Tiểu Thuyết Tự Truyện của Elie Wiesel (Giải Nobel Hoà bình 1986) Nguyễn Ước chuyển ngữ
Lời giới thiệu
của người dịch
Về từ cõi chết là nhan đề tiếng Việt của một bộ ba tiểu thuyết tự truyện của Elie Wiesl.
ELIE WIESEL là nhà văn gốc Do thái. Ông sinh năm 1928 tại Roumania, gần biên giới Hungary. Năm 1944, cậu bé mười sáu tuổi Wiesel với toàn gia đình bị gom vào trại tập trung của Đức Quốc Xã. Tại Trại Auschwitz, cậu chứng kiến mẹ và cô em út bị đưa vào lò thiêu. Sau đó, tại Trại Buchenwald, cậu lại thấy tận mắt cha bị đánh tới chết. Nỗi tuyệt vọng sâu xa mà Wiesel trải qua từ thời niên thiếu đã khắc sâu những vết sẹo mãn tính trong tâm trí ông. Sau chiến tranh, ông dời đến Paris, theo học Triết tại Đại học Sorbonne và vào quốc tịch Pháp, làm ký giả cho một tờ báo Do thái ở Israel. Kế đó, ông qua Mỹ, làm giáo sư ở City College, N.Y.(1972), rồi Boston College (1976)...
NIGHT (Đêm) là tác phẩm đầu tay của ông, tự truyện, xuất bản ở Paris năm 1958; bản tiếng Anh do Stella Rodway dịch xuất bản năm 1960. Từ đó đến nay đã được tái bản trên hai mươi lăm lần. Tác phẩm đã được Alfred Kazin đánh giá là, “Không ai để lại đằng sau mình một bản tường trình quá đổi thương tâm như thế.” Và Daniel Stern, người phụ trách mục điểm sách của tạp chí The New York Times đã nhận xét về ông, “Kể từ Albert Camus tới nay, chưa có người phát ngôn nào về con người hùng biện đến thế,”
Nếu Nhật ký Anne Frank cho thấy những đau đớn, mơ ước và cùng quẩn của con người khi bị săn đuổi đưa vào các trại tập trung, thì Đêm cho thấy những gì xảy ra bên trong trại tập trung và đời sống của những người sống tại cõi địa ngục trần gian đó. Họ là những con thú kiệt sức, chờ giờ lên giàn tế cho ác thần mà chủ tế là những tên đồ tể thời đại mới. Đêm là cuốn thứ nhất của bộ ba tác phẩm này, hai cuốn tiếp là Dawn (Rạng Sáng, 1960) và Accident (Tai Nạn, 1960). Từ con người sống để chờ giờ vào lò thiêu trong Đêm, Wiesel hoá thân làm kẻ săn lùng và hủy diệt mạng sống người khác với vai trò kẻ khủng bố của phong trào phục quốc Do thái trong Rạng Sáng; và sau đó, trong Tai Nạn, ông mang tâm cảnh của một người trí thức bơ vơ, không tình yêu chẳng niềm tin, với nỗi ám ảnh dằng dặc về cái chết của Thượng đế và ước muốn tự hủy của con người.
Mỗi dòng chữ trong Về từ cõi Chết đều chất ngất dấu hỏi làm sao quên được quá khứ thống khổ và nhục nhã để sống đời đáng sống, để có tình yêu và tình người.
Đây là cuộc hành trình của tuổi trẻ sống sót từ địa ngục trần gian để sau đó thấy mình quằn quại giữa sống và chết. Tuổi xuân tuẩn nạn ấy vừa sáng suốt vừa mê sảng trong một thế giới phi đạo lý, chẳng tình người, không còn đấng thượng đế được quan niệm như một người cha chí công và nhân từ, không còn hiện tại như một điểm xuất phát tươi mát cho tương lai, không còn đời sống vì cõi người đã nặng mùi chết chóc. Tuổi trẻ đặc biệt của thế kỷ hai mươi bị lừa dối vì những chiêu bài mệnh danh là lý tưởng và bị vắt kiệt trong hận thù.
