan gà, trơ trơ trước thời gian, cùng mưa nắng.

Làng đường đất, duy nhất con đường ngõ nhà bà nội tôi là vỉa gạch nghiêng nghiêng. Quãng giữa ngõ, có cái bệ thờ. Không hiểu sao tôi lại nhớ như in cái bệ thờ đó. Nó bé nhỏ, khiêm nhường, không mái, hơi lùi bên khúc tường đất. Bát hương trong bệ thờ bao giờ cũng có cụm chân nhang, cái thì màu phẩm đỏ tươi, cái lâu ngày xỉn thẫm. Bà tôi gọi là ban thờ hậu và kể:

 

Trước ở làng có những người mua hậu - tức là nộp tiền, hiến ruộng cho làng, cho chùa, cho… để làm một công trình nào đó. Thường là những nhà ấy không có con giai. Mua hậu, sau này họ mất đi, được những nơi mua hậu hương khói, cúng giỗ. Trước tiên họ phải bỏ một số tiền nộp lệ cho làng, hay cho chùa, cho họ làm công trình, sau đó hiến một số tiền hay ruộng để lấy hoa lợi cúng giỗ. Hậu có hậu làng, hậu xóm, hậu chùa, hậu ngõ,… Ngõ nhà bà nội tôi trước có gia đình không con cái, ông bà mua hậu ở chùa, ở đình và còn mua hậu ngõ con đường gạch.

 

Chuyện mua hậu con đường gạch của gia đình ấy mất rất nhiều công của và cũng cầu kỳ, phải bao lần lên xuống, làng và dân xóm mới đồng ý. Chỉ riêng khâu cuối cùng là việc xây dựng đã rất nhiêu khê. Gạch đặt trước, rồi chọn thửa từng viên, xem xét mãi qua mấy ông thầy, mới được ngày, giờ tốt khởi công. Việc thi công rất kỹ càng. Trước hết người ta san phẳng phiu nền ngõ, rồi trải một lớp ba ta vữa, sau lát một lớp gạch nằm, tiếp đó lại một lớp ba ta vữa nữa và trên cùng vỉa lớp gạch nghiêng. Công trình cẩn thận như vậy, lại chỉ độc người đi bộ, cùng trâu, bò, chứ không công nông, xe máy như bây giờ, nên trải qua mấy mươi năm, nó vẫn tốt nguyên. Thế nên sau khi ông bà già mua hậu mất, đã thành lệ, hàng năm vào lúc trước giao thừa, cúng thổ công, cúng gia tiên, dân ngõ ra bệ thờ dâng đĩa hoa, thắp nén hương, khấn người mua hậu ngõ con đường.

 

Tuổi thơ, mỗi dịp về quê, đi qua bệ thờ, tôi thấy sờ sợ, nhưng vẫn lấm lét nhìn vào, rồi rảo cẳng bước nhanh. Tôi cứ tưởng tượng ấy là nơi ma quỷ trú ngụ. Sau này lớn về quê, nhớ chuyện xưa, qua bệ thờ, tôi lại bâng khuâng nghĩ về tuổi thơ, dừng lại thành kính thắp nén nhang, cúi đầu lầm rầm khấn tiền nhân. Nhìn làn hương mong manh, mà nghĩ về thời gian trôi, nghĩ về một tập tục, nét văn hoá chốn quê.

 

Giờ quê bà nội tôi đường làng mở rộng, đổ bê tông. Con đường ngõ nhà bà nội tôi cũng bê tông phẳng phiu. Nền đường tôn cao, làm cổng ngõ thấp xuống, vướng chắn tầm cao người qua lại, nên nó bị dỡ bỏ. Còn gạch vỉa đường, trước nhà nào, nhà ấy khuân về, mỗi nhà được dăm chục, một trăm viên. Khuân về, nhưng ít ai biết gạch ấy nguồn gốc do đâu. Bà nội tôi sai xếp thành đống ngay ngắn trong sân và bà lại kể câu chuyện mua hậu con đường xưa...

Bà nội tôi nay cũng theo ông, bà già mua hậu ngõ, về nơi chín suối.

 

Trước hai bên ngõ là bờ duối, hay rặng cúc tần, râm bụt, người ta còn để đất rộng, nay tường gạch, nên nhà nào nhà nấy đều xây hết đất. Tường cao vượt cả tầm nhìn. Nhà nào cũng một cổng xây, cánh cửa sắt ra vào tiếng đẩy ken két.

Đâu rồi giậu râm bụt điểm hoa phớt đỏ, bờ duối lấm tấm quả vàng. Bâng khuâng tôi dõi tìm bệ thờ hậu xưa, mà không rõ là đâu.

 

Ghen với ma

 

Bà nội tôi đông anh em, có tới ông em thứ mười một. Bà em áp út xinh xẻo, lại có tiền. Bà này tính khí cành cao, bắc bậc. Lúc tuổi xuân, bà vắt vẻo, mãi chả ưng ai, tý nữa thành gái già. May mà bà còn vớ được ông chồng. Chỉ tội lấy được vài ba năm, ông chồng vội vã ra đi. Bà đành bước đi bước nữa, làm lẽ nhà người. Là tính khí rồi, dù cảnh lẽ mọn, bà vẫn bắc bậc. Có lẽ cũng vì bắc bậc, mà bà goá đến bận thứ hai.

 

Ông chồng mà bà làm lẽ thuộc hàng danh giá, cụ Chánh. Ngày cưới của bà, tuy không đến mức năm, bảy cái lọng đón dâu, như bà thách trước đây, nhưng vẫn diệu vợi và xôm trò lắm. Lấy chánh tổng, bà nghiễm nhiên thành cụ chánh bà. Chuyện thành bà goá lần hai cũng rất ly kỳ. Làm lẽ, mà bà chả chịu phận lẽ, vẫn cứ tai ngược, đành hanh, định át cả người. Vớ phải bà chánh cả không phải tay vừa. Vậy là nhà cửa không lúc nào yên. Lúc tiếng bấc của bà cả, lúc tiếng chì của bà hai, cụ Chánh ông không sao chịu nổi. Giải pháp cụ chánh ông áp dụng là sau một trận khẩu chiến chí chết của hai bà, cụ chánh ông đem luôn của quý của mình ra... xẻo. Người nhà vội võng cụ ông ra nhà thương tỉnh lỵ Hưng Yên. Tới nơi, cái chăn bông lót cho cụ nằm, máu ướt dầm dề. Rất may, vết cắt nhẹ tay, đốc tờ còn cứu kịp.

 

Tưởng đã xong, các bà từ rày chừa, đố ai dám ghen tuông nhau nữa. Thế mà hai bà vẫn chưa chừa, vẫn tiếp tục tiếng bấc tiếng chì. Đến nước này, dù trong thời kỳ dưỡng thương, không còn chịu nổi, cụ Chánh ông nghiến răng, cắt tiệt của quý của mình đi. Lần này, chẳng đốc tờ nào cứu vãn được nữa. Từ ấy, hai bà cụ chánh thành hai bà cụ chánh goá.

 

Đã bảo tính bà bắc bậc, không chỉ với bà cả, với cụ chánh ông, mà đến người con gái duy nhất do mình sinh ra, bà cũng không khoan nhượng. Năm ấy, vào quãng đầu năm sáu mươi, bà đã chuyển ra sống ở thị xã tỉnh Đông. Lúc này bà tuổi ngoài năm mươi. Do mẹ con xích mích gì đó, bà làm đơn ra toà từ con. Đây là phiên xử đặc biệt của toà án thị xã, mẹ từ con. Dù không muốn, toà vẫn phải xử. Trong phiên toà, con gái khóc hết nước mắt, bà vẫn không tha. Sau khi từ con, bà rời đến sống ở một phố thị cuối tỉnh, giáp đất Hải Phòng. Nhiều năm sau, người con gái này mấy đận đến xin mẹ. Đúng thủ tục, bà mời vài người họ hàng đến chứng kiến và ra vườn, vặt tàu lá chuối, đem vào lót tay, dắt cô con gái ra khỏi nhà.

Mỗi người một tính, một phận. Khi nhắm mắt, bà có của, chỉ tội chết trong cô quạnh. Chắc bà có số trời hành.

 

Bà nội tôi có số hầu Thánh, không còn đền miếu nào quanh vùng là không tới. Tại nhà, bà lập hẳn ngôi điện và bao một ban cung văn. Ngoài hầu đồng ở đền nọ miếu kia, hàng tháng bà còn tổ chức một buổi hầu Thánh tại gia. Nhà đông con, nhiều cháu, với điện thờ ấy, chỉ những đứa con trai, cháu trai nào chưa vợ, bà mới cho phép vào thắp hương Thánh. Cái tính thích hầu đồng của bà, không ai ngăn cản được, kể cả ông nội tôi. Mà nhà lắm tiền, nhiều của thế, không hầu bóng, thì còn trò giải trí gì? Ông nội tôi nửa đùa, nửa thật: Thôi, nhờ hầu đồng, mỗi tháng, cả nhà có bữa cỗ. Bà tôi thích nhảy đồng, chắc như mấy bà hiện nay đi nhảy đầm cho nó khoẻ và giữ eo ấy.

 

Ban cung văn nhờ điện thờ của bà và cùng bà đi hầu hết đền nọ miếu kia, cũng kiếm được. Có chuyện vui rằng, vào một đêm hầu, trước đó buổi chiều, nhà tưng bừng bữa cỗ cúng rượu thịt. Mấy ông chú tôi lúc đó còn trẻ, âm mưu trước, bày ra một trò, bí mật hái lá thị, thái ra phơi, rồi trộn vào thuốc lào. Sau bữa rượu thịt thoả thuê, mấy ông cung văn quây quần quanh chiếu nước, rít thuốc lào xòng xọc. Có ông bảo, thuốc sao nhàn nhạt, ngai ngái. Chê thì chê, mỗi ông cũng làm dăm điếu.

Giờ hầu Thánh tới, giá hầu Cô Bé Thượng Ngàn:

Cô Bé về đồng

Cô chít khăn xanh

Cô bận áo lục

 

Bà nội tôi khăn chầu áo ngự, múa lượn trước ban thờ. Mấy ông ban cung văn đàn hát hăng hái. Tiếng đàn thánh thót, tiếng hát bổng trầm. Trong lúc bà đồng thánh nhập, nhảy tênh tếch, thì mấy con nhang để tử, các bạn đồng ngồi gần các ông cung văn cứ giãn, giãn ra. Ánh mắt họ nhìn cánh cung văn khang khác. Dù hương khói thơm ngát, vẫn không át được mùi thoang thoảng... thối. Ai đó để ý, còn thỉnh thoảng nghe tiếng  sấm dậy trời Nam... Chỉ đến khi có tiếng bủm rõ to, đám trẻ không nhịn được, phá lên cười, chạy tán loạn ra sân, cánh cung văn ngừng đàn đánh khự. Bà nội tôi đang lúc thánh nhập dở, cũng phải chừng mắt, nhìn quanh. Cảnh ấy làm hai người hầu dâng đâm luống cuống.

 

Bận ấy bà nội tôi tra tìm, rồi biết được nguyên nhân, từ đấy, cấm tiệt đám trẻ con không được mon men vào những đêm hầu thánh nữa. Cái điện thờ và tính thích hầu bóng của bà nội tôi còn kéo dài mãi tới năm bốn chín, thì bị giặc Tây đốt trụi. Từ đấy, tuyệt không thấy bà nhắc tới việc hầu bóng, nhảy đồng nữa. Ngay dịp giỗ chạp, cũng tịnh không bao giờ thấy bà thắp hương, khấn vái, nhưng lệ chọn người khấn lễ, bà vẫn giữ, chỉ những đứa cháu trai tân, chưa vợ, bà mới cho phép vào khấn khứa các cụ.

