Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.858 tác phẩm
2.760 tác giả
1.078
123.164.953
 
Bụi vết tháng năm
Trọng Huân
Chương 3 - 3

CHƯƠNG III – THỜI SINH VIÊN

 

Cốc vật chất

 

Tôi học nghề thú y. Sinh viên khoa khác nhìn chúng tôi thèm thuồng, sau này có nghề cầm tay - hoạn lợn. Hình ảnh ông thợ hoạn quần ống thấp ống cao, nón mê úp đầu và cuộn dây thừng, miệng rao khắp ngõ, hoạn lợn, hoạn lợn….. ơ. Sau khi ra trường, mấy năm đầu, bạn bè khoá tôi, khối vị hoạn lợn mà sống tốt. Phương châm ngành là phòng hơn chống, nhưng đa phần, giáo trình dạy chữa bệnh là chính. Chữa từ con lợn va vào cái gai, đến xô vào cọc rào, nhiễm trùng, chữa; bệnh nhiệt thán, chữa; bệnh lao, chữa; bệnh... chữa tuốt. Có thầy giáo bảo, sau này mỗi tỉnh, huyện, còn mở bệnh viện gia súc. Không thấy ai nói bác sỹ thú y mở phòng mạch, như Tây mở phòng mạch chữa trị chó mèo cả. Không rõ tại sao, thời gian học của chúng tôi kéo dài đến thế. Bác sỹ thú y khóa tôi học đến năm năm ba tháng. Tính ra chúng tôi học kiến thức chuyên môn chỉ non ba năm, còn lại học tập lao động và bắn súng.

 

Tập bắn súng thì phải ra sân bãi, lăn lê bò toài, ôm súng ngắm đích. Trước đó sinh viên cả tuần nghiên cứu, học tập trên giảng đường khâu lý thuyết. Dạy lý thuyết là một chàng sỹ quan, cả lớp phải gọi bằng thầy. Dạy bắn súng mà rất khoái người khác gọi là thầy. Hồi ấy, vào các trường quân sự, đa phần là diện học sinh tốt nghiệp phổ thông không dám thi đại học, vì lực học sè sè, họ rẽ ngang sang quân sự. Như anh giáo kia, thành thầy dạy thiên hạ bắn súng. Chàng sỹ quan đứng giảng lý thuyết bắn súng hôm đó, vào giờ ra chơi, để khẩu súng tơ hơ trên bàn. Có mấy sinh viên vốn là cựu quân nhân, võ vẽ biết súng ống, mò lên, tý toáy nghịch ngợm, giương súng, bóp cò:

- Đoàng!

 

Đang giờ ra chơi, mấy đứa sinh viên ngồi tán gẫu trong giảng đường giật bắn cả mình, còn lũ ngoài sân, ào ào kéo vào xem tiếng nổ vừa xảy ra. Trên bục giảng, anh chàng nghịch súng mặt tái ngơ tái ngắt, trần nhà có vết vỡ to bằng cỡ cái bát ăn cơm và dưới sàn, một đám vụn vữa vừa rơi xuống. Ông thầy quân sự mặt cũng tái me tái mét. Chắc ngài sỹ quan bây giờ mới nhớ, quên…. viên đạn trong súng. May mà hôm đó, trong lúc giảng bài, thầy không ngứa tay bóp cò, bóp là có sinh viên toi. Vụ này làm to ra, thì anh thầy giáo dạy bắn súng kia ra quân là cái chắc. Đấy, dạy quân sự, học tập bắn súng thời sinh viên của chúng tôi là như thế!

Đa phần sinh viên con nhà nông, vẫn phải học tập lao động cấy lúa, gánh phân, nuôi lợn. Một buổi chúng tôi lao động nhổ có đậu. Do lớp phó lao động mặc cả không kỹ, công khoán nặng, chúng tôi lãn công. Lão khoán việc của trường là bậc cao thủ, xoay ra tính theo thời gian, ngày nhổ tám tiếng và lão ta chống nạnh trong chỗ dâm giám sát lũ sinh viên lao động. Mới đầu chúng tôi cứ mâm mê từng gọng cỏ, trêu tức. Được một lúc, khi mặt trời lên cao, không chịu nổi, mồ hôi anh nào chị ấy nhễ nhại. Cuối cùng, chúng tôi đành xuống nước, xin trở lại mức khoán cũ.

 

Lớp tôi hai tám đứa, được giao sáu sào ruộng. Đầu vụ, lúa má cấy xong, bao nhiều phân tro nhà trường cấp, đem đổ hết xuống đồng, cả phân đạm, lân, ka li, phân chuồng, bón lót, bón thúc một thể. Suốt cả vụ không một ai ngó ngàng ra đồng. Thỉnh thoảng có lớp trưởng, hoặc lớp phó lao động đảo ra ngắm lúa, nhổ cỏ bằng mắt. Đến vụ, cả lớp ra thu hoạch, gánh trĩu về những bông lúa lép. Đào tạo kiến thức lao động và hiểu biết về cây lúa của kỹ sư nông nghiệp chúng tôi đại để như vậy!

 

Nhất tự vi sư, bán tự cũng vi sư - dạy một chữ cũng là thầy, nửa chữ cũng là thầy. Học đại học, chúng tôi học biết bao nhiêu chữ, nên có biết bao nhiêu thầy. Thầy trò ngày ấy khổ, nhưng thầy biết trò, trò nhớ thầy và có bạn. Nó khác bây giờ, sinh viên chẳng ai biết ai, nhớ ai. Chữ mua bán, đạo thầy trò tuân theo quy luật giá trị thị trường mất rồi. Qua mấy năm học, tôi học qua biết bao thầy cô, người thì hài hước, người thì nghiêm nghị, nhưng đều nhiệt huyết, được trò yêu quý.

 

Giải phẫu là một môn quan trọng của ngành tôi theo học. Giáo viên giảng dạy môn này là cô Mây Trắng. Cô là giáo viên rất nghiêm túc, khắt khe, học sinh sợ cô một phép. Ngoài lý thuyết, môn học dành tới nửa thời gian thực hành. Cơ sở thực hành đặt ở khu nhà giữa cánh đồng, cách ký túc xá khoảng hai cây số. Buổi sáng học lý thuyết đến gần mười một rưỡi, ăn cơm xong, sinh viên tranh thủ làm giấc trưa, rồi mắt nhắm mắt mở tới khu thực hành.

 

Sợ cô Mây lắm, nhưng nhiều tiết thực hành, sinh viên vẫn đến muộn. Nếu đến đúng giờ, thì cũng lờ đờ buồn ngủ. Hôm đó chúng tôi mắt nhắm mắt mở kéo nhau đi thực hành. Trong phòng, trên bàn, tiêu bản là các bộ phận cơ thể gia súc bày ngổn ngộn. Chúng được ngâm tẩm và mới được vớt ra trong các bồn chứa phoóc môn. Phòng thực hành chật chội, trời nóng, ngột ngạt mùi hoá chất. Chúng tôi chả ai chú ý đến bàn giáo viên bày xếp gì. Khoảng năm phút sau, cô Mây trong chiếc áo choàng trắng bước vào phòng.

 

Sinh viên uể oải đứng lên. Lướt một lượt học sinh, cô Mây gật đầu. Thường khi trò đứng lên chào, cô quan sát kỹ lắm. Cô đang điểm danh đấy. Anh, chị nào vắng mặt, hay đến muộn, hãy coi  chừng. Sau khi cô gật đầu, học trò vừa lục tục ngồi xuống, đã giật thót mình, tiếng cô Mây quát lạc cả giọng:

- Ai... ai làm?

Chúng tôi tá hoả nhìn lên, chưa rõ cô quát gì. Đến lúc này học trò  mới để ý bàn của cô. Trên mặt bàn, hai giáo cụ trực quan sinh học bằng thịt thật, bộ phận sinh dục ngựa đực, bộ phận sinh dục bò cái...  cắm chặt vào nhau. Ngay lúc đó mọi người trong lớp đã đoán được tác giả của tác phẩm trên là ai. Không ai nói ra, không thì một suất đuổi học. Cứ nghĩ, bước ngoặt cuộc đời, lắm khi từ những nguyên nhân rất dấm dớ. Người thì cho là quan trọng, người bảo rằng không. Anh bạn đó, giờ cũng làm ăn được. Chắc rằng, nếu hồi đó phải khoác ba lô rời trường, hoàn cảnh nay sẽ khác, mà nguyên nhân, chỉ vì một việc nghịch dại.

 

Lớp tôi đã qua môn giải phẫu của cô Mây, nhưng sau đó sinh viên bảo vệ luận văn, cô có chân trong hội đồng giám khảo, các trò vẫn hãi. Sợ thì sợ, lũ sinh viên vưỡn không chừa được thói trêu chọc cô. Trò trêu đủ kiểu. Thí dụ, gặp cô, chúng trang nghiêm chào thật to, tiếng chào réo rắt, không lẽ cô bắt bẻ, chào gì to và dài thế!

 

Cô Mây bị một bữa chúng tôi chào cho, nghĩ đến tức cười. Trường tôi có mấy khu vệ sinh, khu dành riêng cho ký túc sinh viên; khu dành cho giảng đường; khu dành cho cán bộ tập thể. Thường các nhà đó nằm tách biệt, cách nơi ở vài trăm mét. Với các nhà vệ sinh của sinh viên, trên bức tường che phía trước, đề rõ to tên khoa. Thí dụ: Khoa Thú y, tức là nhà vệ sinh đó do sinh viên khoa Thú y phụ trách dọn dẹp, không phải trụ sở làm việc của khoa. Thực ra sinh viên có dọn dẹp bao giờ đâu. Hồi ấy phân bắc quý như vàng, được bãi nào ra đã có người trực sẵn ở đấy hứng luôn. Nhưng vẫn bẩn, cơ man nào là bẩn.

 

Buổi đó lớp tôi lao động gần nhà vệ sinh khu tập thể cán bộ. Thoáng thấy bóng cô Mây tiến về phía lớp đang lao động, một đứa thì thầm thông báo: Chúng mày ơi, cô Mây đi.... Chú ý, tí nữa, tất cả đồng thanh nhé. Y như rằng, cô có việc riêng tư ấy. Cô đi tới. Thoáng lúng túng, đi chậm chậm lại, rồi cuối cùng, cô đành phải bước. Để cô tới rõ gần, ngay trước chỗ chúng tôi đang lao động, cả lớp đồng thanh:

- Chúng em chào cô ạ!

Cô Mây lúng túng, nhưng đành đáp lễ.

- Chào các em!

 

Đáp lời trò xong, cô vội vã bước vào khu nhà kia. Lại một đứa thì thầm:

- Tý nữa, tất cả nhé!

Học sinh có đứa bụm miệng cười, đấm lưng nhau thùm thụp. Dăm mười phút sau, cô Mây từ trong ấy đi ra. Học sinh đứa cúi xuống giả bốc đất, đứa xắn đất, tất cả đồng loạt dừng công việc, thẳng tưng người lên:

- Chào cô ạ!

 

Cô Mây đành phải dừng lại, nói mấy câu cho phải phép:

- Lớp hôm nay lao động ở đây à?