WIESEL LÀ TÁC GIẢ CỦA TRÊN BỐN MƯƠI TÁC PHẨM, NHƯ:
The Town Beyond the Wall - Thị Trấn Bên Kia Tường, 1964;
Le Chant des Morts - Bài Ca Của Những Kẻ Chết, 1964;
Le Mendiant de Jérusalem - Người Hành Khất Thành Giêrusalem, 1968;
Les Portes de la Forêt - Cửa Rừng, 1968;
Souls on Fire - Những Linh Hồn Bừng Lửa, 1972;
Le Testament dõun Poète Juif Assassiné - Bản Tự Kiểm Của Một Nhà Thơ Do Thái Bị Ám Sát, 1980
v.v...
Năm 1986, ông được trao giải Nobel Hoà Bình, như một ngôn sứ của thời đại. Bản Tuyên dương của Ủy ban Hòa bình ghi: “Sự dấn thân của Wiesel phát xuất từ những khổ đau của dân tộc Do thái, đã mở rộng ra để ôm vào lòng tất cả các dân tộc và chủng tộc bị áp bức.” Về phần Wiesel, trong ngày nhận giải, ông đã tóm tắt sứ mạng của mình: “Tôi đã quyết định cống hiến đời mình để kể chuyện vì tôi cảm thấy rằng được sống sót là mắc nợ người đã chết một điều gì đó. Đó là nỗi ám ảnh phải nhớ đến họ, và ai không nhớ đến người đã chết là thêm lần nữa phản bội họ.”
Lời nói đầu
của Elie Wiesel
Bộ sách này là ba bản tường thuật được viết một cách riêng rẽ trong khoảng thời gian từ năm 1955 đến năm 1960. Bản tường thuật thứ nhất là lời chứng, hai bản còn lại được dùng như lời luận giải. Tuy thế, cả ba đều được viết với ngôi thứ nhất. Trong Đêm, thì “Tôi” là kẻ phát biểu; trong Rạng Sáng và Tai Nạn thì “Tôi” là kẻ lắng nghe và tra vấn.
Các câu chuyện này vẫn còn hết sức thiết thân với tôi. Không chỉ câu chuyện đầu mà vì những lý do hiển nhiên, mãi mãi sống động thẳm sâu trong tất cả những gì tôi đã và đang viết và trong tất cả những gì tôi sắp viết. Hai câu chuyện còn lại cũng vậy. Ngày nay, các chủ đề của Rạng Sáng và Tai Nạn dường như mang tính cách thời sự hiện thực còn hơn thời chúng được xuất bản. Tôi phát biểu về sự lôi cuốn xã hội vào bạo động ở mặt này và vào sự cám dỗ tự sát ở mặt kia. Nếu không ở trong khung cảnh của Biến cố ấy, thì làm sao chúng ta giải thích được sự hận thù đang cháy bỏng dưới quá nhiều mái gia đình? Và làm sao chúng ta hiểu được sự tuyệt vọng đang thúc đẩy những người tuổi trẻ tự sát. Mọi con đường đều dẫn chúng ta trở lại nơi ấy. Bất chấp tất cả những gì tương tự, Auschwitz tự nó lập thành một điểm chỉ dẫn.
Vì Auschwitz tiêu biểu cho cực điểm của bạo lực, hận thù và chết chóc, nên bổn phận của chúng ta là chiến đấu chống bạo lực, hận thù và chết chóc: đó là chủ đề của Rạng Sáng.
Vì Auschwitz tước đoạt của chúng ta hi vọng và tình yêu tới độ làm chúng ta mất khát vọng sống, nên chúng ta phải khẳng định hi vọng và tình yêu, nhân danh chính cuộc sống, cái sẽ mang chúng ta đi trọn từ đầu tới cuối: đó là lời kêu gọi vang vọng trong Tai Nạn.