 

Mê hầu đồng, nhưng bà nội tôi tính không đồng bóng, mà cương cường, hầu như chả biết sợ hãi ai. Dịp Cải cách ruộng đất, xóm làng náo loạn, nhà nhà thin thít co mình lại. Thái Bình là tỉnh thực hiện cải cách quyết liệt nhất. Nhà bà nội tôi thuộc loại có máu mặt, có của ăn của để, trước đây nhà lúc nào cũng hàng chục người làm. Riêng về khoản ruộng vườn, đến Năm cải cách, nhà chỉ còn mấy sào. Cuối những năm ba mươi, một trận bão lũ cướp sạch gỗ nứa, bè mảng của gia đình. Vài năm tiếp đó, ông nội tôi vướng phải mấy vụ kinh doanh thua lỗ. Chán nản, ông sa vào cờ bạc. Bao nhiêu ruộng vườn, các trận đỏ đen, ông nướng sạch. Đến khi Cải cách, hoá ra may.

 

Dịp Cải cách ruộng đất, cứ tối tối dân làng tập trung đi họp. Đêm đêm xóm làng vắng teo. Ai có việc gì thật cần thiết mới ló ra đường. Có chăng, đường làng chỉ còn mấy ông đội, hay đám xâu, rễ, lảng vảng đi thăm dò, nhòm ngó nhà những đối tượng đang chuẩn bị mang ra đấu tố. Có ông đội, một tối lảng vảng quanh bờ rào nhà bà nội tôi. Biết rõ vậy, bà vẫn điềm nhiên đứng trong sân, cầm hòn đất ném ra. Tay ném, miệng còn chõ ra chửi, chó má nhà ai, đêm hôm đến nhòm ngó nhà bà. May ở xã ấy, phụ trách đội là một người có học, không thì gia đình bà nội tôi bị vạ lớn. Ông phụ trách đội ấy, sau mấy tháng ở xã đó không quy đủ được địa chủ như chỉ tiêu trên giao, bị điều đi nơi khác.

 

Bà là người cứng vía. Một lần mẹ tôi và bà đi chợ bán hàng. Ngày ấy người chạy chợ thường đi rất sớm. Quãng gà gáy canh hai, canh ba, họ đã quẩy gánh hàng lên đường. Hôm ấy bà nội và mẹ tôi đi được một chặng xa, trời vẫn tối. Hàng nặng, hai mẹ con thấm mệt, dừng lại nghỉ. Lúc đi thì chỉ chú ý đến mặt đường, tránh bước xuống ổ gà, bà và mẹ tôi không mấy khi nhìn ngó sang hai bên đường. Mẹ tôi đặt đòn gánh xuống làm đoạn kê để ngồi nghỉ. Cầm nón quạt quạt, mẹ tôi vừa ngó nhìn sang bên đường. Dưới ánh trăng lờ nhờ, bà thấy hàng cọc và hình như... Không tin nổi mắt mình, những cái đầu người cắm xếp hàng trên cọc. Mẹ tôi hốt hoảng, thét lên, nháo nhào bỏ chạy.

 

Có lẽ chỉ đến khi nghe con dâu la hét, bà nội tôi mới kịp ngó sang dãy đầu lâu cắm la liệt bên đường. Bà thản nhiên đứng lên, gánh gánh hàng đi một quãng và còn quay lại, gánh tiếp gánh hàng do cô con dâu bỏ lại. Mẹ tôi sợ phát ốm, nghỉ mấy phiên chợ. Bà nội tôi đồ rằng, đấy là đầu lâu Việt gian, mấy ông Việt Minh cắm; cũng có thể là đầu lâu Việt Minh, lính Tây chặt.

 

Với bà, nhân gian là sự hoà trộn giữa thế giới thần linh, ma quỷ và con người. Bà là người vui chuyện. Mỗi dịp về quê, bà kể với tôi, thằng cháu nội, đủ điều. Trong những câu chuyện của bà, không rõ đâu là thế giới thực, đâu là hư vô. Một câu chuyện ma bà kể, tôi còn nhớ:

 

Ở bến đò giáp khu trại của ông bà nội tôi ở có mấy con ma: con ma cây gạo, sát bờ sông; con ma cây thị, giữa vườn; con ma cây chay... Con ma cây thị tóc nó.... dài. Những đêm trở giời, con ma này hay luẩn quẩn trước sân nhà bà. Nó thích nghe ông nội tôi gẩy đàn bầu và lẩy Kiều. Một hôm, vào tối sáng trăng, ông nội tôi đem đàn bầu ra sân gảy. Ông ngâm nga câu Kiều. Bà nội tôi ngồi sắp gánh hàng cho buổi chợ sớm hôm sau.

- Mới đầu tao thấy nó ngồi ở cuối sân. Sau nghe say quá, nó sán vào chỗ ông mày. Nó còn xoã tóc ra...

- Thế ông có biết không?

- Biết chứ. Tao tức mình đứng lên, hậm hự mấy cái. Thế mà nó chả sợ. Đến đận tao phải ra tận nơi, nó mới bỏ đi.

- Sao bà đuổi nó. Có phải nó sán vào gần ông quá, bà ghen?

Bà cười hềnh hệch:

- Tao mà thèm ghen với ma!

Bảo không ghen, nhưng tôi biết, bà nội tôi có tính ghen.

Ông nội tôi có người em trai, mỗi khi em trai tới chơi nhà, chiều chiều anh em khăn xếp ô Tàu, dắt nhau lên phố phủ tom chát, như ta bây giờ, ta rủ nhau đi hát karaoke. Tôi hỏi bà cô:

- Thế bà không nói gì à?

Cô tôi cười:

- Dám!

 

Bà thoáng vậy, nhưng chồng muốn lẽ mọn, thì cương quyết không nghe. Ông nội tôi số đào hoa. Ngoài các con chính thức, ông còn mấy người con riêng nữa. Có người con gái vì tiếng đàn bầu đã đem lòng say mê ông. Nhà bà ở bến đò bên kia sông, trông sang nhà ông nội tôi. Để cho canh ngọt, cơm sôi, ông nội tôi không dám ra mặt nhận. Người lớn không chính thức, con cái còn ai dám. Sau này lớn, họ vẫn gặp gỡ, thậm chí có ông chú ruột tôi còn công tác với một trong những người ấy. Thế mà không bên nào dám nhận bên nào. Sau này người ấy từng là Phó chủ tịch huyện.

 

Năm bà nội tôi ngoài tám mươi, gia đình tổ chức xây cất, quần tụ phần mồ mả cho các cụ, trong đó có mộ phần ông nội tôi. Nghĩ rằng đây là dịp cuối cùng, con cái thực hiện bổn phận thiêng liêng trước tiền nhân, các chú tôi xin phép mẹ, thông báo cho mấy “người kia” – những người con riêng của ông nội tôi ấy. Vừa nghe, bà cụ ngoài tám mươi đã quắc mắt:

- Không mời thằng nào, con nào.

 

Ô kìa, bà cụ già lụ khụ, vẫn còn ghen!

Bà nội tôi được trời cho, rất thọ. Khi đã yếu, tính tình cụ đổi khác, cứ lầm lì ngồi một chỗ. Có lần bà lẩm bẩm tính, cô con dâu cả về làm dâu nhà bà cỡ đến hơn năm chục năm rồi. Bác tôi về làm dâu khoảng trước năm bốn mươi. Vài ba năm sau thì chồng mất, bác ở vậy nuôi con, phụng dưỡng mẹ chồng.

Ông chú hiệu trưởng định đưa bà nội tôi lên Hà Nội, nhưng chưa có cách nào thuyết phục được. Nói, bà im lặng, không ra chiều đồng ý, hay không. Cụ lẩn thẩn mất rồi, chú tôi nghĩ vậy. Một lần chú tôi tụ họp anh em, con cháu. Sau hồi phân tích, thuyết phục, ông cao giọng:

- Bu mà không đi, con báo dân quân, du kích, họ đến bắt!

Anh con trai chưa nói hết câu, bà cụ đốp luôn:

- Nhà tao, tao ở. Thằng nào, con nào dám đến bắt tao!

Ô kìa, hoá ra bà già chưa lẩm cẩm. Con cháu ồ lên cười.

Khi bà về với tổ tiên, có anh em, con cháu và rất đông dân làng đưa tiễn.

 

Phế chức trưởng ngõ

 

Tôi bây giờ là dân Hà Nội. Ở thủ đô gần ba mươi năm. Thế đủ chuẩn giới thiệu mình là dân Hà Nội và con cái nhận là người Hà Nội.

 

Hồi học đại học ở một huyện ngoại thành, hằng tuần, cứ chiều muộn thứ Bảy, từ trường, tôi sang nhà chị gái ở nội thành. Sinh viên đói lắm. Thăm anh chị và các cháu thì phần ít, phần nhiều là kiếm bữa no. Ông anh rể tôi rất chiều cậu em vợ, những quán ngon như phở Thìn, hay mấy quán cà phê, anh đều dẫn cậu em tới. Tôi biết hương vị cà phê và thuốc lá thơm là do anh rể dắt đi quán, cho thưởng thức.

 

Những lúc đói san sẻ cho nhau mới quý. Nó ngon và quý hơn rất nhiều thời bây giờ no đủ. Anh chị tôi người nhà nước, tháng ba cọc ba đồng, hai con nhỏ, vẫn bao bọc cậu em. Chủ nhật tôi ăn cơm trưa xong, bà chị gái nhồi mấy cân mì sợi, chai nước mắm, nhúm mì chính vào chiếc ba lộn cho cậu em. Đầu những năm tám mươi, mốt của sinh viên là anh nào cũng cố kiếm cái ba lô bộ đội, xé hết túi phụ ngoài và lộn ngược ra, khoác lủng lẳng trên vai, đó mới là sinh viên. Quãng một giờ trưa anh rể đèo tôi ra bến Nứa. Trên đường ra bến, bao giờ anh cũng tạt vào quán, chiêu đãi cậu em thêm trầu nữa, khi tách cà phê, lúc cốc bột đậu xanh và anh em nhâm nhi điều thuốc lá thơm. Quãng hai rưỡi, tôi lên xe buýt về trường.

 

Từ Hà Nội sang trường có hơn chục cây số. Hai rưỡi chiều lên xe, mà có khi năm giờ tôi mới sang tới nơi. Chen nhau trên xe khoảng hơn tiếng, nó mới  bắt đầu rời bến, rồi lề rề bò qua cầu Long Biên. Có hôm tắc cầu, cả tiếng đồng hồ chưa qua nổi cầu. Khốn nạn nhất là quãng thời gian trên xe, chen nhau để chờ nó chạy. Tôi phải đi sớm cốt kiếm chỗ ngồi. Còn nếu phải đứng, đành chọn nơi sát thành xe, đứng áp mặt và hai tay giơ ra chống, gồng mình lên chống đỡ. Thế đứng vậy mới chịu nổi làn sóng người xô đẩy.

 

Đói, về nhà anh chị được bữa cơm, nên ăn cố. Ăn trưa lúc mười một giờ, hai rưỡi chiều mới lên xe, bụng vẫn no anh ách. Khi no, chen nhau cơ khổ. Đúng là chen ợ mì ra và ngửi, thì đủ thứ mùi hôi người. Nam giới còn đỡ, nữ giới chen xe, cơ cực khổ. Lợi dụng cảnh chen lấn, đám nam sinh cứ quây lấy chị em, tỵ cọ vào người ta. Nghe lại cảnh ấy, vợ tôi bảo, một chị cùng cơ quan, học ở trường sự phạm Xuân Hoà kể, có bận lên trường, chị bị đám nam sinh chà sát,… ướt đẫm, lúc tới trường phải thay quần áo.

 

Hồi mới ra trường, dịp đang làm hợp đồng, tôi ở nhà chú thím ở khu tập thể, ngay cái ngã tư có tiếng của thủ đô. Chú tôi làm việc ở một trường chuyên nghiệp, cả tuần chỉ về nhà ngày chủ nhật. Ở nhà có ba mẹ con và thêm thằng cháu. Ít bà thím nào tốt vậy. Lại chuyện đói và san sẻ. Sáng đi làm, bà thím chuẩn bị cạp lồng cơm cho thằng cháu. Bao giờ cạp lồng suất trưa của tôi, bà cũng đơm nhiều hơn suất cơm của bà. Suất ăn của bà chỉ có rau, còn cạp lồng của tôi, thêm đôi ba miếng đậu kho.