Tiếng học trò nhao nhao:

- Thưa cô, vâng ạ! Cô lại nhà ạ!

 

Khúc khích những tiếng cười. Cô Mây lúc này chả tiện bắt bẻ học sinh như trên giảng đường. Bất ngờ được trò giải trí, khi cô đi còn chưa xa, cả lớp cười rũ ra. Không ngờ, lát sau chúng được bữa nữa. Được khoảng nửa tiếng, một đứa lại phát hiện, cô Mây vào rồi lại ra. Cậu ta liền thông báo:

- Chúng mày ơi, hình như hôm nay… Tào Tháo nó đuổi cô Mây. Tao thấy mấy bận cô ấy thập thò rồi.

Cậu kia chưa nói dứt câu, có đứa cướp lời luôn:

- Đúng! Cô ấy đang ra kia kìa!

Mấy đứa ngó lên, nhìn nhanh và vội vàng cúi xuống.

Có tiếng thì thầm:

- Nhớ nhé... tý nữa nhé!

Cô Mây lúc này đã tới gần. Cô bước nhanh, bước như định thoát khỏi lũ trò quỷ sứ của cô. Nhưng cô... không thoát. Mới vượt được nửa chừng, cả loạt học sinh ngừng tay, lễ phép đứng lên:

- Chào cô ạ!

Đến nước này, thì cô Mây chả còn sức đâu lịch sự, đáp lễ lũ sinh viên trời đánh kia nữa. Cứ thẳng cánh cô bước.

Đám học trò sợ xanh mắt.

 

*

Hồi sinh viên, học trò lớp tôi được dự một đám cưới của thầy. Đó là thầy Văn Hoàng. Ngày cưới thầy, cả lớp xúm vào góp tiền mua đồ mừng, mà chỉ tặng nổi cái chậu thau men hoa Trung Quốc. Hôm chúng tôi đến dự, phòng cưới là gian nhà giáp khu điều trị gia súc và thực hành. Bên kia tường, trâu bò kêu ò ò. Ai tinh mũi, còn ngửi thấy cả mùi phân. Cái chậu thau mừng sau bị mất, vì cửa giả tềnh toàng, một bữa trộm vào nhà khoắng tiệt. Thầy Hoàng là học trò yêu của thầy Phạm Gia. Thầy nào trò ấy, họ giống nhau thế, nghiêm nghị, nhiệt tình và sống rất tình người.

 

Thầy Phạm Gia dạy chúng tôi là khoá cuối cùng nghề thầy, trước khi ông sang nhậm chức Cục trưởng. Ông là một trong những nhà nội khoa hàng đầu của ngành. Thầy hiền hoà, kiến thức uyên thâm và rất thương trò. Chuẩn bị thi môn nội khoa, lớp tôi mời thầy phụ đạo, lại đúng vào dịp thầy sắp đi nghiên cứu ở Philippin.

 

Là người biết nhiều ngoại ngữ, tiếng Tàu thầy học ở Trung Quốc, tiếng Nga tự học, tiếng Pháp,... Trước khi sang Philíppin, ông thầy gần năm lăm tuổi, cấp tốc học tiếng Anh. Sức học của thầy kinh dị thật, chỉ thời gian ngắn, mà sang nước người, đi một mình không lạc đường, lại còn trao đổi được và công trình tốt nghiệp dày hai trăm trang, toàn bằng tiếng Anh. Do công trình  xuất sắc, với tư cách là đại biểu Philíppin, thầy dự hội nghị khoa học về ung thư, do Nhật Bản tổ chức.

 

Trở lại buổi bồi dưỡng trước khi lớp tôi thi, đi Tây lúc đó là một cơ hội đổi đời, hoặc chí ít cũng mang về dăm trăm đô la, hay cái xe máy se cần hen. Chúng tôi tập trung ở giảng đường chờ thầy Gia phụ đạo. Nửa tiếng, một tiếng, không thấy thầy đâu. Nghĩ thầy không đến, chúng tôi bỏ về ký túc. Học trò đâu biết, ông đang phải đánh vật với các thủ tục cho chuyến đi. Bất chợt học trò thấy thầy lọ mọ vào ký túc xá. Thầy bảo, không phải ra giảng đường, thầy phụ đạo luôn tại phòng. Ngay sau đó, thầy ngồi tệt xuống sàn ký túc, học trò quây quần quanh nghe ông giảng. Thầy lấy luôn sàn phòng làm bảng, viết vẽ minh hoạ. Ông thầy mồ hôi nhễ nhại, say sưa giảng giải, làm trò rất cảm động.

Thầy có chiếc xe máy con vịt xanh, thường dựa dưới sân giảng đường. Giờ ra chơi, lũ sinh viên nhảy lên, cưỡi lòng vòng quanh sân, còn ông thầy hớt hải, xin trò:

- Đừng… đừng các em ơi!

 

Tiếng xin yếu ớt và bất lực của ông thầy, càng làm lũ trò nghịch tợn và cười rũ rượi. Một lần vào buổi tối, có anh chàng phòng tôi ra phố, nhà thầy ở ngoài khu tập thể của trường, không rõ hôm đó có việc gì, thầy vào trường. Đến cổng trưởng, anh bạn xô phải xe thầy. Trời tối, trò chỉ nhận ra ông thầy qua tiếng xin lỗi rối rít:

- Xin lỗi ông! Tôi xin lỗi ông!

Anh chàng buồn cười quá, không dám lên tiếng, đạp xe chuồn thẳng.

 

Khi thầy đã làm Cục trưởng, chức to lắm rồi, chúng tôi có chuyến đi thực tập xuống Văn Mỹ. Vớ phải ca bệnh phức tạp, trò nghĩ tới thầy Phạm Gia. Anh em bàn nhau, hôm nay là chiều thứ Bảy, chắc thầy về nhà nghỉ, thử đến nhà hỏi và xin một lời khuyên của thầy. Chiều muộn, tôi và lớp trưởng đạp xe đến nhà thầy. Nghe trò trình bày, không những nhiệt tình giảng giải, ông Cục trưởng còn xách luôn xe, đêm hôm cùng trò mò mẫm xuống cơ sở. Đêm đó thầy ngủ lại tại nơi trò thực tập. Hôm sau bà chủ nhà chúng tôi trọ, kể và cứ khen ông giáo nhiều chữ. Bà bảo, đêm qua ông giáo mơ, toàn xì xồ tiếng Tây. Bà già nhà quê đâu ngờ rằng, ông khách ngủ lại ở nhà mình, chức to và kiến thức nhiều lắm lắm.

 

Sáng hôm sau chúng tôi cứ ngượng cho thầy. Trò chỉ muốn mời thầy đến tư vấn, còn việc cụ thể, thì phó cho trò. Thấy trò bắt lợn, thầy xắn quần, nhảy vào bắt cùng. Một ông Cục trưởng bắt lợn và giảng cho sinh viên ngay trước cửa chuồng gia súc, có là ông thầy số một, thầy Phạm Gia.

 

Tôi từng nhìn gà đẻ, chó đẻ, bò đẻ, người đẻ,... Ngày bé người lớn thường doạ trẻ con, nhìn gà đẻ là bị lang ben. Doạ để trẻ mỏ không tò mò xem. Người ta quan niệm, xem gia súc, gia cầm đẻ là xấu, nhất là con trai. Sợ bị lang ben, tôi vẫn rình rập xem gà đẻ. Có bận thấy quả trứng trong ổ, con gà vừa đẻ ra, tôi vội lấy, cầm đi khoe và bị cha tôi mắng cho một trận. Tôi còn xem trứng nở thành gà con và bị mò đốt đỏ mẩn người, phải xông bằng cây thuốc giun, mới hết mò. Tò mò nên tôi phát hiện ra, người, chó, gà,... không phải từ nách ra, như mẹ tôi bảo.

 

Người đẻ thì ngày bé tôi được xem hai bận. Một lần bà đẻ mặc áo và cởi truồng, đứa trẻ và người mẹ dính vào nhau bằng đoạn nhau thai và ông xích lô cuống cuồng đạp xe chạy trên phố, chở đến bệnh viện. Lần thứ hai, một bà vừa từ đò lên, đẻ luôn trước cửa nhà tôi. Mấy người phụ nữ quây lại, vừa che, vừa giúp bà đẻ. Tôi cố nhìn, mà chỉ thấy đứa trẻ đỏ nhoe những máu.

 

Xem bò đẻ thì không phải riêng tôi, mà gần như sinh viên các khoa trường tôi bỏ cả ăn trưa xem, như một trận đấu bò Tây Ban Nha. Nhà ăn của trường làm kinh tế ba bằng cách mua con bò về nuôi. Con này bé lắm, đã giống bò gié, lại đói ăn, gầy tong teo, chỉ nặng độ bảy, tám mươi cân. Lúc mua không ai nghĩ nó đang chửa, tận lúc có biểu hiện chuyển dạ, người ta mới nhận ra. Con bò đẻ khó, phải ra bệnh viên Thú y của trường mời bác sỹ. Thầy Hoàng thực hiện ca này. Con bò được nhốt trong khoảng đất rộng cỡ trăm mét vuông, xung quanh hàng rào vây cao. Con bò đẻ thật hung dữ, cứ xông vào húc và thầy phải chạy xoay quanh nó. Sinh viên bâu lại ồn ào, càng làm con bò thêm kích động. Vừa tránh nó húc, vừa xoay con bê đã nhô ra một phần, có lúc thầy Hoàng phải nhảy vọt qua hàng rào. Cuối cùng ca đỡ cũng thành công. Sau đẻ, bò mẹ trở nên hiền khô, loanh quanh bên bê con, liếm láp. Chắc buổi xem bò đẻ đó, sinh viên các khoa thấy thầy Hoàng là một người yêu nghề và nghề thú y cũng nguy hiểm đấy chứ.

 

Giờ thầy Văn Hoàng là Phó cục trưởng. Mấy năm nay dịch dã xẩy ra liên miên, thầy vất vả chỉ đạo phòng chống dịch. Trong dịch dã có căn bệnh lợn tai xanh. Đây là bệnh mới, qua một dự án người ta nhập nó vào Việt Nam. Ngay ngày đó, thầy là người đầu tiên phát hiện và công bố trước một hội nghị. Chỉ vì chút quyền lợi cỏn con, mấy người thực hiện dự án ỉm đi, thầy chẳng làm gì được. Nay ta mất cơ man nào là công của chống dịch. Giá mà ngày đó, người ta nghe ý kiến của thầy! Giá mà có cái giá mà đó, thì chắc chẳng có bao dự án viển vông, như dự án phổ cập con bò sữa chẳng hạn, tốn tiến tỷ, tiền ức của dân. Ai đời bò sữa nhập về có tới sáu cái ti, thừa ra những hai cái. Hay có huyện lãnh đạo máu mê dự án đến mức, gỡ gạch và phát cây cảnh ở sân uỷ ban, sân huyện uỷ để trồng cỏ voi, chuẩn bị cho phong trào dự án bò sữa.

 

Mới đây tôi và mấy anh bạn đến thăm nhà thầy Hoàng. Đợi một lúc thầy mới từ Cục đi làm về. Thầy mặt đỏ phừng phừng, vẻ người có hơi men, ông giải thích:

- Tớ vừa làm mấy cốc. Mình vốn có bia bọt gì đâu. Nhưng chiều nay bực quá! Mấy tay nhà báo, hỏi thế mà cũng hỏi!