Nếu hôm nay phải viết lại cả ba câu chuyện này, tôi sẽ không thay đổi một chữ.
Về Từ Cõi Chết:
Đêm
Lời tựa
của Francois Mauriac
Các ký giả nước ngoài thường đến thăm tôi. Tôi sợ những cuộc gặp gỡ ấy vì tôi bị dằng co giữa niềm ao ước thố lộ tất cả những gì trong lòng mình và nỗi kinh hãi là đặt vũ khí vào tay người phỏng vấn khi mình không hiểu chút nào thái độ của người đó đối với nước Pháp. Tôi luôn luôn thận trọng trong những cuộc gặp gỡ thuộc loại ấy.
Sáng đó, người ký giả Do thái trẻ tuổi này đến phỏng vấn tôi cho một tờ báo xuất bản ở Tel Aviv, đã tức khắc chinh phục được thiện cảm của tôi. Cuộc đàm đạo của chúng tôi nhanh chóng trở thành trò chuyện tâm tình. Nó đưa dẫn tôi trở lại những hồi tưởng Thời Bị Chiếm Đóng. Không phải chỉ những biến cố dính líu trực tiếp tới chúng ta mới làm cho chúng ta có nhiều xúc động sâu xa. Tôi tâm sự với người khách trẻ tuổi của mình rằng trong những năm ảm đạm ấy, không có gì tôi thấy mà để lại vết hằn sâu đậm trong lòng tôi cho bằng những toa tàu chất đầy ứ trẻ em Do thái đậu ở sân ga Austerlitz, tuy tôi chưa từng tận mắt chứng kiến! Khi vợ tôi mô tả cho tôi nghe về chúng, giọng bà vẫn ngập tràn kinh hãi. Vào thời ấy, chúng tôi chẳng hiểu chút gì về những phương cách hủy diệt của Đức Quốc Xã. Và ai mà có thể tưởng tượng ra nổi những phương cách đó! Cho đến lúc ấy, cách mà những con cừu non ấy bị giựt khỏi mẹ chúng cũng đã vượt quá những điều chúng tôi có thể nghĩ tưởng. Tôi tin rằng vào ngày ấy, lần đầu tiên tôi chạm đến bí ẩn của tội ác mà sự phát hiện ra nó đã đánh dấu việc kết thúc một kỷ nguyên và mở đầu một kỷ nguyên khác. Giấc mơ người phương Tây cưu mang suốt thế kỷ mười tám, buổi bình minh người ấy tưởng đã thấy vào năm 1789 và kéo dài đến tháng Tám 1914, giấc mơ ấy bền vững thêm nhờ những tiến bộ của trí tuệ và khám phá của khoa học - với tôi, giấc mơ ấy cuối cùng vỡ vụn trước những toa tàu đầy ứ trẻ con đó. Tuy thế tôi vẫn còn xa vạn đặm mới với tới được ý nghĩ rằng những đứa trẻ đó là nhiên liệu cho phòng hơi ngạt và lò thiêu xác.
Lúc ấy, tôi bày tỏ điều đó với người ký giả trẻ tuổi này. Và khi tôi nói trong tiếng thở dài, “Tôi thường nghĩ tới những đứa bé đó biết ngần nào!” thì anh đáp lại rằng “Tôi là một đứa trong chúng nó.” Anh đã là một trong những đứa trẻ đó. Anh đã nhìn mẹ mình, đứa em gái út yêu dấu của mình, và cả nhà, trừ cha anh, biến mất trong chiếc lò nướng được chụm bằng những tạo vật sống. Về phần người cha thì ngày này sang ngày khác, đứa trẻ đó bị buộc phải làm khán giả chứng kiến nỗi thống khổ, quằn quại và cái chết tuẫn nạn của cha mình. Và chết mà lại chết như thế đó! Những tình cảnh của cái chết đó được đề cập tới trong cuốn sách này; và tôi muốn để dành sự khám phá về chúng và về phép lạ khiến bản thân cậu bé đã thoát ra được cho người đọc mà sẽ lên tới con số đông đảo như khối lượng độc giả của cuốn Nhật Ký Của Anne Frank.