 

Giờ nhà tôi cũng ở khu tập thể mà chú thím tôi từng sống. Thời Pháp thuộc, nó là vùng ngoại ô, gần đó là nhà thương làm phúc, rồi mấy nhà hát cô đầu. Sang buổi ta còn leng keng tiếng tàu điện ga cuối. Thời đầu đổi mới, đây nổi tiếng có quán karaoke hay và gái đẹp phục vụ khách. Coi đây là quê mới, tôi làm báo, nên từng tìm hiểu và viết vùng ngã tư này.

Ngã tư gần trại đói Giáp Bát năm Ất Dậu. Nhiều người Hà Nội gốc, nếu giờ qua đây, khó biết đâu là phố Làng Tám xưa. Nay nó là con đường Giải Phóng mở qua, hai bên nhà cửa san sát. Đã biết trước địa điểm ấy khó tìm, nên tôi gặp một cụ già gần tám mươi, dân gốc ở đây. Nghe hỏi về trại cứu tế Giáp Bát, cụ bảo, có biết trại ấy, nhưng giờ không còn rõ nó ở đâu. Theo biển đề đường Giáp Bát, tôi rẽ vào làng Tám. Giờ làng thành phố rồi. Dừng trước nhà thờ Làng Tám, tôi tạt vào một quán nước. Trong lúc uống nước, trò chuyện, biết bà chủ và mấy nhà xung quanh đều dân mới đến  ở đây. Vừa hay lúc đó có ông già chừng bảy mươi đi qua, bà chủ nhanh nhảu giới thiệu, ông là dân gốc và mời vào. Hỏi về cái trại tế bần, ông ta ớ ra, rồi lắc đầu, bảo không biết. Vâng, điều xảy ra cách nay hơn 60 năm rồi, có thể lúc đó ông còn nhỏ, không nhớ nổi, hoặc nhà cũng trong cảnh lần ăn từng bữa, hơi sức đâu để ý đến cái trại tế bần kia nữa.

 

Ngày đó, tức đầu năm bốn lăm, khi nạn đói xảy ra, Tổng hội cứu tế lập trại Giáp Bát để cứu người đói. Trại nằm trên khu đất rộng khoảng hai lăm mẫu, gồm vài dãy nhà. Tất cả người đói ở các địa phương vào thành phố xin ăn, được gom về đây. Tổng hội kêu gọi lòng từ thiện để tổ chức nấu cháo bố thí cho kẻ khó.

 

Về trận đói, dân nội thành ít bị ảnh hưởng hơn so với dân quê. Dù sao chính quyền Pháp - Nhật hồi đó cũng cần bộ mặt thành phố đỡ ảm đạm, nên dân được mua gạo theo chế độ tem phiếu, dân ta quen gọi là gạo bông. Tuy ít bị ảnh hưởng hơn, nhưng cảnh đói của kẻ quê, thì dân nội thành rất rõ. Hàng ngày dòng người đói lũ lượt kéo đi xin ăn khắp phố và xác đói rải rác các hè phố. Chuyển xác đói, người ta dùng xe ba gác và xe móc. Trên nhiều tờ báo đưa tin quyên góp thừng, chiếu, bao cói của các nhà hảo tâm để bọc xác chôn người chết. Hay xem mẩu tin trên báo Bình Minh: “Ai thấy xác đói tại phố nào, thì thông báo cho hội Hợp thiện ở 125 đường Henri d’ Orleans…”

 

Để thành phố quang quẻ, không còn người đói, chính quyền thành phố xua họ ra ngoại ô và tập trung vào hai trại, một cái tại Giáp Bát, một cái tại Cầu Giấy. Mặc dù trong trại có cứu tế, nhưng vẫn có người chết. Thật thảm thương, xe chở gạo vào trại, lúc ra lại đưa xác đói đi chôn. Xác ở trại Giáp Bát và nhặt nhạnh tại phía Đông, phía Nam thành phố, gom xuống chôn ở nghĩa địa Hợp Thiện, làng Mai Động. Xác bó chiếu, bao cói, có xác để trần, tất cả đổ xuống hố chôn chung.

 

Muốn hình dung về mức độ ghê rợn của trận đói này, hãy tham khảo công trình nghiên cứu của Tiểu ban hợp tác Việt - Nhật về nạn đói năm Ất Dậu ở Việt Nam, do một giáo sư người Việt và người Nhật làm chủ đề tài. Công trình này ngoài tham khảo tư liệu lưu trữ trong nước, quốc tế, văn bản chính quyền hồi đó và báo chí, còn điều tra trên thực địa tại 23 địa điểm, thuộc 21 tỉnh thành, từ Quảng Trị đến Quảng Ninh. Nhiều nhân chứng trong cuộc điều tra kể lại, có gia đình và dòng họ bị chết hết, nhiều xóm, làng bị xoá sổ. Một vài con số thông kê số người chết đói: Thái bình, chết 28 vạn, Nam Định, chết 21 vạn,...

 

Thật là vô tình nếu sự kiện bi thương của dân tộc và bao số phận đớn đau bị quên lãng. Một tượng đài Đói năm Ất Dậu rất cần được dựng lên. Dựng để nhớ, dựng để không bao giờ dân tộc Việt xảy ra thảm cảnh ấy và để ghi lại tội ác của thực dân Pháp cùng phát xít Nhật trước nhân loại.

 

Ở khu tập thể của tôi, cũng cần kể thêm vài câu chuyện nữa, để nhớ về một thời nghèo khổ, lúc nào cũng đói và cái gì cũng chung. Khu tập thể bị Mỹ ném khá nhiều bom đạn. Sau chiến tranh, dân tập thể từ nơi sơ tán lục tục kéo nhau về. Dân Gia Lộc - Hải Dương còn lên ủng hộ, dựng mấy dãy nhà tranh. Trong khu nhà cửa lỗ mỗ, cái biệt thự thời Pháp, cái thời ta. Công trình ta xây, mang dấu ấn là khu nhà vệ sinh tập thể. Bình thường, nếu ống khí thông thoáng, thì chả làm sao. Đằng này nó lại tắc và có chuyện kinh hồn xảy ra. Vào một buối sớm, quãng năm tám mươi, chắc là tờ mờ sớm, vì ông kia phải bật diêm dò đường, cả khu tập thể đang trong giấc nồng, choàng tỉnh dậy. Tiếng nổ long trời lở đất, dân túa ra xem, nháo nhác hỏi nhau, bom đạn gì chăng, hoà bình rồi sao còn bom đạn?

 

Rồi họ được giải đáp, đó là tiếng nổ hố ga. Nơi nhà vệ sinh quang cảnh thật hỗn độn, mái tốc, phân nước vung vãi, có cả máu. Sau vụ này có câu phát ngôn hài hước của ông nhạc sỹ họ Lương, người nhà Đài, được truyền khẩu nhau. Sáng ra, khi ông nhạc sỹ này đến, thấy quang cảnh trên, buột miệng than rằng:

- Ôi thôi! Một ngàn cái đít bơ vơ rồi!

 

Cái nhà ông bật diêm mò mẫm, bị ga nổ toác mặt, tai nạn nặng đến mức, khi xuất viện, còn hằn trên mặt toàn sẹo là seo, dáng đi thì lệch lệch. Bị nặng vậy, mà sống khá dai, ông còn sống tiếp đến khoảng gần năm hai ngàn mới mất. Lúc sống thì một mình thui thủi, lúc mất cũng kèn thờ, trống tế, vợ con kéo đến khóc lóc bi ai và người đến chia buồn tha thiết. Thấy bảo gian nhà của ông ta để lại, giá đến mấy chục cây vàng!

 

Ngõ nhà tôi trông ra khu nhà vệ sinh này. Sau nó thành bãi rác của cả khu tập thể. Mấy nhà quanh đó suốt ngày ngửi mùi hôi. Có ông bạn cùng Ban tôi bảo: Mỗi lần ra đổ rác, tôi thấy ngượng quá. Bằng đem đổ thối vào nhà ông. Thế nên, cứ rình lúc nào ông vắng nhà, tôi mới đem ra đổ. Còn anh bạn nhà báo họ Lê, có mặt tôi, vẫn đổ thẳng tưng.

Một Tết vào lúc trước giao thừa, có bà bày mâm cỗ gà xôi ra ngõ cúng trời đất. Thắp hương khấn khứa xong, bà này vào nhà, tàn tuần hương, định ra lễ tạ và hạ lễ, thì ôi thôi, chả thấy mâm lễ đâu. Bà này im thin thít. Thành tâm cúng trời đất, các ngài hưởng rồi, ai lại chửi rủa!

 

Có bà già từ quê ra chơi, mang con gà và túi quà, gồm ổi và chuối. Bà gõ cửa, hỏi nhà. Trong ngõ tôi người lớn đi làm, vắng cả, chỉ còn đám trẻ. Bà kia hỏi đám trẻ tên chủ nhà, bà nói đúng, chúng mở cửa cho vào. Ra Hà Nội khám bệnh, định vào nhà cô cháu họ nghỉ nhờ, bà chỉ biết mặt bố mẹ chúng, không tường đám trẻ; còn đám trẻ thấy bà già nhà quê xưng là bà họ mình, lại có túi quà to, sướng quá, xúm vào ăn. Túi ổi, chuối nhiều như thế, chúng xơi gần hết. Mấy đứa trẻ nhà hàng xóm giáp bên cứ đứng chầu mồm. Đến tầm tan ca chiều, bà già và vợ chồng nhà kia rất ngỡ ngàng, vì họ không có họ hàng, không quen biết. Hoá ra bà già có họ với nhà hàng xóm trùng tên, nhà giáp bên. Quà bà mang ra, đám trẻ xơi tiệt rồi. May còn con gà, lũ trẻ bé qúa, không làm thịt được. Mấy đứa cháu họ của bà nhà quê chầu mồm lúc trước, chỉ còn quà sót lại là con gà, đành ăn thịt vậy.

 

Nhà tôi tổng diện tích mặt đất độ chục mét vuông, mua lại, vì diện tôi không được cơ quan phân. Đó là gian kho cấp bốn, cưa đôi. Nhà bố trí bếp, nơi tắm rửa và chỗ ngủ cho bốn nhân khẩu, gồm mẹ già, hai vợ chồng và con gái, lúc đó tôi mới sinh cháu đầu. Bình quân hơn hai mét vuông một người. Trước cửa lại là bãi rác, nên lúc nào nhà cũng đóng cửa im ỉm chống thối. Chưa kể mưa, nước rềnh lên và dột từ trên mái xuống, sống thật ngang súc vật. Tôi nghĩ, kiểu gì cũng phải phá ra xây lại. chỉ mỗi tội, không tiền.

 

Hồi đó dân tín nhiệm bầu tôi là trưởng ngõ. Tôi phân vân nhận hay không, cuối cùng quyết định nhận. Trưởng ngõ quản lý khoảng năm mươi hộ. Nói quản cho oai, chứ thực ra chỉ có hai việc. Thứ nhất là  đến các gia đình thu đủ loại tiền, bao gồm: tiền lao động công ích, tức tiền đắp đê; tiền ủng hộ thiệt hại bão lụt; tiền quyên góp cho người nghèo; tiền thương binh liệt sỹ; tiến đóng góp để công an chống trộm; tiền cho các cháu thiếu nhi dịp hè;… Nhiều khoản lắm. Việc thứ hai là hằng quý, ra văn phòng uỷ ban phường họp, nghe phổ biến tình hình chính trị, an ninh phường, quận, thành phố và cả nước. Những buổi họp ấy tôi thường ra đó ngủ gật, vì mình suốt ngày nghe và tuyên truyền chính sách trên đài, nên nắm quá kỹ.