 

Tôi liền đùa:

- Thầy ơi, trò của thầy cũng nhà báo đây. Không biết đằng nào mà hỏi là nghề của chúng em!

- Cậu khác. Thôi, hôm này thầy trò mình làm chầu bia nhé.

 

Thầy liền vào phòng trong, bê ra két bia và mặc cả, phải uống hết mới được về. Thầy và trò chúng tôi là vậy. Nay thầy, trò tóc bạc cả lượt rồi. Khi lũ trò ra về, mới đến cổng, tôi nghe thầy bảo, đợi một tý, rồi xách chai rượu Tây ra tặng tôi. Nhận chai rượu thầy cho, tôi đùa:

- Thầy ơi, lại chương trình rượu giả phải không ạ?

- Giả, giả là thế nào! Rượu biếu ông Cục phó, mà còn giả à!

 

Thầy ơi, biết đâu được đấy! Có thật chăng là thật cái cuộc lũ trò hôm nay đến thăm thầy!

Trong số các ông thầy hài hước, phải kể tới thầy Nguyễn Bá, dạy môn truyền nhiễm. Tôi và thầy có nhiều kỷ niệm, nhất là đợt thực tập ở Cổ Loa. Hồi ấy thầy trò kéo vào thăm đình Cổ Loa, rồi xuống lễ ngôi chùa sau đình. Chúng tôi nói mãi và đưa cả lễ là lải chuối ra, nhà chùa mới cho vào. Không hiểu sao, nhà chùa bắt tất cả phải sắn quần và nói, không phải vì lễ, mới cho chúng tôi vào. Thầy trò túa vào khắp các ban xem tượng. Thầy Bá khấn lễ giỏi. Hôm đó có cô bạn nhờ tôi khấn hộ. Tôi tủm tìm cười nhận lời luôn và đứng trước ban thờ, nghiêm trang chắp tay trước ngực, cô bạn cũng chắp tay hồi hộp đứng bên cạnh. Tôi cao giọng khấn: Con lạy trời, lạy Phật! Đây là cô bạn, quê Nam Định. Cô ấy nhờ con khấn giúp, khấn sao cho cô ấy chóng lấy được chồng. Nghe vậy, cô bạn hãi quá, tái cả mặt, lủi mất.

 

Sau ngày ra trường cỡ mươi năm, tôi rủ một cậu em nhà báo sang thăm thầy. Cũng mừng cho thầy, nhà rất to và đẹp. Thầy Bá hơn tôi dăm tuổi. Trò vẫn là trò. Gặp lại thầy giáo cũ, tôi vẫn một điều thầy, hai điều thầy, còn ông hài hước, gọi lại tôi bằng ông. Chỉ dãy rượu ngâm và rượu Tây bày la liệt trên tủ quanh tường phòng khách tầng ba, ông hỏi:

- Ông uống gì nào? Hôm nay tôi chiều hết. Phải say mới về.

- Thầy cho chai rượu giả!

- Giả là giả thế nào! Bây giờ có phải gì cũng giả cả đâu! Đây toàn Tây xịn của người ta. Ông muốn giả, xuống hỏi mấy nhà nghiên cứu về thuốc kéo dài thời kỳ nở hoa, kết trái của nhãn, vải. Ối giời ơi, có rặng nhãn trong vườn thực vật, các vị nhà ta đem thuốc thí nghiệm ra phun. Hàng nhãn có mười bảy cây, các vị  quên phun mất một, đến vụ, mười sáu cây được phun, thì tịt hoa, riêng cây quên phun thuốc thí nghiệm, hoa, quả  tràn trạt. May rặng nhãn nó nằm chỗ khuất, không phơi ra, cả nước biết. Đấy, thuốc nghiên cứu thật đấy!

 

Tếu táo thế thôi, thầy Bá của tôi sống tình ra phết. Hồi ở trường, thường chúng tôi hay kéo ra chỗ ở của ông, vừa tào lao, vừa tắm rửa, giặt rũ.

 

Nhớ một dịp sau ngày hai mươi tháng mười một, trước khi giảng bài, thầy bảo có bài thơ, đọc cho trò nghe. Bài thơ Ông lái đò. Câu kết của bài thơ là cảnh khách lên đò hết rồi, chẳng mấy ai ngoái lại nhìn ông nhà đò. Cả lớp yên lặng. Thôi rồi, thầy trách, ngày Hiến chương các nhà giáo, không trò nào ra thăm thầy. Hồi đó không có lệ phong bì đâu, đến bó hoa cũng không có. Thầy chỉ trách là trách cái tình trò.

 

Ông thầy Dương Đình dạy môn chăn nuôi, học ở Tàu về, hóm hỉnh, thâm thuý. Gần như các tiết dạy của ông, giảng đường luôn rộn tiếng cười. Có lần đưa sinh viên ra trại thực hành, chỉ lũ lợn lăng quăng trước mặt, ông xua tay, rồi buông câu:

- Toàn lợn đeo kính thế này, thì chăn nuôi nỗi gì!

Nghe thầy nói, nhiều trò không rõ, chỉ có mấy đứa rinh rích cười. Ông thầy nói lái, lợn đeo kính, tức là lợn kinh đéo. Bây giờ nông dân nuôi lợn, bốn, năm tháng, nặng tới sáu, bảy mươi cân, chúng chưa tới kỳ động dục, đã đủ mức xuất chuồng. Còn hồi ấy, nuôi tám, chín tháng, con lợn mới nặng cỡ xách tay, mà chúng đã tý tởn thành lợn thiếu nữ, hoa đỏ rực. Cám bã nuôi, độc tốn cho khoản động hớn của chúng. Đúng như lời ông thầy nói, chăn nuôi cái nỗi gì.

Một lần lớp chúng tôi ra trại thực hành, đúng vào lúc thầy đang lúi húi thụ tinh nhân tạo cho con lợn, một cậu bạn tiến lại, khơi mào:

- Thưa thầy, thầy đang ... làm gì đấy ạ?

 

Phản ứng rất nhanh, ông thầy thâm nho, hóm hỉnh trả lời ngay:

- Ấy là.... tôi đang sản xuất thịt cho các cô cậu ăn đấy!

Một ông thầy nữa hồi sinh viên tôi hay tha thẩn xuống thăm, là thầy Đặng Thế, một người hom hem, gày yếu. Thể xác gày, nhưng tinh thần, thì tràn trề nhiệt huyết, truyền đạt kiến thức đời thầy cho trò.

Xuống chơi mà tôi cứ buồn. Thầy có chiếc bếp dầu nhỏ xíu, ba chân kiềng nhỏ như ba chiếc nan hoa xe đạp. Ngọn lửa vàng nhón nhén, nấu đồ ăn như sắc thuốc bắc. Thấy bảo, bữa ăn sáng của thầy là xuống khu chợ của trường, mua quả chay chín. Tôi không dám hỏi ông, chuyện ấy có thật không. Sao khổ đến thế thầy ơi! Cuộc đời ông là chuỗi buồn. Dân miền Nam tập kết, chơi đàn hay và say mê khoa học. Một cô sinh viên vì tiếng đàn ghi ta đã đến với thầy. Lúc phụ nữ yêu, người ta mộng mơ lắm, sống trong lãng du. Khi bước vào cuộc sống gia đình, họ chẳng còn mơ mộng nữa, không thể yêu những giấc mơ lãng đãng của chồng. Thế là thầy đơn độc trên con đường đi tới toà lâu đài khoa học và cả trong mái ấm gia đình mình.

 

Con đường khoa học lắm chông gai, nó gặm nhấm, tỉa rỉa và ông còn bị những vụn vặt của cuộc đời, như tem gạo, đậu phụ, nước mắm, vải giày vò. Đến thời dạy chúng tôi, thầy vẫn nhiệt huyết, cái nhiệt huyết chắt ra của một ông thầy mệt mỏi, già nua.

 

Năm ấy lớp tôi tham gia hội diễn văn nghệ của trường. Mấy năm liền tôi viết kịch bản hội diễn, có năm còn tham gia hội diễn các trường đại học. Nhìn cái áo ba đờ xuy của thầy, thấy hợp với nhân vật chúng tôi đang xây dựng, một nhà nghiên cứu tâm huyết, hừng hực với khoa học, chúng tôi liền mượn áo thầy. Sau buổi diễn, hể hả về sự thành công của vở kịch, chúng tôi quây quần bên ấm trà, chúc tụng lẫn nhau. Trong khi đang chén chú, chén anh, thì thầy Nguyễn Bá ghé vào. Nhìn thấy nhân vật diễn vẫn mặc cái ba đờ xuy, thầy bảo:

- Các em chưa trả áo cho thầy Đặng à? Thầy chỉ có tấm áo ấy. Cho các em mượn, thầy rét đấy!

Vì vô tình, chúng tôi không đứa nào biết, ông thầy chỉ có mỗi tấm áo chống rét, lũ trò lại mượn.

Dù đêm khuya, trời lạnh, chúng tôi, những sinh viên nghèo và cũng rét, vội vã lên khu cán bộ trả lại áo cho thầy.

Giấc mộng khoa học không thành, chuyện gia đình dang dở, cuối cùng, thầy chọn con đường kiếm tiền cứu mình, tức là thi chuyên gia. Số thầy long đong. Chuyên môn, kiến thức dễ dàng vượt qua, nhưng cái cửa tưởng như bình thường, lại không vượt nổi. Khi khám sức khoẻ, bác sỹ phát hiện, thầy bị suy dinh dưỡng và nhiều bệnh quá. Ông giáo đại học bị suy dinh dưỡng. Thầy phải vào bệnh viện Việt - Xô điều trị. Ngày thầy nằm viện, một xe ô tô chở sinh viên tự nguyện sang tiếp máu cho thầy. Thầy già tiếp cho trò kiến thức khoa học và lúc thầy ngã bệnh, học trò đói tiếp máu cho thầy!

Những tấm lòng thơm thảo của trò, không cứu nổi ông thầy già. Vài ba tháng sau, thầy Đặng Thế vì suy dinh dưỡng, mà ôm lâu đài khoa học về thế giới bên kia.

 

Thầy Tới Đích dạy sinh hoá. Ông đôn hậu và nhiệt tâm với sinh viên, say sưa nghiên cứu, học tập và đọc sách. Là thầy rồi, mà hầu như lúc nào cũng thấy ông kè kè cuốn sách, rỗi lúc nào là đọc lúc đó. Cảm giác như cứ nhìn thấy thầy là thấy ông đọc sách, trừ lúc giảng bài. Sinh viên đùa, bịa ra và kể vui với nhau: Từ giảng đường đến khu nhà cán bộ có cái hồ. Thầy Tới Đích mải đọc sách, mải quá, bước xuống hồ mà không hay biết, đi và đọc tiếp. Đi và đọc cho tới khi nước ngập cuốn sách, thầy mới nhận ra, mình đang giữa hồ.