Bản ghi nhận riêng tư này ra đời sau nhiều bản khác cùng loại mà sự mô tả của chúng làm tổn thương tính tự mãn của chúng ta, những người cứ tưởng mình đã hiểu tường tận những gì có thể hiểu, tuy nhiên, tôi xác nhận đây là một tường trình khác biệt, cá biệt, dị thường. Số phận của người Do thái tại một thành phố nhỏ vùng Transylvania có tên là Sighet, mù lòa khi đối mặt với định mệnh trong lúc họ vẫn còn đủ thì giờ cao bay xa chạy; họ đã tự mình thụ động đầu hàng một cách ngoài sức tưởng tượng, tai lơ mắt điếc trước lời cảnh cáo van nài của một nhân chứng mà chính bản thân người ấy đã trốn thoát khỏi cuộc tàn sát, người ấy mang về cho họ tin tức anh thấy tận mắt, nhưng họ không chịu tin anh, đối xử với anh như với một người điên - những trạng huống đó, đối với tôi, hình như tự chúng đã đủ cảm hứng cho một cuốn sách mà chẳng cuốn sách nào khác có thể sánh bằng.
Tuy thế, tận cùng chốn sâu thẳm của lòng tôi đã bị cuốn hút bởi một khía cạnh khác của cuốn sách dị thường này. Cậu bé, người kể cho chúng ta nghe chuyện của cậu ở đây, là kẻ được Thượng đế chọn lựa. Từ thuở lần đầu giác ngộ ý thức, cậu chỉ sống cho Thượng đế và lớn lên trong sách Talmud, khao khát được khởi sự làm quen với các bí pháp nhằm cắt nghĩa Kinh thánh Do thái giáo, tận hiến bản thân cho Thượng đế. Chúng ta có bao giờ nghĩ tới hậu quả của sự khủng khiếp ấy, dù ít có tính cách hiển nhiên, ít có tính cách kích động hơn những sự phạm thượng khác, tuy thế nó lại là sự tệ hại nhất cho chúng ta, những kẻ có đức tin: cái chết của Thượng đế trong lòng một đứa bé khi nó đột nhiên khám phá ra tính chất tuyệt đối của cái ác.
Chúng ta thử tưởng tượng điều gì xảy ra trong lòng cậu bé ấy khi mắt cậu nhìn những cuộn khói đen tỏa ra trên bầu trời, từ những lò thiêu mà đứa em gái nhỏ và mẹ mình sắp bị ném vào cùng với hàng ngàn người khác: “Sẽ không bao giờ tôi quên được đêm đó, đêm đầu tiên ở trại, đêm xoay chuyển đời tôi thành một đêm trường, bảy lần bị nguyền rủa và bảy lần bị đóng dấu. Sẽ không bao giờ tôi quên được làn khói đó. Sẽ không bao giờ tôi quên được khuôn mặt nhỏ nhắn của những đứa trẻ, mà da thịt chúng biến thành các luồng khói cuồn cuộn dưới bầu trời xanh thẳm lặng câm.
Sẽ không bao giờ tôi quên được những ngọn lửa đã thiêu rụi mãi mãi Đức tin của tôi.
Sẽ không bao giờ tôi quên được sự yên lặng hoài cảm đó đã tước đoạt đến tận cùng thiên thu nỗi khát khao được sống của tôi. Sẽ không bao giờ tôi quên được những khoảnh khắc lúc đó Thượng đế của tôi, linh hồn của tôi bị giết chết và biến những giấc mơ của tôi thành tro than. Sẽ không bao giờ tôi quên được những điều đó cho dù tôi có bị kết án sống lâu như chính Bản thân Thượng đế. Không bao giờ.”