 

May đến thời tôi là trưởng ngõ, không còn phong trào vợ chồng cãi nhau, hay nhà mất chiếc bơm xe đạp, cái nồi cơm điện, cũng đến trình ông trưởng ngõ giải quyết. Giải quyết vợ chồng ghen nhau. Chồng họ ngoại tình theo gái, vợ chồng đánh chửi nhau, ông trưởng ngõ hàn gắn vết thương sao được đây. Chẳng nhẽ ông trưởng ngõ tôi đến bù đắp tình cảm cho cô vợ đang bơ vơ chăng? Một bận các bà hội phụ nữ mời ông trưởng ngõ tôi đi dự họp. Nội dung là kế hoạch hoá gia đình. Vợ tôi áp dụng rồi, nay các bà định sử dụng tôi đến từng nhà vận chị em đặt vòng, hay triệt sản và phân phát bao cao su. Tôi nghĩ, nhỡ họ vận động luôn ông trưởng ngõ tôi làm gương sáng, đem xẻo cái của quý của mình đi. Mới thoáng nghĩ vậy, tôi đã phát hoảng, vội từ chối ngay, không họp hành kế hoạch gia đình gì cả.

 

Về phụ cấp, mỗi tháng trưởng ngõ tôi được hưởng sáu mươi ngàn đồng. Tôi nhận trưởng ngõ không phải vì định cống hiến chung cho dân ngõ, cũng không phải vì sáu mươi ngàn đồng, mà mục đích là nhỡ ra sau này có phá nhà mình ra xây lại, thì dân ngõ đỡ kiện. Cái mục đích đơn giản ấy cũng không xong. Khi ông trưởng ngõ vừa dỡ nhà, dân nửa ngõ xúm vào kiện, không có giấy phép xây dựng, mà giám tự tiện phá nhà. Xin, thi xin ở đâu ra bây giờ, ra đường xin ư? Dân mình rất buồn cười, chỉ thích cùng nhau khổ chung thôi. Nghĩa là ai ai cũng khổ mới vui, mới hoà mình và mới có tính sống cộng đồng cao. Còn chính sách của ta như tạo ra cho dân đi kiện và khích lệ nhau cùng kiện. Lúc nhà nguy cơ thường trực sụp, cần phá thì không được, lúc xây lên khang trang, lại cứ có người đòi phá. Hồi đó có lúc suýt tôi định cầm dao, vào đâm cho con mẹ khoẻ kiện kia, rồi vào tù. Nghĩ thương mẹ già, con dại, lại nhịn. Cũng may nhà tôi xây xong, không bị dỡ, dù kiện cáo hăng lắm.

 

Sau khi tôi phá nhà mình, dân trong ngõ không tín nhiệm tôi nữa, họp lại, phế chức trưởng ngõ của tôi. Tôi chả tiếc, vì mục đích không kiện đã không xong. Thôi thì ai muốn kiện cứ kiện, gọi là tôi thành anh Chí rồi.

 

Giờ nhà tôi xây cao chót vót, dưới bé, trên lấn chiếm không gian phình ra thành to, trông như tháp Áp – phen lộn ngược. Tôi cứ đùa rằng, nó động đất cỡ hai, ba độ rích te, đổ là cái chắc. Giờ thì cả ngõ, cả khu, cả thành phố đồng thanh dỡ nhà, dỡ cơ quan, chẳng ai còn thời gian đâu đi kiện cáo nhau nữa, thành phố đâm khang trang. Song nghĩ, hơn chục năm trước, tôi là tốp người tiên phong, đáng lý phải được ghi công lao chứ!

 

Tranh khoả thân

 

Tôi sinh năm Mậu Tuất, tuổi chó. Tuổi Tuất bảo là trung thành, đằng này lại là chó càn, cắn lăng nhăng. Tính theo tuổi âm, năm nay tôi đã hạng “ngũ thập nhi chi thiên mệnh”, tức là tuổi biết quy luật của trời đất.

 

Cô thư ký ở Ban tôi nhận xét hình dong khá đúng về tôi, người lẻo khoẻo, đi thì dúi trước, mặt gầy tóp không má, số ông này vất vả. Vất vả thì tôi chưa thấy, chỉ biết lắm việc, trưa làm đến mười rưỡi, chửa được đi uống rượu; chiều, uống đến ba giờ về, đã thấy một đống việc chờ…

 

Tôi xấu máu, tóc bạc sớm, hồi sinh viên có sợi bạc rồi. Sau nhờ thuốc nhuộm nó thành ra trẻ. Nhuộm mãi, giờ đâm ngại, không nhuộm nữa, thành ra già. Người ta bảo, tóc mình bạc, chả lẽ cứ mang xấu máu ra giải thích, đành phải nói, lắm mưu mô nên tóc nó bạc.

 

Giống viết lách, chê thì chả ai thích, rất thích người khen. Nghe khen, mũi cứ nở ra là sung sướng. Chả ai bảo văn tôi viết như văn. Người bảo văn có mùi thum thủm. Đúng quá, tôi dân gốc học nghề hoạn lợn mà. Người bảo, văn ông ảnh hưởng báo, phóng sự. Lại đúng nữa, làm nghề báo, tôi ước mơ và cố học cách phóng sự của cụ Vũ Trọng Phụng.

 

Vợ tôi tuổi Mậu Thân. Năm khỉ, nên số khổ, vớ phải ông chồng gàn gàn, lại thích rượu bia. Từ khi cưới nhau đến giờ, hơn mười lăm năm rồi, vợ chồng chửa một lần to tiếng với nhau. Có chăng, thỉnh thoảng vợ quát, còn anh chồng tôi im thin thít. Duy nhất một lần, vợ chồng suýt mâu thuẫn to. Việc bắt đầu từ dự án xây nhà. Bố mẹ vợ tôi cho con gái mảnh đất ở quê. Của cha mẹ cho là quý. Đang cảnh ở chật chội, một lần vợ tôi đem kế hoạch xây nhà ra bàn. Đất rộng, mình xây rộng anh ạ. Tôi đồng ý ngay, xây rộng. Vợ lại bảo, xây khoảng bảy chục mét thôi, còn để lại khoảng sân. Tôi lại đồng ý tiếp. Chả nhẽ chỉ đồng ý suông, mình là anh chồng, ít ra cũng có tiếng nói chứ, liền góp thêm, bảy mươi mét là rộng lắm, ta xây cao bốn mét, lợp tôn, vừa rẻ, lại dễ xây. Mới nghe, vợ phản đối ngay, lợp tôn là lợp tôn thế nào, một tầng là một tầng thế nào, phải hai tầng. Tiếng vợ gằn gằn, mình mà tranh luận tiếp là căng, tôi xuôi chèo theo ý vợ ngay, ừ thì hai tầng, mái bằng, bê tông.

Vợ tôi dự kiến về cái nhà của mình: Anh ạ! Tầng một làm phòng khách, nhà bếp và vệ sinh; tầng hai phòng vợ chồng mình, phòng làm việc. Thế thì còn thiếu, phải xây tầng ba, hai con, mỗi đứa một phòng và phòng chúng học. Có lẽ phải xây tầng nữa,… Vợ đang dang dở xây tầng, tôi vội đồng ý luôn: Đúng, xây tầng bốn và cả luôn tầng năm nữa. Tầng bốn để sẵn phòng cho khách ngủ, nếu nhà có khách, rồi phòng sách. Tầng năm để hong quần áo, phơi chiếu, phơi đệm cho nó rộng và đề vật dụng cũ. Còn trên cái mái bằng tầng năm, ta làm sân trời, kê bộ bàn ghế đá, tối tối, vợ chồng con cái lên đấy ngắm trăng, mát lắm. Vợ tôi lịm đi vì sung sướng với cái nhà năm tầng, bên trên còn sân trời ngắm trăng. Đến lúc này tôi mới hỏi: Em ơi, nhà mình tất thảy có bao nhiêu tiền. Nghe hỏi, vợ vội vàng lục tủ, mở cặp kiểm tra sổ tiết kiệm, kê giấy, loay hoay tính tính toán toán một lúc, rồi thông báo. Nghe vợ nói, tôi đanh thép kết luận: Thế thì…. chỉ đủ xây móng cái nhà ấy thôi em ạ. Vợ tôi buồn, buồn thiu thỉu. Nhìn vợ mà thương. Tôi trách mình khờ, sống đù đờ, làm vợ con khổ.

 

Tôi có hai cô con gái, con lớn tên Ủn, con bé tên Ỉn. Hai đứa hỏi, sao bố gọi chúng con là gái rượu, tôi bảo: thì mỗi khi nhớ chúng mày, bố cứ đều mang rượu ra uống.

 

Chuyện buồn cười rằng, hai cô con gái tôi, mỗi đứa một quê. Nhà thơ Trương Hữu, dân nhà Đài, nghe chuyện ấy buồn cười quá. Quen nhau rồi tôi mới biết, anh cũng quê “danh giá nhất ông cò” với tôi. Trương Hữu lúc nào trông cũng lừ đừ như tư duy thơ. Học ở Tây về, một thời anh là tay viết điều tra cự phách thời tiền Đổi mới, thế rồi lại chuyển sang hành nghề thơ. Con người ta, khả năng nhiều khi kỳ lạ thế! Trương Hữu kể về xuất xứ bài Chữ duyên của mình. Nhân đi chùa Đọi, người ta xin chữ lộc, chữ đức, chữ thọ, thì mình anh xin chữ duyên. Lên chùa mà xin duyên, mọi người cứ cười, mấy ai hay rằng, chữ duyên cửa Phật:

 

Lên chùa xin giữ một chữ duyên

Làm neo nĩu giữ con thuyền tham sâu

Giữa dòng trong đục xoay vần

Lòng thiền nhẹ áng phù vân bồng bềnh

 

Con gái tôi đứa lớn quê Thái Bình, còn con nhỏ quê Hà Nội. Lý do hai đứa hai quê là như sau: Đứa lớn bà thím tôi đi làm giấy khai sinh và hộ khẩu giúp. Bà nghĩ, chồng bà và ông nội cháu sinh ở đâu, thì khai quê ở đấy. Về nhà, cầm giấy khai sinh, tôi nghĩ cứ buồn cười. Nhưng khai rồi, chẳng muốn đổi thay nữa. Nếu theo ông nội, thì quê gốc của cháu phải là Hà Nam cơ, Thái Bình chỉ là đất ông ngụ cư. Đến đứa thứ hai, lần này mẹ cháu đi làm giấy tờ, vợ tôi bảo: Quê quán quan trọng lắm! Khai theo quê mẹ. Sau này có việc gì liên quan đến giấy tờ, về gần làm cho tiện.

 

Lúc tôi khai lý lịch vào Đảng, trong giấy tờ yêu cầu, cha sinh ở đâu, thì con khai quê ở đấy. Cha tôi sinh ở Thái Bình, tôi khai, quê Thái Bình. Đến phần cha tôi, thì ông nội sinh ra ở Hà Nam, tôi ghi, cha quê ở Hà Nam. May, lý lịch chỉ yêu cầu khai đến phần quê quán cha, mẹ, chứ có phần quê quán ông, bà, thì phức tạp đấy. Cụ nội tôi hình như sinh ở tỉnh Đông gì đó, chẳng lẽ khai ông nội quê tỉnh Đông. Chỉ biết rằng, bản quán tôi ở Hà Nam. Khi xem xét kết nạp Đảng, phần thông qua lý lịch, anh em bảo, sao tôi phức tạp, lắm quê quán thế!

 

Vợ chồng tôi khuyến khích hai cháu viết nhật ký và trước khi sinh các cháu, vợ tôi chuẩn bị cuốn nhật ký riêng cho từng đứa. Tính sau này con cái lớn, trao lại cho chúng. Sao không truyền lại của cải nhỉ, đã lo bụi vết chúng để lại trên đời? Cuốn nhật ký vợ viết, chồng viết, ghi lại những kỷ niệm, những câu chuyện thơ dại của con. Giờ nhiều lúc mở ra đọc, thấy buồn vui. Vui vì con khôn lớn, buồn vì thời gian trôi nhanh. Giờ thì hai cháu tự viết, tự nghĩ lấy rồi. Xin trích đôi dòng vợ tôi viết cho gái lớn:

 

Ngày…..2005 Ủn nứt răng thứ tư. Có lẽ là nguyên nhân con biếng ăn mấy hôm nay. Dạo này tóc con mọc nhanh hơn, đằng trước mọc dài ra, bắt đầu có vẻ con gái, chứ không bằng chằn chặn, ngắn chun chủn như trước. Con cũng biết nhiều trò hóm hỉnh. Ủn đứng vững và lại thích xoè tay, quay người điệu đàng như tập múa. Ủn bước được một bước, thích làm nũng, thích rúc vào mẹ, miệng rên hờ hờ như con lợn ủn ỉn”

Còn đây là tôi viết:

 

“Bố đưa hai con đến trường. Bố thương nhất là lúc Ỉn chào bố và lon ton chạy vào lớp. Cái cặp đè nặng lên vai. Thương quá, bé tẹo tèo teo, nhút nhát, mon men chập chững vào đời. Có chiều đến đón, mãi chẳng thấy hai chị em con đâu, sân trường thì vắng hoe. Sau tìm ra, thấy hai chị em đang ríu rít chơi đu. Nhìn Ỉn đu mà bố lo, chỉ sợ con ngã!