 

Môn sinh hoá của thầy cơ khó và không hiểu sao chúng tôi phải học và nhớ lắm công thức thế. Riêng cái vòng cờ rép, công thức đến cả trang giấy, cứ lòng vòng nguyên tố H nối với nguyên tố C, nguyên tố C nối với nguyên tố O. Đói và học trong ánh đèn dầu tù mù, sinh viên hoa cả mắt trước rừng vòng cờ rép. Sau này đi tiêm phòng, điều trị gia súc, gia cầm, chắc chả có anh chị bác sỹ thú y nào đem cái vòng đó ra sử dụng.

 

Nhớ lần thầy Tới Đích hỏi thi vấn đáp hết môn, cùng ngồi hỏi thi có thầy trưởng bộ môn. Buổi trưa thầy trưởng bộ môn giao lại cho thầy Tới Đích hỏi, thầy cặm cụi hỏi và trò cặm cụi trả lời. Thi thông trưa, thầy không ăn uống gì cả. Đến hai giờ chiều, thầy trưởng bộ môn đến, thầy huỷ hết kết quả của thầy Tơi Đích hỏi thi. Tình đồng nghiệp lạ quá không biết. Thầy Tới Đích chắc buồn lắm, còn trò chúng tôi khiếp sợ. Ở giảng đường, biết kết quả bị huỷ, một cô bạn quá hoảng loạn, cười như điên. Tiếng cười man dại truyền dọc hành lang, ảm ảnh tôi đến tận bây giờ.

 

Thầy Tới Đích học, rồi thi và đi nghiên cứu sinh ở Đức. Học được vài năm, bức tường Béc Lanh đổ, thầy xin ra khỏi Đảng và nhập đạo Tin Lành. Về nước, thầy làm việc ở phòng Khoa học của trường. Có lần gặp lại, thấy thầy để bộ râu rất oách, thầy đưa tấm các vidít, tên kèm theo tên thánh. Một lần tôi đến thăm nhà thầy ở phố Thái Cơ, trong câu chuyện, thầy bảo ơn Chúa, nên mới được phúc, đang dưng nhà ra mặt đường lớn, nhà lên đến vài trăm cây vàng. Tôi nghĩ, nhờ cả đức đôn hậu, chân tình của thầy nữa chứ. Thầy còn bảo, hằng tuần vào chủ nhật, cả nhà đều đi nhà thờ lễ Chúa. Thầy hứa sẽ tặng tôi sách lễ và giáo lý nhà thờ.

 

Sinh viên lắm cái khổ. Cả ký túc xá chỉ có mấy vòi nước chảy lò rò. Đa phần sinh viên tắm rửa nước ao, hay ra con mương gần trường. Cạnh khu nhà giữa sân trường, có cái vòi nước, sinh viên quây quần tắm rửa. Nhiều khi, giữa ban ngay ban mặt, từ giảng đường nhìn xuống, thấy cảnh nam sinh lồng lộng đứng thay quần áo. Nhiều hôm, ban đêm vòi nước mới chảy, đám con trai cứ thiên nhiên tắm. Không còn cách nào khác, chị em đành chen lấn vào hứng nước. Lợi dụng cảnh trời tối, nhiều cậu, cứ lồng ngồng, tì cọ vào chị em.

 

Học trường tôi còn đỡ. Tôi có dịp đến mấy trường chuyên nghiệp ở Vĩnh Phúc, chỉ riêng nạn rệp thôi, đã cơ khổ. Tối ở lại, tôi không ngủ được. Con rệp to cỡ gần bằng nửa hạt đỗ xanh, nhưng mỏng dính, chỉ khi hút máu no, mới to dày lên. Rệp có mùi hôi rất khó chịu. Khó chịu nhất là nó đốt, ngứa, ngứa đến râm ran. Giống rệp rất oái ăm, nó nghiện đốt người lạ, cứ khi ngủ ấm hơi người và không có ánh sáng đèn, nó mới nhao ra đốt. Nó rất nhanh và ẩn cũng tài tình. Để diệt rệp, sinh viên giả ngủ, rồi bất ngờ bật điện và đồng thanh nhổm dậy, tìm nó mà diệt. Giống này sống cực dai. Có đứa làm thí nghiệm, bắt rệp nhốt vào chai, mấy tháng sau bỏ ra, nó vẫn sống. Sinh viên ở vùng Vĩnh Phúc, về tới nhà là xuống ngay bếp, lột quần áo, thả vào nồi nước sôi, diệt rệp. Người ta kiêng, nhà mà xuất hiện rệp, thì làm ăn lụn bại.

 

Nhớ hôm tôi lên chơi, lúc về, các bạn ra ga Vĩnh Yên tiễn. Nhìn cái ghế trống, tôi định ngồi, mấy bạn phẩy tay, bảo rệp đấy. Một lúc sau, có đôi nam nữ, chắc từ nơi khác tới, thấy ghế trống liền ngồi xuống. Mấy anh bạn tủm tỉm, sắp được bữa cười. Được một lúc, dù rất lịch sự, đôi uyên ương kia, hết anh tới chị, kín đáo… gãi, rồi đồng thanh cả hai cùng gãi. Đám bạn tôi phá lên cười. Đôi kia biết mình ngồi phải cái ghế ngứa, bẽn lẽn đứng lên.

 

Ngày ấy trò đói, thầy khổ. Kết thúc giờ học sáng, tới mười một rưỡi, đám con trai lên giảng đường thường giắt theo thìa trong túi, hết giờ học là lủi ngay xuống nhà ăn, không phải tốn sức, phí thời gian leo mấy tầng cầu thang ký túc để lấy thìa, bát. Thiếu và đói tới mức, có năm Nhà nước hết gạo, có chính sách, tháo khoán cho sinh viên về nghỉ Tết sớm và kéo dài hè. Ở khoa Cơ điện, có vụ thách đố, một anh chàng cởi truồng chạy ra giữa sân để lấy tờ tem gạo năm cân. Cờ đỏ mà bắt được, đuổi học là cái chắc. Còn chuyện cắm quán, rồi chạy làng, thuổng bánh, thuổng chuối của mấy bà bán quà vặt là thường.

 

Tôi nhớ một vụ đố ăn. Sau bữa ăn trưa, một anh bạn bê về phòng bốn cái bánh mì, suất ăn của bốn người về muộn và cậu ta mua một nải chuối khá to. Đùa vui thế nào, dẫn đến cuộc đố ăn, vừa ăn cơm xong, ai ăn hết bốn cái bánh mỳ và nải chuối. Một cậu hăng hái nhận lời. Nghĩ lại cuộc thi, cái đói đã đè bẹp lòng tự trọng, vừa thấy nhục của sự đói, vừa được một phen phát kinh. Anh chàng kia ăn xong bốn cái bánh và nải chuối, nuốt đến quả cuối cùng, trông mà thương, cậu ta cứ ngớp ngớp như rắn nuốt ngoé. Ăn xong một lúc, do nó quá, anh chàng đau bụng, quằn quại, người ta gọi là bội thực. May mà nôn ra được. Đến giờ tôi vẫn kinh bãi nôn lổn nhổn những chuối vàng vàng, lẫn với bánh mỳ trăng trắng, nhoe nhét dưới sàn.

 

Tôi không đến nỗi như cậu bạn kia, ăn đến bội thực ra và nôn ra, nhưng ngày ấy hay ước ao: về nhà, mẹ mua cái chân giò, luộc lên, thái ra và chỉ mình thôi, ngồi chén, chén kỳ hết. Ước mơ cái chân giò, ăn hết cái chân giò, tầm thường quá. Lý tưởng, chí hướng bao thứ không mơ, lại mơ miếng ăn, cái uống! Những người lắm chí hướng và lập trường cứng, chắc chả mơ ước thế đâu?

 

Cậu sinh viên kia đói, ăn phải nôn ra, chưa bằng cảnh trường tôi có khu vườn, bao năm sưu tầm được nhiều giống loài thực vật khắp nước, chặt tiệt, để trồng đậu tương, trồng lạc chống đói. Đau nhất là trại nghiên cứu có đàn lợn ỉn thuần, trông rất buồn cười, vì thiếu cám, thiếu gạo, chúng bị đem ra giết tiệt - khoa học không quý bằng thịt. Bây giờ, có lẽ cả nước chẳng kiếm đâu ra con lợn ỉn thuần nào nữa. Tài sản mấy nghìn, vạn năm của xứ Viết ta đấy!

 

Chúng tôi ăn cơm sinh viên, sáu đứa một mâm, lũ con trai cứ nháo nhào đổ tuốt tuột thức ăn vào một xoong, xúm lại, lấy thìa xúc. Cái xoong lũng bũng cơm, rau, đậu và xàu xàu bọt, mà không ai khiếp. Việc chung đụng làm bệnh truyền nhiễm lây lan trong sinh viên và cảnh ăn uống chả văn hoá tý nào, nhà trường phải viết, vẽ khẩu hiệu khắp tường nhà ăn: Cấm ăn cơm bằng thìa. Hồi đó lắm khẩu hiệu và cấm lắm thứ lắm. Cấm ỉa đái bậy, đặc biệt cấm ỉa đái bậy trên mái thượng; cấm rửa ráy, hắt nước từ trên gác xuống; cấm buổi tối tụ tập nói chuyện, tâm sự yêu đương trước nhà nữ sinh; cấm hái hoa quả ở vườn thực vật; cấm đun điện; cấm chặt bổ giường và lan can cửa để đun nấu; cấm…. Nhà trường còn phối hợp cấm sinh viên vào hàng quán trong làng  giáp trường ăn quà. Vì không tuân theo, một lần chúng tôi bị dân quân làng ấy quây, lên cò súng lách cách, hô và đuổi đằng sau. May họ không bắn, hay bắt được, nếu không có đứa chết do ăn đạn lạc. Chết vì miếng ăn, chết vì những thứ cấm ngớ ngẩn, đói mà cấm ăn quán, ăn là đạo đức xấu.... Ngày ấy mạng người như nghéo. Có bận lũ sinh viên xông vào đánh một anh chàng vào tán gái trong trường. Tưởng cậu ta chết rồi, sinh viên dừng tay, nhưng còn tưới dầu hoả vào cái xe đi a măng của cậu ta và châm lửa đốt.

 

Sáng nào sinh viên cũng phải dậy sớm để tập thể dục. Thể dục theo tinh thần Nguyễn Công Hoan cho nó khoẻ. Đói cơm, hít khí trời trong lành bù vào. Mùa đông dậy từ năm giờ mười lăm, lớp nào xếp hàng theo lớp ấy, khoa ấy, cùng thi đua để thành khoa, lớp xã hội chủ nghĩa. Mấy thầy cô từ khu tập thể giáo viên lên giám sát sinh viên, rồi đội cờ đỏ, rồi đoàn trường,... Sau khi tập thể dục xong, mọi người giơ tay cùng hô to:

- Thể dục cho nó khoẻ!

- Khoẻ để xây dựng chủ nghĩa xã hội!

 

Hô xong, sinh viên giải tán. Bảy giờ mười lăm lên lớp, mới năm giờ ba mươi, còn sớm quá, nhiều đứa lên giường chùm chăn ngủ tiếp. Vừa ấm lại đỡ đói.