Và lúc đó tôi hiểu ra cái đầu tiên kéo tôi tới với người Do thái trẻ tuổi này: ánh mắt đó, như của một La-da-rô chỗi dậy từ cõi chết, anh vẫn là người tù mà lòng còn giam giữ mãnh liệt hình ảnh những nơi anh đã lang thang, vấp ngã giữa những xác người bị ruồng bỏ. Đối với anh, tiếng kêu trầm thống của Nietzsche biểu lộ một thực tại gần như có tính cách vật lý: Thượng đế đã chết, đấng Thượng đế của tình thương, dịu dàng, ủi an, đấng Thượng đế của Áp-ra-ham, I-sa-ac, của Gia-cóp, đang biến mất vĩnh viễn, hơn nữa, dưới mắt nhìn đăm đăm của cậu bé này, trong làn khói của sự tàn sát con người hàng loạt chỉ vì lý do Chủng tộc, tiêu biểu cho sự phàm ăn nhất của tất cả các ngẫu tượng. Và biết bao người Do thái ngoan đạo trải qua cái chết như thế! Vào ngày đó, khủng khiếp ngay trong những ngày ghê rợn đó, khi nhìn một đứa bé khác mang nét mặt của một thiên thần u sầu, bị treo cổ (đúng!), thì lúc đó, một cậu bé khác, người kể cho chúng ta nghe chuyện này, đã nghe ai đó sau lưng mình kêu lên: “Lúc này Thượng đế ở đâu?Và tôi nghe bên trong tôi có tiếng trả lời: Ở đâu ư? Ngài ở đây - Ngài đang bị treo cổ ở đây, trên giá treo cổ này....”
Vào ngày cuối một năm theo lịch Do thái, cậu bé này có mặt tại buổi lễ trọng thể Rosh Hashanah. Cậu nghe hàng ngàn người đang bị đày ải này cất lên cùng một giọng: “Vinh danh Thượng đế, Đấng Hằng sống.” Trước đó không lâu, cậu cũng đã nằm sấp mặt xuống đất với lòng tôn sùng như thế, với nỗi kính sợ như thế, với tâm hồn yêu thương như thế! Nhưng hôm nay, cậu không quì nữa. Con người thụ tạo, bị thương tổn và bị lăng nhục vượt quá sức chịu đựng của tâm tư và tinh thần, đã chỉ rõ ra rằng kẻ được bái lạy kia là một kẻ vừa câm vừa điếc: “Hôm nay tôi không còn nài xin. Tôi không còn khả năng than khóc. Trái lại, tôi cảm thấy mình mạnh mẽ. Tôi là người lên án, Thượng đế là kẻ bị kết án. Mắt tôi mở ra và tôi cô độc - cô độc kinh khủng trong một thế giới không Thượng đế và không con người. Không tình yêu không ân sủng. Tôi thôi không còn là gì ngoài tro than, tuy thế tôi cảm thấy mình mạnh mẽ hơn Đấng Toàn năng, kẻ mà đời tôi đã bị ràng buộc vào trong một thời gian quá dài. Tôi đứng giữa cộng đoàn đang cầu nguyện, quan sát nó như thể mình là người lạ.”