 

Cháu lớn sinh được vài ba tháng, vợ tôi sắm cân và hằng tháng đem con ra cân. Có khi tháng cân dăm bận. Con tăng nhanh, thì mẹ tí tởn; con tăng chậm là ỉu xìu xìu. Rồi ngồi điểm lại chế độ chăm sóc có gì sơ suất chăng. Có nuôi con mới thấy kinh nghiệm của các cụ ta quý thật. Đọc sách hướng dẫn, mẹ không phải kiêng cữ gì. Vừa áp dụng hôm trước, hôm sau con có biểu hiện liền. Như mẹ ăn cá, tôm, hôm sau con hoa cà hoa cải xì xoẹt. Chả ai đủ dũng khí mang con mình ra thí nghiệm để minh chứng cho khoa học đúng hay sai, vợ tôi dừng áp dụng ngay. Lại vía nữa chứ. Khách về rồi, con cứ ngằn ngặt khóc. Giỗ đủ kiểu nó không nín. Vợ chồng lo tái mặt, chỉ sợ con mắc bệnh gì. Nghe mẹ tôi bảo, đốt vía, không tin, nhưng cứ làm. Châm lửa tờ giấy báo, quơ quơ quanh con, một tý nó nín thít. Lạ thế không biết. Thế là đành tin và lần sau, con khóc vì khách nặng vía, đốt luôn. Hay như mấy tối liền cháu ti tỉ khóc, mẹ tôi bảo, đặt con dao dưới chiếu, nghe theo, cháu ngủ ngon lành.

 

Có lẽ cha mẹ không làm nên cơm cháo gì, nên đặt hết hi vọng vào con cái, nhất là vợ tôi. Ngày mới sinh đứa đầu, ngoài nhật ký, vợ tôi còn chuẩn bị một cuốn sổ nữa, kẻ vẽ cẩn thận, lên cả đống kế hoạch đào tạo con, nào là học nhạc để sau này thành nhạc sỹ lớn; nào là hội hoạ, để con có những bức tranh để đời; nào là ..., tức là cầm kỳ thi hoạ. Nghe vợ trình bày, nhiều hôm sốt ruột, tôi gàn: Thôi, cứ để nó lớn đã. Bàn lắm, khéo con nó đẹn. Mới có vậy cô ta đã quắc mắt:

- Tương lai của con, ông lại bảo đẹn!

 

Rút kinh nghiệm rồi, tôi im thít. Tránh voi chẳng xấu mặt nào, đằng này lại là tránh vợ. Về chuyện tương lai của con, phụ nữ ấy à, họ có ý định rồi, thì giời gàn. Huống hồ là chồng gàn, con tép! Năm con gái lớn năm tuổi, vợ tôi hăm hở triển khai ý đồ đào tạo con thành nhân tài đất Việt.

 

Đầu tiên, vợ tôi cho cháu lên cung Thiếu nhi học vẽ. Thôi thì cũng tiện, tôi nghĩ bụng, địa điểm ấy gần cơ quan vợ, dễ quản, mà con  thêm chút ít kiến thức hội hoạ. Ngay tuần đầu cháu đi học, vợ tôi mua về một lô, một đống đồ vẽ, như bút vẽ, giá vẽ, bột mầu, toan,.... Con bé thấy đống đồ nghề, phấn khởi ra mặt, cứ tưởng mẹ mua đồ chơi. Trong lúc mẹ đi chợ, nó mang ra bày khắp nhà, chơi đồ hàng. Đi chợ về, thấy con bày la liệt dụng cụ đào tạo nhân tài ra chơi, vợ tôi nghiến răng ken két, quát: Mày tưởng tao mua về cho mày chơi à? Đây là dụng cụ học tập! Con bé bất ngờ bị mẹ quát, tiu nghỉu, sán lại gần bố, phụng phịu: Đếch thèm dụng cụ nhân tài nữa. Tôi phải dỗ mãi.

 

Sau đợt mua dụng cụ vẽ, vợ tôi còn lôi về loạt tranh chép, nào tranh Phố Phái, nào Thiếu nữ bên hoa huệ của Tô Ngọc Vân, bức Lên đồng của Nguyễn Phan Chánh,.... Nhìn một bức khoả thân, con bé reo lên, eo ơi, cái cô này cởi truồng bố, mẹ ơi. Mẹ cháu vội vàng chỉnh sửa ngay: Không được gọi cởi truồng, phải gọi là khoả thân. Rồi cô ta dành cả tiếng giảng giải cho con bé tuổi lên năm về trời đất tạo hoá ra con người, một kỳ quan của thiên nhiên. Vợ tôi vốn dân học sinh giỏi văn thành phố, nên lý luận lắm lắm lắm. Đấy là vợ tôi đang bồi đắp kiến thức hội hoạ cho cô con gái. Nghe mẹ giảng giải, con bé thỏ thẻ hỏi lại:

- Hôm nọ, con nhìn thấy bố tắm! Bố khoả thân. Thế có gọi là vẻ đẹp thiên nhiên không hả mẹ?

Mẹ nó tức quá, quát cho:

- Chỉ được cái hư. Cái tốt, cái đẹp không xem, xem đồ nhảm nhí!

 

Mấy tháng đánh vật ở cung thiếu nhi, tranh cháu vẽ, người không ra người, ngợm chả ra ngợm. Bác Minh Khiêm, quan hệ thông gia, xuống chơi, giả mua một mớ năm tranh, trả cho cháu năm mười ngàn. Giá tranh cháu bán cao như vậy, mà cô giáo vẫn nhận xét, không có khiếu vẽ. Thất vọng, vợ tôi chuyển con gái sang học múa. Vợ  giải thích:

- Thôi, không có khiếu vẽ thì thôi. Em thấy, con bé có khiếu múa đấy. Múa cũng chẳng kém gì vẽ bao nhiêu. Mà tranh vẽ bây giờ, ế sưng sỉa. Tranh bày đầy ra ở Bờ Hồ, có ai mua đâu. Còn múa hát, bao người thành danh!

 

Nói xong, vợ tôi kể ra một đống những tên Tây, tên Tàu, toàn những cái tên đùng đùng, xịt xịt, các nghệ sỹ múa hát nổi tiếng. Cô ta còn đọc vanh vách thu nhập bằng đô la hàng tháng của từng danh ca, toàn vạn, triệu đô la cả. Nghe đô la, ai chả thích, tôi gật gù tán đồng. Học được hai tháng, bước sang tháng thứ ba, sau hai ngày nghỉ thứ bảy, chủ nhật, con gái nhất quyết không học múa hát nữa. Bảo thế nào cháu cũng không đi. Sau tôi phát hiện ra, có bà mẹ đưa con đi tập, chỉ chỏ bình luận về con gái tôi, bảo nó có cái chân hơi cong, sau này biểu diễn làm sao được. Nghe vậy, tôi vén quần mình lên quá gối, bảo con: Đấy, cái chân cong cong của bố, trông có đẹp không. Còn cái đầu gối củ hành này nữa, ai bảo nó xấu, con cứ về mách bố. Hồi sinh viên, bố chẳng múa hát hội diễn nhà trường mãi. Nói đến thế rồi, mà con bé vẫn nhất quyết không nghe. Học múa không xong, vợ tôi xoay sang cho cháu học đàn, mà phải học đàn oóc gan cơ. Quả này mới căng, đàn oóc gan đâu phải cái nhị, cái sáo, dăm bảy chục, hay một trăm ngàn. Tôi giải thích với vợ:

- Em ơi, rẻ nhất, đàn oóc cũng vài triệu. Hay là ta cho con học thổi sáo thôi. Thổi sáo cũng thành nghệ sỹ nổi tiếng, mà nó lại rẻ.

 

Vợ tôi cương quyết không nghe:

- Thế anh quý tương lai của con hơn, hay quý tiền?

 

Nói thế đúng quá đi còn gì nữa. Tôi phải nhắm mắt nhắm mũi đi sắm đàn oóc cho con, hết mấy triệu đồng. Tiền thì không tiếc lắm, chỉ tức là nhà không lúc nào yên. Suốt ngày, Này bà Lý toét ơi! Con tôi nó lấy con bà, rồi bài Tình bằng có cái trống cơm... Vui sướng gì, bố nó đang dốc tiết lên kiếm tiền đây này. Tôi là người lao động chất xám, cần không gian yên tĩnh, nhạc nhẽo ồn ã, thì tư duy trừu tượng cái nỗi gì!

 

Từ khi cháu học đàn, sếp trên cơ quan bảo, dạo này bài vở của tôi nhàn nhạt, sáo sáo ấy. Cũng may, con gái hăm hở học được mươi bài đàn, thì chán, không thấy sờ mó đến đàn sáo nữa. Biết con gái cũng không có thiên bẩm về âm nhạc, vợ tôi chép miệng:

- Tao đã lo cho mày nhiều, mà chả nên cơm cháo gì. Thôi, sau này đi bán rau, đừng có trách bố mẹ mày nhé!

 

Bán rau thì chưa biết, kể từ khi để con gái tự do lựa chọn năng khiếu, cháu nhẩn nha học ngoại ngữ. Cháu học cũng được. Thỉnh thoảng trong bữa tối, cô con gái học lớp bảy trường Khương Thượng, lõm bõm dịch được phim hoạt hình trên ti vi.

Hồi đang học lớp năm, một hôm trong bữa cơm chiều, cháu kể, mấy đứa lớp con dốt quá, bảo mãi không hiểu. Tôi tò mò:

- Sao con biết các bạn dốt?

- Thì chính con giảng bài cho các bạn!

- Con giảng?

- Vâng! Mấy tuần nay, cô giáo bận em bé. Buổi chiều cô giao hết cho con đứng lớp, dạy các bạn! Có hôm chẳng bận việc gì, cô lúi húi ngồi viết trên bàn, mình con đứng giảng.

- Thế con giảng giải cái gì, môn nào?

- Con giảng môn tiếng Việt, môn tự nhiên xã hội, môn...

- Có môn đạo đức không?

 

Chết thật! Sao lại có chuyện đó? Một con bé mới mười tuổi đầu, cô giáo lại  bắt làm thầy, dạy các bạn những điều mà chính nó còn chưa hiểu. Giáo dục, dạy dỗ kiểu này, thì chết. Giảng giả, dạy dối từ trong trường. Mầm non, tương lai đất nước… ơi! Tôi lắc đầu nói đùa với con:

- Con chuẩn bị sẵn cái thước gỗ thật to. Đứa nào không nghe, giáng cho nó một thước!

- Bố chỉ xui dại con.

 

Con gái hay bảo tôi, bố nói bậy quá. Tôi cố gắng sửa, càng sửa càng đâm ra nói bậy. Tôi đùa con, bố mẹ là muôn năm đúng, nghĩ là đúng, nói là đúng, cái gì cũng đúng. Bố mẹ tức là chân lý đấy.

- Thưa ông chân lý – có bận con gái bảo thế - Con đố ông chân lý câu này!

- Được, cứ hỏi.

Con gái tôi vốn cảnh giác, nó cười và giao hẹn:

- Phải cá, ai sai mất mười ngàn.

 

Tôi gật đầu, đồng ý.