 

Môn triết chúng tôi học năm thứ nhất. Giảng dạy môn này là thầy Trường Kỳ. Thầy trán gồ bướng, cái mũi chun chun, trông rất hề. Triết học vốn khô khan, nhưng với cách giảng hài hước của thầy, lũ sinh viên học không ngán. Dù không chán, nhưng đánh đu với các khái niệm triết học, nào vật chất, cặp phạm trù,... sinh viên vẫn chật vật học, nhất là cái định nghĩa vật chất của ông Lê nin, thuộc như cháo chảy, mà chẳng rõ ông ta nói gì.

 

Giảng về quá trình phát triển sản xuất, thầy Trường Kỳ nói, sẽ từ cơ khí hoá, điện khí hoá, rồi đến hoá học hoá. Chất hữu cơ tạo ra từ mấy nguyên tố: hy đờ rô, các bon, ni tơ và ô xi. Như vậy, khi đến thời kỳ hoá học hoá, ở đầu bên này của nhà máy, chuẩn bị than đá và nước, một anh công nhân dùng xẻng xúc than vào, một chị công nhân dùng thùng đổ nước vào, muốn gì, thí dụ: thịt, gỗ, vải, chỉ bấm vào cái nút, đầu bên kia nhà máy, thịt, gỗ, vải tuôn ra ào ạt. Lúc đó, không giai cấp, không nhà nước, không pháp luật, không hết! Thầy bảo, mọi người sẽ được hưởng theo nhu cầu và họ tự giác lắm, nó nhiễm vào gen rồi. Nghe ông nói, sinh viên đang đói, cứ ước ao, chong chóng đến thời kỳ ấy cho sung sướng. Có bận nghe giảng, có trò hỏi:

- Thưa thầy, lúc đó còn đoàn thanh niên không ạ?

Thấy thoáng lúng túng:

- Không, à.. à... có chứ.

- Thưa thầy muốn hưởng theo nhu cầu cái gì và mức nào cũng được ạ?

- Tất nhiên! Như anh muốn mấy đĩa thịt bò xào cũng được. Cứ việc ngửi, cứ việc ăn, thoả thích. Chỉ có lao động là phân phối thôi, vì ai ai cũng ước ao lao động, tranh nhau lao động. Tranh đua nhau, nên phải phân phối, phải áp dụng chế độ tem phiếu lao động, như tem phiếu thịt bây giờ.

 

Rồi thầy cười và sinh viên ai cũng sung sướng cười theo, mơ tới thời kỳ hưởng theo nhu cầu, để kẻ ước thoả mãn nhu cầu cục vàng, kẻ ước thoả mãn cái ô tô, người ước thoả mãn đĩa thịt chân giò luộc chấm mắm tép,…Nghe thầy giảng vậy, anh em chúng tôi ở ký túc rỗi việc, phát triển thêm lý luận của thầy và đùa với nhau rằng: Lúc ấy người ta tốt lắm, chả ai phạm tội nữa, nên chả ai phải đi tù. Nhà tù chỉ giữ lại để thỉnh thoảng người ta vào tù cho biết cảm giác tổ tiên ngày trước chịu cảnh tù tội nó như thế nào thôi. Có khi phải phân phối phiếu tù nữa.

 

Cái món thịt bò xào tỏi, tác giả là thầy. Trong các tiết học, thầy thường đưa ra nhiều hình ảnh minh hoạ cho phần nội dung bài giảng triết. Minh hoạ thầy mang ra nhiều nhất là món thịt bò xào tỏi, minh hoạ rõ tới mức, chúng tôi thuộc lòng cách thức xào thịt bò như thế nào, mặc dù đa phần lũ sinh viên chưa một lần được rờ chân đến cửa hàng ăn. Thầy cứ chun mũi, nhíu trán, tả cách thức anh đầu bếp xào thịt bò:

- Thịt bò thái mỏng nhé, mỏng tang ra thế này này. Thầy giơ tờ giấy ra minh hoạ. Mỡ... mỡ nhé, tỏi nhé, phi già lên, rồi thả thịt vào, đảo nhanh. Xèo… xèo, thịt nó xoăn lại. Thơm… thơm là!

 

Ông chun mũi, khịt khịt hít, còn giọng…. dài ra. Ngon đến thế cơ mà, ai chẳng thèm thuồng được hưởng theo nhu cầu. Buổi trưa sinh viên đói, bụng kêu ùng ục, lại ngửi thấy mùi thịt bò thơm lừng của thầy giảng, đâm ra anh nào chị nấy tứa nước miếng. Có cậu còn thò tay xuống túi quần, sờ cái thìa, vô tình làm nó rơi xuống nền nhà, kêu đánh keng. Thầy nghe thấy, cười:

- Đói rồi hả? Thôi không ngửi, không ăn thịt bò xào tỏi nữa. Cho giải tán. Bây giờ cứ xuống nhà ăn, ăn tạm cơm độn bo bo đi. Mai kia thoải mái mà ăn thịt bò xào tỏi. Chỉ sợ lúc đó không có sức ăn.

Không ngờ rằng, chẳng chờ đến thời kỳ hóa học hóa, chỉ hai mươi năm sau, nếu có nhu cầu thịt bò xào tỏi, thì tôi thoái mái mà ăn, chỉ sợ không có sức.

 

Hồi đó học, sinh viên hay tranh luận. Nhân học phần giá trị thặng dư và bọc lột, tôi đưa ra một ví dụ, cánh tranh luận với tôi, trong đó có nhà lý luận kiêm lớp trưởng và bí thư. Ví dụ như sau, tôi và các đời con cháu sau này làm ăn lương thiện, hàng tháng trích ra một phần tiền lương gửi tiết kiệm. Số tiền ấy là tiền sạch, không bọc lột của ai nhé. Mười, hai mươi đời sau, tức hàng chút chùn chụt của tôi, số tiền đủ mua chiếc mày cày. Công cụ sản xuất góp phần nâng cao năng suất lao động, cậu chút chùn chụt của tôi ấy giàu lên tú hụ, mà chả bóc lột ai. Lắm tiền, vậy nó còn là giai cấp vô sản, hay thành nhà tư sản? Có nên căm thù và mang nó ra cải tạo không? Các vị kia chịu không trả lời được.

 

Chuẩn bị cho thi môn triết, thầy Trường Kỳ phụ đạo cho lớp. Ban cán sự chụm đầu lại, xem trong giờ phụ đạo, lớp bồi dưỡng món gì cho thầy. Hồi ấy chưa có đoạn trò biếu thầy phong bì, ban cán sự quyết định bồi dưỡng món nước chè đường. Không rõ ai mượn được cái ca nhôm ở đâu ra mà to thế, đựng được cả lít nước. Ca nước chè tàu đặc, hoà cả lạng đường vàng hoa mai, đặt trên bàn thầy. Thầy Trường Kỳ say sưa tổng kết, tập hợp các kiến thức triết học. Tất nhiên, trong phần minh hoạ về vật chất, ông không thể quên anh thịt bò thái mỏng, xào tỏi thơm lừng. Khoảng gần cuối buổi, học trò thấy thầy giờ cao cái ca nhôm to cả lít:

- Các em cho biết, đây có phải là vật chất không?

 

Học trò râm ran:

- Đúng ạ, đúng ạ! Vật chất đấy ạ!

Thầy cao giọng, hỏi tiếp:

- Thế vật chất là cái này phải không?

Trong khi nói, thầy dốc ngược ca lên.

Lác đác có tiếng trả lời và vội dừng ngay. Cái ca nước chè to tướng, pha đậm đặc đường hoa mai đã hết tự lúc nào không hay. Hết đến mức, thầy dốc ngược lên, không còn thấy một giọt nước đường hoa mai nào rỏ xuống. Mấy vị trong ban cán sự vội nháy mắt cho nhau, nhanh tay pha tiếp cốc nước chè đường, mang lên bục giảng cho ông thầy triết học.

 

Trâu cười

 

“Dân Thanh Hoá ăn rau má phá đường tàu”. Mới đầu tôi cứ tưởng chỉ mỗi xứ Thanh nhà ta mới ăn rau má, sau này vào Nam, thấy hàng giải khát bày bán nước sinh tố rau má, tôi cứ ngạc nhiên.

Năm học thứ tư chúng tôi về thực tập ở đầu tỉnh Hải Hưng, huyện Mỹ Văn bây giờ, hình như tên xã đó có nghĩa là con đường vui. Tôi không nhớ tên ông chủ nhà lũ sinh viên chúng tôi trọ.

 

Nhà có ông bà chủ và bà mẹ già, họ đều cao tuổi. Bà mẹ khoảng ngoài tám mươi, cụ bị ốm đau gì đó, suốt ngày nằm trong buồng. Trọ, song sinh viên chỉ ngủ, còn ăn uống, thì hợp tác lo, làm thôn nào, ăn cơm thôn đó. Khoảng trưa, hay chiều muộn, chúng tôi mới về nhà trọ. Những lúc về nhà trọ, tôi đều thấy ông chủ lóc cóc băm đám rau má. Ông ta băm kỹ càng lắm và cũng chỉ có một nhúm rau thôi. Tiếng băm lách cách, đều đặn. Tôi dân ăo gạo sổ, nhà không nuôi lợn bao giờ, nhưng học nghề liên quan đến lợn gà, nên cũng biết chút ít kiến thức dinh dưỡng cho gia súc. Thấy cảnh ông già cần mẫn băm rau, ngạc nhiên, tôi hỏi anh bạn lớp trưởng, người cùng nhóm thực tập:

- Ông này, tôi thấy lạ, trưa, chiều nào ông chủ cũng chí chát băm rau lợn. Rau lợn gì phải băm kỹ thế, lại chỉ có một nhúm?

- Lợn đâu mà lợn! Băm cho người ăn đấy! Băm rau má để độn, ghế vào cơm.

- Ăn rau má? Độn rau má?

- Chứ còn gì nữa! Không biết à? Ngày nào ông ta chẳng băm. Để độn rau má, người ta phải băm kỹ, cơm sắp cạn, thì ghế vào. Đói, dân ở đây đói lắm!

 

Đến lúc này tôi mới ngẫm ra, làng quê hiu hắt, gia đình chúng tôi trọ còn hiu hắt hơn, như nhà hoang. Bức tranh làng quê không mái ngói đỏ tươi và rộn ràng tiếng kẻng báo xã viên ra đồng, như một bài tôi học trong sách cấp I phổ thông. Tôi cứ tưởng tượng, căn nhà chúng tôi trọ là ngôi nhà trong truyện ngắn Quái dị của Nam Cao. Trừ lúc lũ sinh viên có mặt, thì có tiếng người, còn tịnh không nghe thấy một âm thanh nào, ngoại trừ tiếng húng hắng ho của bà cụ ốm trong buồng vọng ra và tiếng lách cách băm rau má độn cơm của ông chủ. Đến tiếng chó sủa, mèo kêu cũng không nốt.