Và tôi, kẻ tin rằng Thượng đế là tình yêu, tôi có thể có câu trả lời nào để trao cho người chất vấn trẻ tuổi này, kẻ mà đôi mắt đầy bóng tối vẫn giữ mãi ánh phản chiếu nỗi u sầu thiên thần đã xuất hiện trên nét mặt đứa bé bị treo cổ ngày nọ? Tôi đã nói gì với anh? Có phải tôi đã nói tới một người Do thái khác, anh em của anh, kẻ có lẽ giống như anh - Người Bị Đóng Đinh, Thánh Giá của người đó đã và đang chinh phục thế giới? Có phải tôi đã khẳng định rằng vật chướng ngại làm đức tin của anh vấp ngã cũng chính là hòn đá tảng của tôi, và rằng, trong sự phù hợp giữa Thánh Giá với những khổ đau con người, theo ý tôi, là chìa khoá mở vào sự mầu nhiệm không thể dò thấu được mà trên đó đã tàn lụi đức tin từ thời thơ ấu của anh? Tuy thế, Sion đã thêm lần nữa chỗi dậy từ những lò thiêu và những nhà để hài cốt. Quốc gia Do thái sống lại từ giữa hàng ngàn kẻ chết. Quốc gia này hiện hữu qua họ và sẽ trường tồn. Chúng ta không biết cái giá của từng giọt máu riêng rẽ, tường giọt nước mắt riêng rẽ. Tất cả đều là ân sủng. Nếu Thượng đế là đấng Vĩnh cửu thì lời cuối cùng dành cho mỗi người chúng ta đều thuộc vào Ngài. Đấy là điều tôi nên nói với đứa con của dân tộc Do thái này. Nhưng tôi chỉ có thể ôm anh trong vòng tay, nghẹn ngào.
1.
Người ta gọi anh là Moché, Người giúp việc thánh, như thể trong đời mình anh chưa từng có một cái họ. Anh là người làm hết mọi việc ở hội đường Do thái giáo. Người Do thái ở Sighet - một thành phố nhỏ vùng Transylvania nơi tôi sống qua thời thơ ấu - rất quí mến anh. Anh nghèo khó, sống khiêm tốn. Nói chung, những người sống chung thành phố với tôi tuy giúp đỡ người nghèo nhưng không yêu thương cách riêng người nào. Moché Người giúp việc thánh là một biệt lệ. Chưa ai bị rắc rối vì anh. Chưa ai cảm thấy lúng túng vì sự có mặt của anh. Anh là bậc thầy trong nghệ thuật làm cho mình thành tầm thường, để cho hình như chẳng ai trông thấy mình.
Hình dáng bên ngoài anh cục mịch như người nhà quê. Dáng e lệ rụt rè giống đứa bé lạc loài của anh làm người ta mỉm cười. Tôi yêu đôi mắt to đầy mơ mộng của anh, những tia nhìn đăm đăm mất hút vào cõi xa xăm nào đó. Anh ít nói nhưng thường ca, đúng hơn, anh hát thánh vịnh.
Bạn có thể đã từng nghe những chương đoạn như thế kể về nỗi sầu khổ của đấng chí tôn, theo sách Lưu Đày Theo Thánh Ý và căn cứ theo huyền nghĩa của Kinh thánh, là đấng đang được trông đợi giáng lâm thế gian để giải thoát loài người.
Tôi quen anh khoảng cuối năm 1941. Lúc đó tôi mười hai tuổi. Tôi có đức tin sâu đậm. Suốt ngày tôi học sách Talmud và đêm đến tôi chạy tới hội đường khóc than cho sự sụp đổ của Đền Thánh.
Ngày nọ tôi yêu cầu cha tôi tìm cho tôi một vị thầy hướng dẫn tôi trong việc học bí pháp và huyền nghĩa để giải thích Kinh thánh.
“Con chưa tới tuổi học cái đó. Ngài Maimonides thuở xưa đã nói rằng chỉ khi nào tới tuổi ba mươi người ta mới có quyền mạo hiểm đi vào thế giới đầy hiểm nghèo của huyền học. Trước tiên, con phải học những chủ đề nền tảng hợp với trình độ am hiểu của con.”
Cha tôi là người có công phu hàm dưỡng, đúng hơn, ông là người không đa cảm ủy mị. Ông không bao giờ biểu lộ cảm xúc, kể cả lúc ở nhà mình. Ông quan tâm tới người khác hơn gia đình mình. Cộng đồng Do thái ở Sighet dành cho ông sự kính trọng sâu xa. Họ thường hỏi ý ông về những vấn đề của cộng đồng và cả những việc riêng. Lũ chị em chúng tôi gồm bốn người: Hilda, lớn nhất; rồi Béa; tôi thứ ba và là con trai duy nhất; đứa nhỏ nhất của gia đình là Tzipora.