- Đố bố, ông Phùng Hưng có đánh Pháp không?

Thế quái nào tôi lại nhầm, ông Phùng Hưng với ông Phan Đình Phùng, gật đầu luôn, có đánh Pháp. Con tôi giơ ngay bài cháu vừa học về Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng và phá ra cười:

- Chân lý sai rồi nhé!

 

Tôi chữa:

- Nhầm… nhầm một tý ấy mà. Chân lý nhiều khi cũng nhầm chứ.

 

Dù nhầm, tôi vẫn phải đưa mười ngàn cho con. Chân lý mà!

Hồi con gái tôi sắp thành thiếu nữ, vợ chồng bàn nhau, phải nói về giới tính với con, nhưng còn lúng túng. Đúng vào lúc đó, thì cháu bô bô khoe bài học giới tính cô giáo vừa giảng. Cháu có vẻ tò mò và hỏi rất thản nhiên những điều người lớn coi là nghiêm trọng, chỉ có trẻ nhỏ mới giám hỏi. Sau khi thành thiếu nữ, có lần cháu bô bô hỏi mẹ nó, tại sao bố không đóng bỉm nhỉ.

 

Người ta bảo, con người có số cả. Hồi chuẩn bị sinh cháu, vợ chồng tôi căng óc nghĩ cái tên đặt cho con. Khi làm giấy khai sinh, đọc là Anh, thì cô y tá ghi thành Oanh - Nguyễn Thị Tú Oanh. Lúc đó thủ tục đổi tên nhiêu khê và tôi nghĩ, nó là cái số, chẳng đổi nữa. Oanh là một loài chim, sau này chắc cháu sẽ bay nhảy.

Hè vừa rồi tôi nghĩ ra mẹo nhỏ, liền bảo con: Ba tháng hè này, rỗi, không phải học thêm, con có muốn kiếm tiền không? Con bé cảnh giác, nhìn bố. Tôi thản nhiên: kiếm hẳn một triệu cơ. Nghe đến tiền triệu, lòng tham của con bé nổi lên, át cả thói đa nghi, nó xăng xái hỏi, bằng cách nào hả bố, tôi bảo, con viết truyện, viết xong, bố gửi nhà xuất bản, đảm bảo kiếm ngon ơ khoản nhuận bút cả triệu. Cái mẹo vặt đâm ra có tác dụng, con gái tôi cắm đầu vào viết, chẳng thiết tắm biển, du lịch nữa. Thấy con chăm chú, sau hè viết được hơn trăm trang bản thảo, vợ bảo tôi, thôi thì không thành danh cũng thành nhân.

 

Con gái thế mà được. Thành nhân là tốt quá. Thành danh mà danh hão, nước non gì, hoặc mãi thành danh trượt…

 

Thích làm quan

 

Rút kinh nghiệm đứa trước, với gái nhỏ, mẹ nó chẳng định hướng đào tạo, hay nhồi nhét kiến thức cho thành thiên tài, mà tuỳ theo sức và ý cháu lựa chọn.

 

Tính cháu rụt rè, không mạnh mẽ, bộc lộ chí hướng như con chị. Nói chuyện với ai, kể cả bố mẹ, cháu chỉ thủ thỉ, hay cái tên Thục Anh hiền dịu là tính số của con? Một dạo, khi còn năm, sáu tuổi, cứ sáng ra là cháu bi bô khoe với bố về giấc mơ đêm qua của mình, Bố ơi, hôm qua con mơ.... và hăng hái kể những giấc mơ đêm qua của cháu. Một sáng tôi đùa:

- Hôm qua bố cũng mơ nhé!

 

Vừa nghe bố nói chuyện mơ, cháu xăng xái hỏi xem, bố mơ gì. Tôi tủm tỉm cười: Hôm qua bố mơ ăn phở hiệu. Con gái có biết, bố ăn mấy bát không? Con gái tôi lắc đầu. Tôi giơ bàn tay ra năm ngón, con gái rụt cổ: Khiếp, sao bố ăn nhiều thế. Tôi tỉnh queo, cao giọng phân tích:

- Khi đã mơ, thì mơ ăn không mất tiền. Bố nhắc nhé, lần sau, hễ mơ, con cố mà mơ ăn, mơ uống. Ăn uống, mua bán thật nhiều vào. Riêng ăn uống trong mơ, bố không cấm. À, lần sau có mơ, thì nhớ mơ mua cho bố cái ô tô nhá. Hôm qua mơ ăn phở, bố cố ăn thật no, sáng nay đỡ phải ăn. Mẹ mày sướng nhé, bố tiết kiệm cho mẹ mày mấy chục ngàn. Không tin, con cứ hỏi mẹ mày mà xem.

 

Con gái tôi ngây thơ hỏi mẹ:

- Đúng không mẹ?

 

Cháu chỉ ngạc nhiên, bố mơ ăn uống lắm thế mà vẫn gầy. Ăn mơ thì quái thế nào béo tốt được. Thử ăn thật xem, béo ú. Đấy, bây giờ khối người ăn quá, bụng béo chảy xệ ra, phải uống thuốc giảm cân, để giả gầy. Họ, có thuốc tiên mới làm giả gầy được.

 

Trẻ con y như cái máy ghi âm. Chúng chơi đấy, mà nghe hết lời người lớn nói chuyện đấy. Một lần khi cháu đang chơi, tôi thử cháu, giả vờ như đang nói chuyện với vợ: Ngõ mình là ngõ văn hoá. Nhà mình là nhà có văn hoá rồi. Khi nào có khách, mọi người phải cầm sách lên nhé. Đang chơi, cháu quay lại hỏi ngay:

- Cầm sách để làm gì hả bố?

- Cầm sách để giả làm trí thức! Bây giờ lắm thức giả lắm!

 

Con bé hơn bốn tuổi, nghe giọng bố nghiêm trang, không hỏi han gì nữa. Một lần, có cô bạn đến chơi, thấy con bé cầm sách chăm chú giương lên, ngạc nhiên:

- Bé biết đọc cơ à? Sách kể gì thế?

- Toàn thức giả...

 

Cô bạn há mồm, ngạc nhiên.

Tôi và vợ đưa cháu đến chơi nhà bạn. Vào nhà, con vẹt chào véo von, con tôi thích lắm, sán vào xem và nói chuyện bi bố với nó. Về nhà cháu hỏi:

- Bố ơi, sao nó nói ngọng thế?

- Ngọng mới hay nói.

- Bố ơi, sao nó nói bậy thế?

- Chủ nó dạy nó thế. Nó nói, mà chẳng hiểu nói gì.

- Nó nói, mà chẳng hiểu nói gì là thế nào hả bố?

- Vẹt nó thế. Người ta bảo nói như vẹt.

- Người có thế không hả bố?

- Khối. Cứ xem ở lớp con ấy, khối bạn vẹt. Nói, chẳng hiểu, chẳng nghĩ gì, cứ nói. Có con vẹt còn đi dạy khối người đấy.

 

Hôm sau cháu về khoe: Ở lớp con có bạn vẹt bố ạ. Hôm qua có đoàn kiểm tra lớp, họ hỏi về học thêm, bạn ấy trả lời: "Cô giáo dặn, ai hỏi cứ bảo là không học thêm nhá, nhưng chủ nhật, nhớ đến học phụ đạo nhà cô!"

- Nếu họ hỏi con, thì con trả lời thế nào?

- Con bảo, cô không dạy thêm. Con có phải vẹt đâu. Phải giấu chuyện chủ nhật đến nhà cô học thêm chứ.

 

Giáo dục ta dạy thêm nhiều thế, kết quả đâu chưa thấy, đã thấy rõ là con gái tôi học được thói nói dối.

Mới rồi tôi phát hiện ra, cháu thích xem gia phả và thích làm quan. Một lần cháu mang gia phả ra đọc, rồi hỏi tôi:

- Trên ông gọi là gì hả bố?

- Gọi là cụ.

- Trên cụ gọi là gì hả bố?

- Gọi là kỵ.

- Trên kỵ gọi là gì hả bố?

- Gọi là kĩnh.

- Trên kĩnh gọi là gì hả bố?

- Gọi là …. cụ kĩnh kình kinh

- Có phải bố viết gia phả, để sau này có người gọi bố là cụ kĩnh kình kinh?

 

Một buổi đón con từ lớp học về, cháu hồ hởi khoe, con vừa được cô giáo phân công làm tổ trưởng. Nhìn con gái hơn hớn vì lên chân cán bộ, tôi nói:

- Bố chúc mừng. Chuyến này cả nhà ta làm cán bộ - tôi nói - Chị Ủn thì làm lớp phó, còn Ỉn thì tổ trưởng, bố mẹ đều trưởng, phó phòng.

 

Nói tới đây tôi nghiêm sắc mặt, cao giọng:

- Thế có muốn chức lớp trưởng, hay liên đội trưởng, bố mày chạy cho. Cứ chủ nhiệm, hiệu trưởng bố mày chạy. Nhưng con nhớ nhé, cuối tháng, phải nhắc cô giáo phát lương chân tổ trưởng. Thầy, cô chúng mày bây giờ là hay ăn bớt, ăn xén của học sinh lắm!

 

Con gái út tôi tưởng bố nói thật:

- Tổ trưởng cũng có lương hả bố?

- Có chứ!

Nghe hai bố con đối thoại, vợ tôi cười:

- Cái ông này, chỉ nhảm nhí. Con nó lại tưởng thật đấy!

 

Thỉnh thoảng cháu được tôi và vợ tôi cho lên cơ quan chơi vào những ngày nghỉ, hay cơ quan rỗi việc. Thường thì cháu lên cơ quan của mẹ nhiều hơn. Nếu không nhầm, tôi đưa cháu lên được bốn, năm bận. Theo lên cơ quan, cháu thường mặc cả, hôm nay cơ quan bố có đông người không, nếu vắng, con mới lên. Một ngày chủ nhật, tôi đưa cháu lên. Tôi bấm trò chơi điện tử trên máy tính cho cháu, còn mình lúi húi làm việc. Sau một hồi chơi, khi đã chán, cháu lượn một vòng quanh căn phòng, rồi sán lại bên bố, thì thầm - cháu vốn tính rụt rè, dù lúc này cơ quan chẳng có ai, ngoại trừ hai bố con:

- Bố là trưởng cái phòng này?

 

Cháu khoát tay, chỉ cả căn phòng rộng chừng ba trăm mét vuông. Tôi lắc đầu.

- Không phải. Đây là cả Ban của bố. Quản lý gian phòng này là ông Trưởng ban.

- Ông ấy to bằng ai, cháu hỏi. Có bằng ông Minh Đức cơ quan của mẹ không?

 

Ông Minh Đức là Giáo sư, Viện trưởng nơi vợ tôi công tác. Vì hay lên chơi bên cơ quan mẹ, nên cháu biết rõ cả chức danh và họ tên ông Viện trưởng ấy. Tôi gật đầu, đáp:

- To bằng.

Nghe tôi nói vậy, cháu tần ngần một chút, rồi tiếp:

- Thế bố là trưởng phòng, thì là trưởng cái phòng nào?

Tôi khoát tay, chỉ hai, ba cái bàn trước mặt, bảo:

- Đấy, bố làm Trưởng phòng mấy cái bàn này.

 

Nghe tôi nói vậy, cháu hết sức ngạc nhiên, rồi thần mặt ra. Chẳng thấy cháu hỏi tiếp gì nữa. Trong bữa ăn tối, cháu bô bô thông báo với con chị:  Phòng bố chỉ có mấy cái bàn. Trưởng phòng bố chỉ bằng tổ trưởng lớp em. Nghe con nói, tôi phì cười về sự so sánh và chợt hiểu sự im lặng, thất vọng ra mặt của cháu lúc trước ở cơ quan. Ước mơ quan chức nó có ngay từ tuổi thơ ư? Thảo nào, lắm người tranh nhau đến đổ máu đầu cái chân cán bộ, thủ đoạn, nịnh nọt, bợ đỡ, ton hót, nói xấu, ganh ghét nhau.