 

Trong khi dân đói, thì cơm tiếp sinh viên bữa nào cũng thịt cá ê hề. Chúng tôi về thực tập ở đây theo kế hoạch của nhà trường với các hợp tác xã trong huyện để chăm sóc sức khoẻ đàn trâu bò tập thể. Kế hoạch là dạng manh nha kế hoạch ba, làm ăn kinh tế, đổi mới sau này. Công việc gồm hai phần, trước hết là tiếp nước đường cho trâu và sau khi vực sức khoẻ chúng lên, sẽ tiến hành thẩm mỹ - tức vá mũi trâu. Con trâu hai ba tạ, tiếp mấy chục gam đường, khoẻ mạnh lên thế nào được, ngang bằng voi uống thuốc gió! Đám trâu bò còn bị lũ sinh viên chưa quen tay lấy ven tiếp nước, dùng xơ ranh đâm chọc cho, máu vãi ra hàng bát.

 

Ngay buổi đầu tiên, kiểm tra số lượng trâu bò của hợp tác xã cấp cao toàn xã, ông chủ nhiệm thông báo, bảy thôn còn tất cả mười lăm con trâu. Bao năm quản lý chặt chẽ, muốn giết trâu, phải đơn từ trình lên tận chủ tịch huyện, vậy mà trâu bò cả xã còn mười lăm con. Đói, rét và vất vả cày kéo cày ruộng đất tập thể, chúng đâm ra chết dần, chết mòn. Sinh viên hỏi, thế thì lấy sức kéo ở đâu, ông chủ nhiệm thở dài, thiếu đấy, thôi thì lấy sức người ra cuốc xới ba trăm ha ruộng đất của hợp tác xã cấp cao toàn xã. Sau khi bàn bạc, nhóm sinh viên đưa ra phương án, với số lượng trâu bò trên, chỉ tập trung làm độ dăm hôm. Xong việc, tất cả về thăm nhà. Tâm lý sinh viên, ai chẳng thích tranh thủ biến về quê vài hôm. Vừa nghe vậy, ông chủ nhiệm giãy nảy: Sao chỉ dăm hôm. Lên kế hoạch rồi, phải đủ mười hôm. Nói xong, ông ta đọc luôn, chi tiết từng ngày, từng thôn và giơ bản kế hoạch có chữ ký cùng dấu đóng đỏ chót và nhấn mạnh, Uỷ ban xã duyệt rồi.

 

Con trâu là đầu cơ nghiệp, bao đời nay có câu ca vậy. Chỉ đến khi bước vào thời kỳ làm ăn tập thể, con trâu chẳng còn là đầu cơ nghiệp của riêng nhà nông nào nữa, nó là cơ nghiệp chung, toàn dân làm chủ. Sau biết bao lý luận và giáo dục về tinh thần làm chủ tập thể, nó sinh ra thứ tinh thần làm chủ: tôi nghĩ anh giữ, anh nghĩ chị giữ, chị lại nghĩ ông thôn bên giữ, ông thôn bên nghĩ bà xã bên cạnh giữ, để cuối cùng, ai cũng nghĩ ai giữ.

 

Tôi không rõ tinh thần làm chủ tập thể ở các hợp tác xã của phố thị quê tôi ra sao, vì lúc đó tôi còn ít tuổi, không để ý. Chỉ biết rằng, phố thị tôi lắm hợp tác xã lắm: HTX đan cót; HTX thêu; HTX may quần áo; HTX nhuộm; HTX giết thịt lợn; HTX mua bán, gồm dầu hoả, mắm tôm, muối; HTX xe bò kéo; HTX thuyền buồm; HTX lò rèn; HTX chế biến bún và bánh gai, đậu phụ; HTX mộc - đóng tủ, giường và quan tài; HTX thuốc bắc, gồm bắt mạnh, kê đơn và bán thuốc; HTX bốc vác, tức cửu vạn; HTX xây dựng; HTX quét và trông giữ xe đạp ở chợ; HTX chụp ảnh; HTX bán phở và chè xôi (phở này khác phở mậu dịch của nhà nước)… Còn nhiều loại hình nữa định thành lập hợp tác xã, nhưng không thành, như cắt tóc, vì mấy ông cắt tóc dạo, chẳng lẽ buổi sáng trước khi đi cúp tóc, phải tập chung lại họp, rồi ai quản khoản thu, không lẽ một ông thao tác cắt tóc, một ông đi kèm xé vé, quản tiền; làm vàng bạc; mấy bà thu gom phân bắc cũng thế…

 

Nghe nói sau khi tiến xong lên hợp tác xã cấp cao toàn xã, sẽ tiến hành hợp tác xã cấp cao toàn huyện, mỗi huyện là một pháo đài, rồi sau đó lan ra thành hợp tác xã cấp cao toàn tỉnh. Đấy là quyết tâm phấn đấu và định hướng như vậy.

Hợp tác nào cũng đầy đủ bộ phận, gồm ban quản trị, có chủ nhiệm, phó chủ nhiệm và uỷ viên, rồi thủ quỹ, kế toán, ban kiểm soát. Có hợp tác xã toàn cán bộ là cán bộ, xã viên làm việc có mấy mống, nên từng có chuyện, xã viên đi làm, phải nộp thêm tiền theo số ngày công của mình cho hợp tác xã.

 

Trâu cười, chắc chỉ có trong truyện tiếu lâm. Thế mà dưới thời kỳ hợp tác xã, lũ trâu toàn toe toét cười. Của chung, ai cũng thẳng tay giật kéo. Cái mũi bằng thịt, không chịu nổi, toác ra thành cười. Vụ con trâu ở thôn đầu tiên chúng tôi chăm sóc, ông chủ dắt ra. Con trâu đã gầy, ông chủ còn khẳng khiu hơn. Ông này tính vui nhộn, vừa dắt trâu ra, vừa oang oang nói với nó, nói với trâu mà như nói với người:

- Sung sướng nhé! Chuyến này mày được xã hội quan tâm, chăm sóc sức khoẻ đấy! Được tiếp cả nước đường. Quý, quý lắm! Đến như vợ tao là người hẳn hoi, ốm đận suýt chết, phải khênh lên nhà thương huyện, mới được tiếp chai nước đường. Báo cho mày biết, chuyến này các cô cậu sinh viên còn đem mũi mày ra đẽo, cho nó đẹp. Lúc ấy, không còn kiểu khinh mạn, cười nhạo chúng tao nữa!

Rồi ông tiếp:

- Sao mày cứ nghểnh mặt lên cười? Mày có biết kế hoạch tiếp khách không? Còn cười nữa, ông đề nghị cho mày vào kế hoạch tiếp khách của hợp tác xã, thì rồi đời con ạ!

Ông ta nói, còn lũ sinh viên cười rinh rích. Nghe ông nông dân doạ dẫm con trâu về kế hoạch tiếp khách, tôi không rõ ông ta nói gì, sau đó mới hay kế hoạch đó là gì.

 

Trong quá trình phát triển của xã hội loài người, phát hiện ra lửa, ra chữ viết, rồi dùng tiền thanh toán là văn minh của nhân loại. Các phát kiến này, đôi lúc người ta lại bỏ đi, không dùng nữa. Như xã tôi đến thực tập chẳng hạn, họ có sáng tạo, một là họp và thứ hai là dùng vật vật trung gian thanh toán là chó, gà, lợn, thóc. Một cân lợn hơi bằng sáu cân thóc, một cân gà hơi bằng ba cân lợn hơi, một cân chó hơi bằng ba cân lợn hơi, mười tám cân thóc bằng một cân chó hơi. Đấy là công thức hợp tác xã áp dụng tính cho xã viên. Khi nộp sản phẩm chó, gà, lợn, dùng cho các bữa tiếp khách, xã viên ứng trước, không ưng cũng phải nộp. Nếu cần, cán bộ cứ nhảy vào chuồng, vào sân nhà xã viên mà bắt, sở hữu chung mà. Thảo nào, nhà ông chủ tôi trọ, không có tiếng chó sủa, gà kêu. Đến vụ, hợp tác quy ra thóc, trả. Tất cả tính vào công điểm, chia đều, xã viên cùng đóng góp. Công bằng, dân chủ, phát huy được tính quần chúng, mà lại công khai.

 

Anh làm chủ nhiệm đã ba năm

Ba năm vật lộn với khó khăn

 

Cái nhà ông chủ nhiệm, nơi chúng tôi đến thực tập, khác với anh chủ nhiệm của nhà thơ Hoàng Trung Thông miêu tả. Anh này chỉ bận rộn với kế hoạch bắt chó, giết lợn, bố trí nhà xã viên nấu ăn để tiếp khách và họp bàn về quyền làm chủ tập thể.

 

Hợp tác xã họp và lên kế hoạch tiếp chúng tôi rất chi tiết: từng ngày, từng thôn, từng nhà, từng bữa, tiếp bằng lợn, hay chó, bao nhiêu người ăn, đặc biệt vùng này có khoản tiết canh chó, tiết đỏ lòm, ăn mát và bổ lắm! Nghe nói riêng họp cho việc lên kế hoạch tiếp nước đường cho trâu đợt đó, cán bộ đã xơi dăm bữa và dăm con chó bị chết oan. Có tất cả năm khách sinh viên, mà hằng ngày hợp tác xã bố trí tới ba mươi cán bộ tiếp đón. Thành phần chủ nhà gồm: đại diện đảng uỷ, uỷ ban, xã đội, dân quân, hội phụ nữ, mặt trận, thanh niên, y tế,.... Riêng ông chủ tịch xã tiếp khách từ tờ mờ sớm. Ông này rất ưa khoản tiết canh và đôi bầu dục chần tái. Khi sáng con lợn vừa được ngả ra, trước khi ra trực ở Ủy ban, ông chủ tịch tạt vào, xơi trước bát tiết canh và đôi bầu dục chần, cùng dăm chén rượu nhạt.

 

Sáng đó chúng tôi chăm sóc sức khoẻ cho một con trâu. Con này yếu qúa, anh em tiếp nước lại nhanh, nên nó xốc. Sinh viên phải hồi sức cấp cứu mãi, tiêm mấy xơ ranh ca-phê-in, nó mới tinh tỉnh. Mãi mười một rưỡi mới tiếp nước đường cho con trâu xong, chúng tôi kéo về nhà một xã viên, hợp tác bố trí nấu nướng tiếp đoàn bữa trưa đó. Khi tới nơi, chỉ còn mâm cơm phần sinh viên bày ở chiếc chiếu góc nhà. Đợi khách lâu quá, các mâm khác, chủ nhà đành tiếp khách sinh viên trước hết rồi. Nhìn thấy mâm bát còn vương vãi, lũ trẻ ba, bốn đứa, con nhà chủ đang mút mát xương và húp canh dở các mâm. Mò mề xương xẩu đồ thừa xong, lũ trẻ quay ra ngắm nghía đám sinh viên ăn. Lũ trẻ xanh xao, đứa thò lò mũi, đứa bụng ỏng chăm chắm nhìn, chúng tôi không nuốt nổi. Chả ai bảo ai, lũ chúng tôi vội ăn cho nhanh và bỏ lại gần nửa mâm, để đám trẻ còn có cái hôi tát.

 

Ăn xong, chủ nhà mời khách xuống nhà ngang. Bước vào nhà, thấy đủ văn võ bá quan đoàn thể xã, họ đang quây quần quanh mấy chiếu bạc. Mặt mũi ông nào bà ấy tưng bừng vì rượu, họ mới tiếp khách lũ sinh viên.