Song thân tôi có một cửa tiệm. Hilda và Béa phụ giúp hai ông bà. Phần tôi thì cha mẹ tôi nói chỗ của tôi là ở trường học.
“Tại Sighet không có nhà huyền học nào cả,” cha tôi lặp lại.
Ông muốn lái ý tưởng đó ra khỏi tâm trí tôi. Nhưng vô ích. Tôi đã tự mình tìm ra thầy, Moché Người giúp việc thánh.
Một buổi hoàng hôn ngày nọ, anh để ý đến tôi trong khi tôi đang cầu nguyện. “Tại sao cậu khóc than khi cầu nguyện?” anh hỏi như thể đã quen tôi từ lâu.
“Tôi chẳng hiểu tại sao,” tôi trả lời, thấy mình bị quấy nhiễu quá đáng.
Câu hỏi ấy chưa bao giờ có trong tâm trí tôi. Tôi khóc than vì - vì có cái gì đó trong lòng tôi làm tôi cảm thấy cần tới nước mắt. Đó là tất cả những gì tôi có thể hiểu.
Lát sau, anh hỏi tôi, “Tại sao cậu cầu nguyện?”
Tại sao tôi cầu nguyện? Câu hỏi nghe thật lạ. Tại sao tôi sống? Tại sao tôi thở?
“Tôi cũng chẳng biết tại sao,” tôi nói, cảm thấy phiền hà và lấn cấn khó chịu hơn. “Tôi cũng không hiểu tại sao?”
Sau ngày đó tôi thường gặp anh. Anh giải thích cho tôi, nhấn mạnh là mỗi câu hỏi làm chủ một khối lượng ý tưởng mà không câu trả lời nào chứa hết khối lượng đó.
“Con người tự nó vươn tới Thượng đế bằng những câu hỏi người ấy đặt ra cho Ngài,” anh thích lặp đi lặp lại ý tưởng ấy. “Đó là cuộc đối thoại chân chính. Con người chất vấn Thượng đế và Thượng đế trả lời. Có điều chúng ta không hiểu các giải đáp của Ngài. Chúng ta không thể hiểu chúng. Vì chúng xuất phát từ những chốn sâu thẳm của linh hồn và chúng ở lại đó cho đến chết. Eliezer ạ, cậu chỉ tìm ra câu trả lời thật sự trong lòng cậu mà thôi.”
“Và tại sao anh cầu nguyện, Moché?” tôi hỏi anh.
“Tôi cầu nguyện với Đấng Thượng đế trong lòng tôi rằng xin Ngài ban cho tôi sức mạnh để hỏi Ngài những câu hỏi xác đáng.”
Chúng tôi trò chuyện như thế gần như đều đặn mỗi buổi chiều. Sau khi các tín đồ khác đã rời hội đường, chúng tôi thường ở lại, ngồi trong bóng tối nơi còn lung linh ánh sáng của các ngọn nến đã cháy được một nửa.
Một buổi chiều, tôi kể anh nghe là tôi quá đổi bất hạnh vì không tìm được người thầy nào ở Sighet để hướng dẫn mình học sách Zohar, sách về những bí pháp và huyền nghĩa trong phần huyền học của Do thái giáo. Anh mỉm cười độ lượng. Sau một hồi im lặng, anh nói:
“Có tới ngàn lẽ một cửa dẫn vào vườn cây trái chân lý đầy bí nhiệm. Mỗi người đều có cửa riêng của mình. Chúng ta không được phạm sai lầm bởi muốn vào vườn cây trái ấy bằng cửa của người khác thay vì cửa của riêng mình. Việc vào vườn chân lý bí nhiệm cực kỳ nguy hiểm cho kẻ muốn vào và cũng nguy hiểm không kém cho người đã ở trong đó.”