 

Có ông lãnh đạo kỳ tài trong việc bổ nhiệm cán bộ cấp dưới, cả cơ quan, trừ ông, còn gần như thuộc cấp toàn quyền thôi, tức là cu, có khi cu đến hai mươi năm, thậm chí cu đến lúc chết, đọc điếu văn, vẫn là cu cụ qua đời. Nghĩ thấy ông này thâm thật, đã là quyền, chức bấp bênh, bố ai dám trái ý cấp trên. Ông còn cái kiểu bổ nhiệm bằng mồn, không có quyết định văn bản. Bổ nhiệm vậy, người được bổ cứ cum cúp, ai dám bướng, dám cãi, mà cố hy vọng.

 

Làm quan, ai chẳng thích, thích làm to, chỉ có khác là kẻ thích nhiều, người thích ít, thích ra mồm, hay thích trong tâm. Tôi cũng thích. Làm quan, có người ra quan bằng đầu, bằng tim, có kẻ nên quan bằng mồm, bằng đầu gối, bằng tiền, bằng nhiều thứ nữa.

Người ta chỉ khác nhau động cơ, động tác được làm quan và khi hành quan thôi.

 

Dưới thời phong kiến, các cụ dùi mài kinh sử để ra làm quan. Buổi  đầu thực dân, người Pháp lập hẳn trường quan hậu bổ. Đến thời ta, bao trường đại học, cao cấp, tuyển và dạy người làm quan.

 

Ông nọ lúc làm việc thì chỉ quát lăng băng, nói lăng nhăng. Anh em cơ quan gọi là ông quan quát, quan phán. Quát phán thôi, còn chả làm việc gì cả. Đến lúc về hưu, vẫn nhớ quát, nhớ phán, lại lên cơ quan và quên cả mình nay nghỉ hưu, tiếp tục quát phán. Có hôm ông ta đến cơ quan, anh em đang ngồi uống nước, mọi người cứ lảng dần. Mải quát phán, ông không hay, anh em đi ráo cả rồi, chỉ còn trơ lại phích nước và ông nọ vẫn quát, vẫn phán, nó trả đối lại ông gì cả.

 

Ăn vụng

 

Lần uống bia ở ngã tư Khâm Thiên, tôi khoe với bạn bia về chuyện dạy con, như chuyện, tôi đang trùm chăn, con gái hỏi:

- Cụ kĩnh kình kinh làm gì đấy?

Từ trong chăn tôi vọng ra:

- Cụ đang đếm tiền.

- Sao cụ thích tiền thế? Cụ bảo tiền bẩn lắm cơ mà!

- Nó bẩn, nên cụ mới phải trùm chăn đếm. Đỡ dây sang chắt chút sau này của cụ.

 

Anh bạn bia ngồi cùng cười, mà rằng:

- Ông toàn lăng nhăng. Dạy con kiểu ấy, chỉ tổ làm chúng hư.

Con tôi tiêm nhiễm những chuyện của tôi, thành hư xấu đâu chưa biết, chỉ thấy, chất của con vẫn thơ ngây. Nghe bố kể, chúng chỉ khinh khích cười. Qua lăng kính tuổi thơ, nhìn chuyện của bố, chúng toàn thấy buồn cười, chả thấy xấu. Đôi khi, con còn lên lớp bố:

- Bố không được tham nhũng nhé.

- Bố làm đếch gì tham nhũng được. Bố mà tham nhũng được, các con đã sướng.

 

Đấy là tôi bảo, khi chúng nhắc nhở bố. Xin kể câu chuyện tôi gieo vào đầu chúng, chuyện ngày bé tôi ăn vụng.

Chuyện thứ nhất: ăn vụng thịt.

Năm đó tôi khoảng mười tuổi.

Có câu ca rằng:

 

Có phúc gả con chồng gần

Có bát canh cần nó cũng mang cho

 

Mẹ tôi nấu nồi canh bánh đa, múc ra một bát chiết yêu và sai tôi mang đến biếu bà ngoại. Nó được đặt trong cái rá. Trong khi trên đường bê bát canh, tôi ngắm nghía mấy miếng thịt bày phía trên.

 

Bát canh nóng, mùi thơm ngào ngạt. Chính nó quyến rũ, làm tôi nảy ra lòng thèm ăn, cổ vũ ý định ăn vụng của tôi. Từ nhà tôi tới nhà bà ngoại, khoảng ba trăm mét, tôi chợt nảy ra phương án, rẽ ra hướng bờ sông, đoạn đường kéo dài ra hơn, lại vắng, dễ hành sự. Nghĩ là làm, tôi bê rá canh vòng xuống đường bờ sông.

 

Ngắm bát canh, tôi lẩm nhấm đếm, có cả thảy năm miếng thịt. Nhìn trước, ngó sau, không thấy ai, tôi nhón tay, đưa lên một miếng, cắn một nhát. Miếng thịt bị cắn đứt đôi. Tôi thả nhanh nửa miếng thịt còn lại vào bát canh. Tôi nhai từ tốn và thưởng thức độ ngon của nó. Ngon thật! Nhai xong, đi một đoạn, tôi lại nhìn xuống bát canh, lẩm nhấm đếm, vẫn còn y nguyên năm miếng. Một ý nghĩ nữa trong đầu tôi loé lên, cứ mỗi miếng, mình cắn một nửa, chốc nữa bà ngoại đếm, thì vẫn y nguyên năm miếng. Cái đầu óc thơ ngây tuổi lên mười của tôi tính toán vậy, thế là bốn miếng thịt nguyên vẹn còn lại trên bát canh, lần lượt bị tôi nhón lên, cắn nhanh một nửa.

 

Thịt lợn ngon thật, thơm thật,... Lũ thịt ngon quá làm tôi quên béng bài tính trẻ ranh lúc trước, cứ thò tay bốc nửa các miếng còn lại, xơi tiếp. Đến lúc bát canh sạch thịt và đi hết đoạn đường, đứng ngay trước cổng nhà bà, tôi mới nhận ra. Nhìn bát canh trơ khấc toàn bánh đa, tôi giật mình, thôi chết rồi, tý nữa bà ngoại chẳng thấy thịt đâu, mình sẽ no đòn. Nỗi khiếp sợ bữa đòn làm nước mắt tôi ròng ròng chảy, cứ đứng đực ra.

 

Cho đến khi canh nóng thành canh nguội, bánh đa trương phềnh hết cả lên, tôi mới bê bát canh vào biếu bà. Nhìn thằng cháu mắt đỏ hoe, bà hỏi, bị mẹ đánh sao, tôi đành thú thật, vừa ăn vụng hết năm miếng thịt trong bát canh mẹ sai mang biếu bà. Nghe thằng cháu kể xong, bà móm mém cười:

- Bà còn cái răng nào đâu, mà ăn thịt. Thôi thằng cháu lấy cho bà cái bát!

 

Tôi không hiểu bà sai lấy bát để làm gì. Khi đưa bát lên, bà san nửa bát canh, bảo thằng cháu ăn. Tôi thoáng lưỡng lự mươi giây, rồi không kìm được, xì xoạp vài miếng, bát canh đi veo. Bà cười, xoa đầu thằng cháu, bảo rằng ngoan.

Tôi ăn vụng bận đó mà không bị đòn. Cha mẹ tôi thuộc diện ít đánh con, thỉnh thoảng có cho vài vọt vào mông. Nhiều nhà đánh trẻ dữ lắm, thẳng tay giáng vào mặt, vào đầu, có người đá đến gãy chân con; người thì trói con lại đánh, hay dìm xuống nước. Mẹ tôi  kể, hồi bà còn bé, có nhà hàng xóm, ông bố để bãi cứt trước mặt con, bắt nó ăn, thằng bé không chịu và những đợt gậy tới tấp giáng xuống.

 

Chuyện thứ hai: Uống rượu vụng.

Nhà tôi ít anh em, kinh tế vào loại tàm tạm, lại dân ăn gạo sổ, nên hiếm khi bị cái đói hành hạ. Đại ý, ngày thơ ấu không bị lép bụng. Tháng tháng mẹ mua được con mè, con trôi, dăm tháng có con gà toi, hay nhảy ổ, vỡ trứng, rồi cỗ bàn, tết nhất… Những bữa như vậy, tuy không thừa mứa, nhưng cũng dịu bớt nỗi thèm khát. Nói là nhà tôi kinh tế vào loại tàm tạm, song sự thèm khát của tôi thỉnh thoảng cứ diễn ra. Như nhà hàng xóm có cỗ bàn, bạn khoe: Ê ê… nhà tao hôm nay thịt gà nhé! Ê ê, hôm nay nhà tao có giỗ!… Thế là thèm thuồng.

 

Tôi nhớ một lần ăn vụng nhớ đời. Sau này lớn, có lúc nghĩ lại, vẫn tủm tỉm cười một mình. Phải gọi đó là lần uống vụng. Đi ăn cỗ, hay nhà có khách, tôi thấy người lớn thường uống rượu. Bố tôi không phải người hay rượu, chỉ uống khi giỗ chạp, tiếp khách. Không biết tự bao giờ, trong tôi nảy sinh ý tò mò, rượu nó ra sao nhỉ? Chắc ngon, bổ lắm! Thế nên người lớn mới nhâm nhi. Mỗi lần người lớn uống, cữ chỉ một hai chén, rót lưng lửng. Chưa hết, Tết, cửa hàng hợp tác xã mua bán chỉ phân phối cho mỗi nhà chai rượu mùi, hoặc rượu chanh. Người buôn lậu phải giấu diếm, đựng rượu trong săm xe đạp quấn quanh bụng, hay trong nồi chân giả nước tiểu. Mấy ông phòng thuế bắt được, các bà buôn rượu lậu khóc nhều nước mắt, nước mũi, lẽo đẽo theo sau xin. Người lớn bảo, ngày trước ấy à, nấu rượu lậu, chứa rượu lậu, nhà đoan phát hiện, tù mọt gông!

 

Ý nghĩ thử rượu cứ lởn vởn và sự tò mò ngày một lớn trong tôi. Một hôm tôi nghĩ bụng, tại sao mình không uống vụng nhỉ? Uống rượu vụng với tôi không khó, chai rượu cha tôi để ngay trên nóc tủ, không chằng buộc, chỉ nút lá chuối, bên ngoài quấn lớp ni lông. Hôm ấy cha mẹ đi vắng, anh chị đi học cả, một cơ hội thuận lợi cho tôi. Tôi đóng cửa, cài then cẩn thận, bê chai rượu trên tủ xuống, rót hẳn nửa bát.

 

Mùi rượu thơm lừng như kích thích tôi. Hăm hở, tôi đưa bát rượu lên miệng. Không hiểu sao, lúc trước ngửi, mùi rượu thơm lừng, quyến rũ, khi kề sát miệng, nó lại xốc lên cay xè, chặn họng tôi. Ngập ngừng, tôi dừng lại, hạ bát rượu xuống. Quái, sao nó lại thế nhỉ? Rất nhanh trí tôi nghĩ, mình nín thở, không ngửi, mà chỉ uống. Một lần nữa tôi đưa bát rượu lên, làm một ngụm tướng. Dù nuốt vội vàng, hơi rượu cay xè vẫn xốc lên, đủ để tôi ho sặc sụa. Ngụm rượu một nửa to hắt ra, nửa kia kịp trôi tọt vào bụng. Mồm cay xè, tôi phì phì nhổ rượu cùng nước dãi, nhổ đến lúc không còn gì nhổ được nữa. Tưởng ngon ngọt, ai dè nó vậy.

 

Nhìn bát rượu trên bàn tôi vừa muốn đổ đi, vì chưa hết cảm giác sặc nôn, vừa tiếc rẻ, những nửa bát rượu. Chợt một sáng kiến nảy ra trong tôi. Người lớn uống quen, còn mình chưa quen, pha đường vào, chắc sẽ ngon, dễ uống hơn. Đấy, mỗi lần ốm, mình uống thuốc, mẹ đều cho đường vào nhé. Thế là tôi xúc đường đổ vào bát rượu, khuấy. Chờ đường tan, tôi đưa bát rượu lên. Lần này có kinh nghiệm sặc rượu, nên tôi cảnh giác, lưỡi nhè nhẹ nếm thử. Than ôi, dù đã pha đường, thứ nước đường rượu vẫn đắng ngắt và cay nồng. Mới nhấp lưỡi một chút, tôi đã không chịu nổi.