Làm chủ tập thể thế này, thì ai ai chẳng thích, làm không bao giờ chán. Dịp ấy là vào khoảng giữa năm 1984, khi hợp tác xã nông nghiệp cấp sắp tan.

 

Bầu cho con bò

 

Vào dịp đầu năm thứ năm, tôi đi thực tập tốt nghiệp, giáo viên hướng dẫn là thầy Nhung Lụa. Nhóm thực tập có hai người, tôi và Thiên Nga. Nga quê thị xã Phủ Lý. Chúng tôi về thực tập ở Trung tâm nghiên cứu vịt.

 

Khi mới đến, Thiên Nga bảo tôi, anh giả vờ là người yêu em, thật tình cảm vào. Tôi chả rõ, sao phải làm vậy, nhưng cũng nghe theo, đóng như người yêu thật. Việc đóng không phức tạp gì, chỉ cần xưng anh, gọi em và một vài việc tỏ ra quan tâm giúp, thế là thành yêu nhau rồi.

 

Cũng vì giả đóng yêu, tý nữa tôi mất anh bạn. Tôi và cậu bạn ở cùng phòng ký túc. Cậu ta quê Gia Lộc. Chúng tôi thân nhau. Cậu chàng mấy năm đơn phương yêu Thiên Nga và bao lần thổ lộ với tôi, khi đợt thực tập thấy tôi “tình cảm” với Nga,  tưởng rằng chúng tôi yêu nhau thật, thế là cậu chàng lẳng lặng buồn và đau khổ. Mãi mấy năm sau ngày ra trường cậu ta mới tâm sự ra điều đó. Tình cảm, suy nghĩ của con người phức tạp thế. Cũng chả trách cậu ta, tin bạn còn mất vợ nữa cơ mà!

 

Việc giả yêu, sau này khi thực tập ở đây, tôi mới hay, phụ nữ thật khổ. Và Thiên Nga biết trước những chuyện phức tạp này. Là con gái đi thực tập, lại chưa có người yêu, sẽ rất mệt, mấy ông lãnh đạo cơ sở thực tập xúm vào. Mất bao tháng ngày ăn học, có vượt qua ngưỡng này, mới giành được tấm bằng đại học, nhiều cô đành cố mà chịu.

 

Y như rằng, cái ông lãnh đạo ở trung tâm vịt rất máu dê. Tôi không chứng kiến cảnh dê của ông ta, vì dù có dê, ông ta cũng không dê với tôi. Chỉ nghe kể một câu chuyện đã thấy lộn ruột. Có hai sinh viên khoá trước về thực tập, ông ta thích một cô. Họ ở cùng phòng, ngủ cùng giường. Một đêm, ông kia máu quá, mò vào. Cô sinh viên mà ông ta định tòm tem, lại nằm phía trong. Muốn vào, ông ta phải trườn qua cô sinh viên nằm ngoài. Trong lúc đang trườn, cô nằm ngoài tỉnh giấc, ông kia vội bịt mồm cô ta, trấn an: Anh… không em đâu. Chuyện kín như bưng, mà lạ sao, nó cứ toé ra. Sau đó ở Trung tâm, nhiều người chào nhau bằng câu cửa miệng: Anh… không em đâu. Thật tiếu lâm, thế mà việc hành sự của ông ta vẫn xong.

 

Xin mô tả một chút về ông cán bộ này: Người cao lêu đêu, gày như ống sậy, mặt dạng lưỡi cày chìa vôi. Ấn tượng nhất là đôi mắt tèm nhem, di chứng của tục rửa nước ao tù, nên đau mắt hột. Thứ nữa là cái bình và cảnh ông ta xịt thuốc vào mũi. Bị bệnh phế quản, ông ta luôn giắt theo mình chiếc bình xịt thuốc kháng sinh dòng streptomycin. Cứ lên cơn là ông ta đút vòi vào lỗ mũi, xịt xịt, bóp bóp, trông đến tởm. Hình dong như vậy mà ông ta xơi được khối sinh viên thực tập. Phải chịu với ông ta, kể cũng khiếp!

 

Phép của Thiên Nga áp dụng đâm ra có hiệu nghiệm. Cái ông máu dê kia không dám đụng vào Nga. Chỉ khổ nỗi, cả hai chúng tôi bị hành, lão luôn lèm bèm chửi và bắt thực tập y như là thực tập thật. Căm lão quá, có bận về trường, tôi xin phép thấy  hướng dẫn thực tập tốt nghiệp:

- Em xin phép thầy! Em sẽ chửi cho lão một trận. Lành làm gáo, vỡ làm muôi!

 

May mà thầy gàn, gàn mãi tôi mới nghe.

Cũng chính một chị cán bộ ở của Trung tâm, nhà ở chợ Giời, Hà Nội, căm lão quá, lên tận Bộ trình bày và xin phép một ông Thứ trưởng, đâm cho lão một nhát, rồi cùng chết, hoặc vào tù. Lão từng hành chị. Là cán bộ nghiên cứu, con gái Hà thành, mà lão giao lợp nhà và cày ruộng, cày bằng trâu và chị cắn răng chỉ huy con trâu vắt trái, vắt phải.

Trung tâm vịt được đầu tư khá lớn, thấy bảo, sau này sẽ thành nơi nghiên cứu vịt tầm cỡ quốc gia, tầm cỡ khu vực và quốc tế. Nghe nói nó được các nước xã hội chủ nghĩa anh em đổ vào rất nhiều tiền, quy đổi ra tới cả triệu rúp - đô la. Tầm cỡ thế nào chưa biết, chỉ thấy rằng, trứng đưa vào ấp, đa phần thành trứng vịt lộn và giống vịt Tây  nhập về, nặng ba bốn cân, lai ra thành lũ vịt trắng đẹn, chạy khắp các cánh đồng... Giá như Trung tâm này chỉ cần giữ giống vịt cỏ thuần, hay giống Hóc Môn, Hoà Bình, nguồn gen quý, sẽ rất có ý nghĩa.

 

Một thành quả nữa là lò ấp vịt thủ công, dùng dầu hoả, công trình nghiên cứu khoa học của Viện nghiên cứu vịt đưa xuống. Cán bộ điều khiển, hai lỗ mũi đen như đít nồi, vì phải hít muội dầu hoả từ lò ấp phun ra. Lũ trứng bên trong, chắc cũng thoái mái hô hấp muội dầu. Vì là trứng nên chúng không kêu ca được. Cái lò ấp này rất tai quái, cứ sểnh người ra, nhiệt độ lên vù vù. Có lúc nhiệt kế báo tới bốn lăm độ xê. Vịt, chứ người nhét vào ấp, cũng thành người đẹn.  Thế nên công nghệ ấp vịt chính của trung tâm nghiên cứu này là chảo gang, bếp than và thóc rang ủ trứng, còn điều khiển quy trình ấp là một anh nông dân dạng hợp đồng. Anh này tính hơi bị dở, thích thì làm, không thích thì thôi, có lắm khi anh ta nằm khểnh ra hát chèo, nhiều khi hứng chí còn múa minh hoạ, hai tay vẫy vẫy mềm ra phết. Mấy anh chị cán bộ nghiên cứu của Trung tâm, nghiến răng nghe anh ta sai phái. Họ phải nghe, bởi anh ta được ông lãnh đạo mắt tèm nhem kia cưng chiều.

 

Nhiệm vụ của trung tâm rất nhiều, song quan trọng nhất là khâu đón tiếp kính thưa các đoàn khách của Bộ qua đây. Trong khi đón tiếp, ít thì đưa khách ra đánh chén lòng lợn tiết canh ở mấy quán xá gần Trung tâm, rồi kính tặng mỗi thành viên đoàn vài ba chục trứng nghiên cứu đang ấp dở, sắp thành vịt lộn. Trứng nghiên cứu đưa vào ấp đều đánh sổ, ghi tỷ mỷ về lý lịch cụ kỵ hai bên nội ngoại quả trứng. Công việc của Bộ nhiều, nên các đoàn của Bộ qua đây cũng sẵn, họ cứ đều đặn vào thăm Trung tâm, một tuần chí ít cũng tới mươi đoàn. Tính rẻ, mỗi đoàn khoảng mươi người, mỗi ông hai chục trứng, như vậy là tiêu vãn trứng nghiên cứu. Tôi chỉ là diện sinh viên thực tập, có non sáu tháng, còn được mua tổng cộng tới ba chục quả, về Hà nội làm quà, nhưng là chứng vịt lộn chính cống, không nở được, vịt con đã mọc đủ cả lông lẫn cánh.

 

Hồi đó do hoàn cảnh khó khăn, các cơ sở của ta manh nha làm kinh tế, gọi là kế hoạch ba. Tuỳ theo sự tháo vát và cách làm ăn của từng nơi, kế hoạch ba rất đa dạng. Kế hoạch của trung tâm này là dùng quỹ công đoàn mua con bò. Dịp mua bò đúng vào đợt chúng tôi đến thực tập ở đây. Đất của Trung tâm rộng, không trồng cấy gì, để cỏ mọc hoang, con bò kia được ăn uống tự do. Không như trung tâm nghiên cứu bao đề tài, như: nuôi vịt thế nào để lớn nhanh, mà không tốn thức ăn; trứng vịt loại nào ấp, tỷ lệ ấp ra nhiều… trứng vịt lộn;… Đại loại toàn nghiên cứu tầm vĩ mô. Còn con bò kia chỉ chăm chỉ ăn, chẳng cãi cọ với ai, không phấn đấu chỉ tiêu nào, cũng chả phải ra tiếp khách từ Bộ xuống.

 

Trước kỳ chúng tôi hết đợt thực tập, cũng vào dịp trung tâm họp kiểm điểm và bình bầu, xét duyệt lao động tích cực giữa năm của cơ quan. Ở ta có phong trào kiểm điểm, góp ý lẫn nhau rất hăng, mỗi người phải nêu ra cho kỳ được nhược điểm của mình và moi ra nhược điểm của đồng nghiệp. Cái nhược điểm phổ thông nhất người ta ưa tự nhận là nóng tính. Có khi cả cơ quan, từ thủ trưởng đến nhân viên, đều nóng tính tuốt. Ai mà bị khoác thứ không quần chúng, không hoà đồng thì mệt đấy. Như sinh viên chúng tôi, tiêu chí học hành không được coi là trọng, mà rặt những lao động, tập thể dục, vệ sinh sân trường, rồi lập trường quan điểm vững vàng. Lập trường quan điểm mà tính rõ ra được bằng phẩy nhỉ, như bảy phẩy hai, bảy phẩy ba chẳng hạn, hoặc có dụng cụ đo đếm được, như cái nhiệt kế, áp vào ấy, lập trường quan điểm nó rõ ra, thì ối anh chết.

 

Bọn sinh viên thực tập chúng tôi chẳng thuộc loại dạng nào, vẫn vinh dự được lôi vào cuộc họp bình bầu của Trung tâm. Ngồi cho có mặt, dự cho đủ thành phần, tôi biết vậy, nên yên phận tìm một góc, im ỉm họp bình bầu. Cuộc họp rất căng, moi móc nhau ra đủ điều. Ông lãnh đạo Anh… không em đâu còn sùi bọt mép giảng giải về động cơ, mục đích, chỉ tiêu phấn đấu của Trung tâm; về nghĩa cử cao đẹp, mà các nước phe xã hội chủ nghĩa anh em Đông Âu, dành cả triệu rúp-đô la viện trợ cho chúng ta, trung tâm vịt.