 

Nhà tôi nuôi con Mực. Suốt ngày nó quấn quýt quanh tôi. Lúc trước nghe động thìa bát, con chó sấn đến, mắt hau háu nhìn. Cái lưỡi thè ra liếm chân tôi. Nó thực sự trở thành kẻ đồng loã trong vụ uống rượu vụng của tôi. Bát rượu uống thì không được, đổ đi lại tiếc, còn con Mực cứ hau háu chờ đợi, cái đuôi ngoáy tăng tít, nịnh bợ, xem ông bạn của nó có chia sẻ cho cái gì không. Ừ, sao mình không cho nó uống nhỉ, đỡ phí của! Tôi đặt bát rượu xuống nền nhà, con chó sán lại, thục mũi hít hít. Ơ kìa, sao nó nghểnh lên, xem ra nó dửng dưng. A, mày chê à! Tôi túm đầu con chó, dí mạnh cái mõm nó vào bát rượu. Vừa bị nhúng xuống, nó đã vùng ra, lại còn hất đổ luôn bát rượu. Sau khi vùng vẫy, thoát khỏi tay tôi, con chó chạy thục mạng vào gầm tủ, từ trong ấy kêu ư ử và lấm lét nhìn ra.

 

Đoạn sau bữa rượu uống vụng ấy tôi không rõ tiếp diễn thế nào.  Tôi đã say vì nửa ngụm rượu và ngủ thẳng cẳng ngay trên nền nhà. Trưa, cha mẹ tôi về, thấy cậu quý tử nằm sõng soài, ông bà cuống cuồng lo sợ, không biết thằng con trai mắc bệnh gì.

 

May có hàng xóm đổ sang, họ kịp nhận ra mùi rượu nồng nặc và đoán ra lý do, tôi say rượu. Tôi được lay gọi, đổ hết cả bát nước rau muống sống hoà đường vào miệng, rồi bôi vôi gan bàn chân và gối đầu lên cái chổi rơm cho rã rượu. Tuy thoát cơn say, nhưng đến mấy ngày sau, người tôi còn đỏ mẩn. Người ta bảo, ấy là dị ứng rượu.

Ăn vụng, biết cách chùi mép, thì chỉ mình mình biết, mình ăn vụng. Sạch sẽ lắm! Nay tôi thỉnh thoảng vẫn ăn vụng, nhưng có kinh nghiệm trong bài học ăn vụng ngày bé rồi.

 

Nghe giao hưởng bằng tay

 

Nhớ chuyện học đàn của con gái lớn, suýt thì tôi mất đi tình bạn với cậu em nhạc sỹ  Doãn Doãn. Suýt mất bạn vì câu nói đùa khi tôi nhờ Doãn mua giúp cây đàn. Doãn dắt tôi lên phố Nhà Chung. Trước khi đi, tôi bảo Doãn:

- Con tao mà có khiếu âm nhạc là... vô phúc.

Thằng em tròn xoe mắt, mặt sầm xuống.

- Sao, anh lại nói vậy?

Tôi vội thanh minh:

- À không. Ý tao không phải vậy. Cái nghề của mày khó khăn, khắc nghiệt quá! Cả vạn, triệu người, mới có một, hai thành danh. Thành danh như mày chẳng hạn.

 

Đến một lúc Doãn Doãn mới nguôi ngoai.

Tôi hay đùa Doãn: Cái nghề chỉ huy nhạc của ông, bất nhã quá. Ai đời, cả một nhà hát toàn người bặt thiệp đến nghe, vậy mà các ông cứ chổng đít vào mặt người ta múa đũa.

 

Cứ chê người, chứ thiên hạ bảo, nghề báo của tôi, toàn những kẻ nhòm mồm và thóc mách lời người khác, viết.

Tôi làm quen và chơi với Doãn có mục đích hẳn hoi. Trước đó thì mình hâm mộ cậu ta - nhạc sỹ. Mục đích của tôi là chơi với nhạc sỹ, mình cứ nhẩn nha tìm hiểu, chắc chắn  kiến thức âm nhạc dần dần nâng lên. Như tôi cứ túc tắc hỏi cậu ta những câu đại loại như: để thưởng thức, rung động một tác phẩm âm nhạc, cần phải tư duy như thế nào...Cậu em Doãn Doãn mười sáu năm học trường nhạc, mình chỉ mất tý thời gian và chầu bia dăm chục ngàn, đã học được khối ra. Vừa rẻ, nhanh, lại tiện. Trong quá trình chơi với Doãn, tôi cũng giấu tiệt thứ dốt âm nhạc và khiếu thưởng thức hơi lùn của mình.

 

Đại ý là lúc trao đổi với Doãn về âm nhạc, tôi thường nói:

- Tớ thích nhạc cổ điển, rồi nhạc nhẹ cũng thích. Thích lắm cơ!

 

Nghe vậy, Doãn Doãn đưa cho tôi tập đĩa. Về nhà tôi cố gắng nghe, vặn vô lum rõ to, mà chả thấy hay. Thực ra thì tôi chỉ thích anh dân ca và chèo, khoái nhất món tân cổ giao duyên. Song tôi không thể khoe ra thẩm mỹ cải lương kia. Một lần Doãn rủ tôi đi thưởng thức đêm giao hưởng trình diễn ở nhà Hát Lớn. Chỉ huy dàn nhạc là một ông người Tây nổi tiếng. Tôi không nhớ rõ tên ông ta là gì. Hình như Pô - đếch, hay Pô - đéc gì đấy. Chỉ đọc báo thấy giới thiệu ông ta nổi tiếng lắm.

 

Vào nhà hát, nhìn lên sân khấu, tôi choáng ngợp vì lượng nhạc công, nhạc cụ, đông và nhiều thế. Nhạc cụ, cái thì to như cái dậm, cái thì sáng loáng, loe ra như chiếc mâm đồng. Quá tò mò, không kìm được, tôi hỏi Nguyên, cái to tô và loe ra kia là đàn gì? Doãn trả lời, kèn tu ba. Cái ... đang định hỏi tiếp, chợt nghĩ ra, thế thì lộ toé toè loe trình độ âm nhạc của mình, đành nín thinh, tự quan sát, học hỏi lấy. Tôi cố nhập tâm về hình thù và nhẩm đếm số nhạc công, nhạc cụ. Thôi thì sau này có ai hỏi cũng biết đằng, để thể hiện một bản giao hưởng, người ta cần đến bao nhiêu cái đàn, bao nhiêu người đánh nhạc.

Đúng bảy rưỡi, đêm nhạc bắt đầu. Ông nhạc trưởng người Tây to cao, tay cầm cái đũa vung lên, tiếng đàn, tiếng trống rầm rầm chuyển động. Tôi tự nhủ, mình phải hình dung xem bản nhạc nó thể hiện điều gì. Tiếng trống bung bung, đây chắc là trống trận, tôi đoán. Thùng, thùng, thùng, nghe như trống hộ đê mùa lũ. Tiếng kèn tò te tý te.... diễn tả gì nhỉ? Khó hình dung quá. Chẳng ra buồn, chả ra vui, tôi tạm đặt là nhạc công bố sổ xố. Giá cứ ai oán, buồn đau như mấy ông phường kèn đám ma, thì lại dễ hình dung. Phân tích, tưởng tượng mãi bản giao hưởng, không ra cái gì. Chã lẽ vừa đánh trận, vừa hộ đê, vừa công bố sổ xố, tôi đâm chán. Ngồi không, tôi xoay ra ngắm nhà ông nhạc trưởng.

 

Công nhận rằng, ông Tây Pô - đếch này múa khoẻ, cứ vung tay, vung chân liên tục, một phút vung đến trăm nhát. Thảo nào, trông ông ta to khoẻ thế. Sau một lúc quan sát ông nhạc trưởng Tây, tôi rút ra quy luật, cứ khi tay ông ta vung lên, thì trống phách  rầm rầm, khi tay ông ta hạ xuống, tiếng đàn nhẹ bẫng đi.

 

Sự phát hiện ra quy luật ấy không giúp tôi chú ý được bao lâu. Và tôi chẳng còn chăm chú quan sát ông nhạc trưởng vung tay, vung chân nữa. Tiếng nhạc, tiếng đàn thập thình làm tôi lơ mơ buồn ngủ. Giấc ngủ nhẹ đến từ lúc nào. Đang là rà, bỗng bên tai, tiếng vỗ tay đôm đốp làm tôi choàng tỉnh giấc. Nhìn sang Doãn Doãn, thấy cậu ta đang vỗ tay, tôi vội vàng vỗ tay theo. Lại một tác phẩm khác. Bản này âm thanh cũng hoành tráng, lên bổng xuống trầm như bài trước. Nó cũng làm tôi lơ mơ buồn ngủ, song cố kìm. Mình mà ngủ, đến lúc người ta vỗ tay, không vỗ theo, thì chướng. Tôi ngủ mà như thức, thức mà đang ngủ, cứ dựa lưng vào thành ghế, lim dim, y như người đang thưởng thức âm nhạc thật. Bản nhạc vừa kết thúc, mọi người vỗ tay, tôi cũng vội vàng vỗ tay theo, khi họ đứng lên, tôi cũng đứng lên, vỗ to, vỗ dài y như họ.

 

Tôi phải vỗ tay và đứng lên đến mươi lần, buổi giao hưởng của ông nghệ sỹ chỉ huy người Tây Pô - đếch mới kết thúc. Trước khi ra về, cậu em Doãn Doãn  hỏi tôi:

- Anh thấy thế nào?

- Hay! Hay tuyệt!

- Thế thì... khi nào có giao hưởng, em lại mời anh thưởng thức.

Quý, quý hóa quá! Không thích, lại bảo rằng thích; không hay lại bảo rằng hay; không biết lại giả như biết; biết mà lại như không biết. Buồn cười thế đấy!

 

Chương : 1    2   3    4    5   
Trọng Huân
Số lần đọc: 1455
Ngày đăng: 30.07.2009
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Chết - Phan Huy Đường
Hư thực - Phùng Văn Khai
Cái giá của cuộc sống - Arundhati Roy
Sống Đời Bát Nhã - Trần Kiêm Ðoàn
Kiếp người xuống xuống, lên lên - Nguyễn Đức Thiện
Cành hoa đào lửa - Trương Thái Du
Mùa xa nhà - Nguyễn Thành Nhân
Giấy trắng - Triệu Xuân
Khói mây Yên Tử (Truyện Trần Thủ Độ) - Vũ Ngọc Tiến
Ba nhà cải cách- Tiểu thuyết lịch sử - Vũ Ngọc Tiến
Cùng một tác giả
Kỷ niệm thơ (truyện ngắn)
Lỗi em (truyện ngắn)
Bức hoạ (truyện ngắn)
Thật Mặt (truyện ngắn)
Nhân cách đói (truyện ngắn)
Mất ngựa (truyện ngắn)
Kẻ trông chùa (truyện ngắn)
Ao làng (truyện ngắn)
Khóc nghề (truyện ngắn)
Khi người ta đói (truyện ngắn)
Kỷ vật (truyện ngắn)
Ngõ xóm (tạp văn)
Con nhà sẩm (truyện ngắn)
Hoài niệm... (tạp văn)
Hàng xóm (truyện ngắn)
Cuốn sổ tay (truyện ngắn)
Chuyển nhà (truyện ngắn)
Số kiếp…! (truyện ngắn)
Tôi cưới vợ (truyện ngắn)
Chết… vì nhục (truyện ngắn)
Làng ma (truyện ngắn)
Đêm tân hôn! (truyện ngắn)
Thằng đói (truyện ngắn)
Viếng ma (!) (truyện ngắn)
Vĩ nhân (truyện ngắn)
Cúc ơi! (truyện ngắn)
Hoa cúc quỳ (truyện ngắn)
Sống gửi... (truyện ngắn)
Ông sư… (truyện ngắn)