 

Mục bình bầu lao động tích cực, nghĩa là những thành viên nhiệt huyết, hết lòng phấn đấu vì trung tâm, vì xã hội, trong không khí tranh đấu của mọi người, bất chợt tôi liếc ra ngoài cửa sổ, trông thấy con bò, nó đang nhởn nhơ gặm cỏ.

 

Chỉ sau năm, sáu tháng được hít thở khí trời tự do, thoải mái gặm cỏ và chẳng có ai định hướng cho nó cả, chú bò gầy giơ xương trước kia, nay thành mũm mĩm. Ôi, con vật ít tư duy kia lại đem cho xã hội một đống của cải, vật chất cụ thể. Giá trị của nó là mấy chục cân thịt nục nạc, sệ ra ở mông, sệ ra ở đùi, ở đít. Chẳng như một lô cán bộ nghiên cứu họp hành bình bầu lao động tích cực trong phòng này, toàn là trứng vịt lộn. Bất chợt phát hiện ra điều lý thú kia, tôi suýt giơ tay bình bầu cho con bò là lao động tích cực, không, phải là lao động xuất sắc cơ. May mà tôi mới chỉ thoáng có ý nghĩ trong đầu, hôm ấy mà bầu con bò là lao động xuất sắc, thì tôi chẳng có cái bằng kỹ sư nông nhiệp như ngày hôm nay.

 

Kiếp nhà họ trư

 

Tôi tốt nghiệp đại học đúng vào lúc Nhà nước áp dụng chế độ sinh viên tự xin việc. Thế là thoải mái quá nhé. Khi bước chân vào trường, sinh viên ao ước, ra trường, được tự liên hệ. Nghe theo lời quân sư của đồng hương khoá trước, cứ nhận chân cán bộ lớp, nghiễm nhiên khi ra trường, được suất liên hệ, trong buổi bình bầu, sắp xếp cán bộ, tôi hăng hái ứng cử và được luôn chân lớp phó phụ trách quỹ.

 

Lớp vỏn vẹn hai mươi tám sinh viên, có tới sáu cán bộ, gồm: lớp trưởng phụ trách chung; lớp phó phụ trách học tập; lớp phó phụ trách đời sống; lớp phó phụ trách lao động; lớp phó phụ trách quỹ là tôi, bí thư chi đoàn, chưa kể hai vị trưởng buồng ký túc và một vị phụ trách đảng. Bộ máy như vậy cồng kềnh quá. Có lẽ vì ảnh hưởng từ trứng nước, nên các cơ quan, đoàn thể của ta, bộ máy mới cồng kềnh vậy chăng? Năm năm làm cán bộ tôi mất khá nhiều công sức họp và giữ quỹ của lớp, quỹ toàn những giấy và chữ ký. Đùng một cái, lúc ra trường, hoà cả làng, ai cũng được tự do liên hệ công việc. Nhà nước đã tháo khoán cho sinh viên, muốn liên hệ ở đâu, thì liên hệ. Lúc này, có thể do các cơ quan, đoàn thể và doanh nghiệp thừa mứa trí thức rồi, hoặc ta chán kế hoạch và bao cấp. Chúng tôi học đúng năm năm ba tháng, sau khi bảo vệ tốt nghiệp xong, nhà trường và khoa như xong việc, quên béng mất sinh viên. Chúng tôi đợi mãi, đợi nhà trường và khoa tổ chức buổi chia tay, mà không thấy đâu. Một bận cô Phó khoa nhìn thấy các trò, hỏi sao vẫn còn ở đây, học trò mới hay, mình học xong rồi, cứ về thôi, gì phải vẽ ra chia tay mới tạm biệt.

 

Sau vài tháng liên hệ, tôi xin được chân hợp đồng, lại làm đúng nghề mình học và ngay giữa thành phố lớn. Đó là lò mổ lợn phục vụ thịt cho cả thành phố. Tôi bác sỹ thú y, giờ làm chân kiểm dịch, hợp quá. Công việc hơi nhàn, sáng tám giờ đến cơ quan, ngồi ngay cửa sau lò mổ nhập lợn, kiểm dịch bằng mắt, chấn đoán xem con nào ốm, con nào khoẻ. Công việc thì nhàn, chỉ tội lương hơi ít. Chi cục trả mười cân gạo một tháng. Tôi chưa phải chân biên chế, mà hợp đồng miệng. Điều vất vả và độc hại là suốt ngày ngửi phân và tiếng lợn eng éc lợn kêu. Trong đội trực trước cửa lò nhập lợn có ba bộ phận, tôi thuộc Chi cục thành phố, một ông thuộc Bộ Mua bán cử xuống, ông này chuyên kiểm tra, ghi chép cân đo, đếm số đầu lợn và một ông bên Lò mổ, cũng cân đo, đong đếm. Có làm mới biết, kiểu quản lý kế hoạch bao cấp, dân không đói mới lạ, cha chung chả ai khóc cả. Nhập lợn thì giờ hành chính, lợn thu mua từ các tỉnh xa về, bị nhốt chen chúc mấy chục con trên một xe ô tô, lại nóng bức, lợn khoẻ cũng thành ốm.

 

Nhớ hồi sinh viên, lớp tôi con em nhà quê được giao học lao động chăn nuôi lợn. Lý thuyết học để tăng một cân hơi, cần năm đơn vị thức ăn. Ở trại lợn, hôm trước chúng tôi ra công xúc thức ăn chuẩn vào máng ăn, hôm sau thoải mái xúc cám thừa ra, lũ lợn chê, đổ ra hố phân và lợn cứ ì ra, chẳng thấy lớn. Thức ăn chuẩn toàn trầu nghiền, lợn lớn thế nào được.

Cái kiếp họ nhà Trư đã khổ, kiếp họ Trư dưới thời bao cấp, còn khốn khổ hơn. Sinh ra, lớn lên, thì đói khát, chỉ toàn cơm thừa canh cặn, khi sống thì lũ lợn đói khổ, đến khi xuất chuồng đến chỗ chết, chúng còn bị nhồi nhét mấy chục con một xe và rồng rắn hàng trăm cây số mới đến được nơi chết. Chúng đã thoát đâu, cả một đời đói khát, trước khi về chầu trời, các ông bà chủ lại tống tiễn bằng bữa ăn lòi kèn tổng nhĩ. Họ chẳng ưu ái, thương xót lũ lợn đâu, chỉ cốt nhồi cho thật no, khi cân, tăng thêm được dăm, bảy cân hơi nữa. Thế nên đám lợn trên xe, cả đực lẫn cái, con nào con nấy trông như lợn chửa. Vẫn chưa hết, về đến lò mổ thành phố, chúng chưa được giết ngay, còn phải đợi, phải chết theo kế hoạch tiêu thụ thịt của thành phố. Theo kế hoạch thịt, lũ lợn thường phải đợi hai, ba ngày, có khi cả tuần. Trong những ngày đợi chết, người ta chẳng có kế hoạch lương thực cho chúng ăn.

 

Đói, lũ nhà trư kêu la suốt ngày. Kêu do đói một phần, phần khác chúng kêu gào bởi những vết thương trên mình hành hạ. Khi xe chở chúng áp đít vào bệ cân, để xua chúng xuống, người ta dùng gậy. Đấy là với những con nhát, vớ phải con gan lỳ tướng quân, đánh đuổi không xuống, thì họ dùng móc sắt lôi xuống. Thanh sắt dài chừng hơn hai mét, một đầu nhọn, uốn cong, nó thẳng cánh bổ xuống con lợn, đâm sâu, móc chặt da thịt lợn. Có con lỳ lợm, phải hai, ba người đồng loạt bổ, đồng loạt lôi, mới kéo xuống được. Giống lợn khoẻ thật, vết thương sâu là vậy, lại bị nhốt đói nhiều ngày, vẫn dai dẳng sống. Nhiều con vết thương quá sâu, nhốt cả tuần, thân mình lở lói, giết ra, xẻo đến một phần ba cơ thể và để đảm bảo an toàn vệ sinh, dù là đói, đám thịt thối vẫn phải đem chôn.

 

Dịp gần cuối năm tôi làm hợp đồng, ba cơ quan ngồi lại với nhau. Trước số tiền kiểm dịch ông Chi cục thú y định thu, ông Bộ lý luận: Lợn xuống nhanh, nhiều như vậy, chúng tôi mấy người kiểm tra, chỉ việc đếm còn không xong. Bên các ông, có mỗi cậu thú ý mới ra ràng, bằng cách nào mà kiểm dịch nổi. Mấy ông Chi cục đuối lý, chẳng thu được đồng nào. Gần năm trời trả công cho tôi hơn tạ gạo, thành ra công cốc. Ngay sau đó, cái hợp đồng bằng miệng với tôi, bị huỷ, tôi ra thất nghiệp.

 

 

 

Chương : 1    2    3   4    5   
Trọng Huân
Số lần đọc: 1482
Ngày đăng: 30.07.2009
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Chết - Phan Huy Đường
Hư thực - Phùng Văn Khai
Cái giá của cuộc sống - Arundhati Roy
Sống Đời Bát Nhã - Trần Kiêm Ðoàn
Kiếp người xuống xuống, lên lên - Nguyễn Đức Thiện
Cành hoa đào lửa - Trương Thái Du
Mùa xa nhà - Nguyễn Thành Nhân
Giấy trắng - Triệu Xuân
Khói mây Yên Tử (Truyện Trần Thủ Độ) - Vũ Ngọc Tiến
Ba nhà cải cách- Tiểu thuyết lịch sử - Vũ Ngọc Tiến
Cùng một tác giả
Kỷ niệm thơ (truyện ngắn)
Lỗi em (truyện ngắn)
Bức hoạ (truyện ngắn)
Thật Mặt (truyện ngắn)
Nhân cách đói (truyện ngắn)
Mất ngựa (truyện ngắn)
Kẻ trông chùa (truyện ngắn)
Ao làng (truyện ngắn)
Khóc nghề (truyện ngắn)
Khi người ta đói (truyện ngắn)
Kỷ vật (truyện ngắn)
Ngõ xóm (tạp văn)
Con nhà sẩm (truyện ngắn)
Hoài niệm... (tạp văn)
Hàng xóm (truyện ngắn)
Cuốn sổ tay (truyện ngắn)
Chuyển nhà (truyện ngắn)
Số kiếp…! (truyện ngắn)
Tôi cưới vợ (truyện ngắn)
Chết… vì nhục (truyện ngắn)
Làng ma (truyện ngắn)
Đêm tân hôn! (truyện ngắn)
Thằng đói (truyện ngắn)
Viếng ma (!) (truyện ngắn)
Vĩ nhân (truyện ngắn)
Cúc ơi! (truyện ngắn)
Hoa cúc quỳ (truyện ngắn)
Sống gửi... (truyện ngắn)
Ông sư… (truyện ngắn)