Và Moché Người giúp việc thánh, kẻ nghèo khó đi chân trần của Sighet, nói cho tôi nghe hết giờ này sang giờ khác về mạc khải và những bí nhiệm của huyền học. Việc học vỡ lòng của tôi bắt đầu với anh. Chúng tôi cùng đọc một trang sách Zohar hơn chục lần. Không phải để thuộc lòng mà là để rút từ trong đó ra những lời tiên đoán cốt tủy.
Qua những buổi chiều như thế trong tôi càng ngày càng vững tin rằng Moché Người giúp việc thánh sẽ kéo tôi đi cùng anh nhập vào vĩnh cửu, ở thời điểm mà câu hỏi và câu trả lời trở thành một.
Đến một ngày kia, người ta trục xuất những người Do thái nước ngoài ra khỏi Sighet. Và Moché Người giúp việc thánh vốn là người trước đây sinh sống ở ngoài Hungary.
Bị cảnh sát Hungary nhét đầy các toa tàu, họ rơi nước mắt chua xót. Đứng trên sân ga chúng tôi cũng khóc. Con tàu biến mất cuối chân trời, chỉ để lại đằng sau một luồng khói dày đặc, nhớp nháp.
Tôi nghe sau lưng mình có tiếng thở dài của một người Do thái:
“Chúng ta mong ước được gì hơn,” ông ta nói. “Chiến tranh mà...”
Chẳng bao lâu người ta quên những người bị trục xuất. Ít ngày sau khi họ ra đi, người ta nói là họ tới Galicia, hiện làm việc và sống thoải mái với đất đai ở đó.
Vài ngày trôi qua. Vài tuần. Vài tháng. Cuộc sống trở lại bình thường. Một luồng gió yên tĩnh và an lòng thổi qua các ngôi nhà của chúng tôi. Người buôn kẻ bán làm ăn xuôi thuận, lũ học trò vùi đầu trong sách vở và bọn trẻ con nô đùa trên đường phố.
Vào ngày nọ, vừa bước vào hội đường tôi lại thấy ngồi trên băng ghế gần cửa ra vào là Moché Người giúp việc thánh.
Anh kể chuyện của mình và chuyện đó xảy ra chung cho mọi người cùng đi. Chuyến tàu đầy ứ người bị trục xuất chạy ngang biên giới Hungary, và trên vùng đất Ba lan họ bị giao cho Gestapo tiếp quản. Tàu dừng lại đó. Người Do thái phải xuống tàu, leo lên xe tải. Xe chạy vào rừng. Người Do thái bị buộc xuống xe. Họ phải đào những huyệt lớn. Và khi họ làm xong việc của mình thì tới lượt lũ Gestapo làm công tác của chúng, từ từ, chúng giết các tù nhân. Mỗi người phải đi đến mép huyệt của mình, vươn cổ ra. Trẻ sơ sinh bị ném lên trời, làm bia cho xạ thủ súng máy. Chuyện này xảy ra trong rừng Galicia, gần Kolomayé. Làm sao Moché Người giúp lễ trốn thoát được? Đó là một phép lạ. Anh bị thương nơi chân và người ta khiêng anh đi vì tưởng anh đã chết.
Suốt ngày dài suốt đêm dài, anh đi từ nhà người Do thái này sang nhà người Do thái khác, kể chuyện Malka, cô gái trẻ hấp hối ba ngày mới chết, và Tobias, người thợ may van lạy xin được giết chết trước mặt các con trai của mình...
Moché đã thay đổi. Anh không còn ca chẳng còn hát. Anh không còn nói với tôi về Thượng đế và huyền học bí pháp, mà chỉ nói tới những gì anh đã thấy tận mắt. Người ta không những không chịu tin câu chuyện của anh mà còn không muốn nghe anh nói nữa.
“Hắn chỉ ra sức làm cho chúng ta thương xót hắn. Hắn tưởng tượng quá mức,” họ nói. Hoặc lại còn: “Gã khốn khổ. Hắn ta mất trí rồi.”
Về phần Moché, anh khóc nức nở.
“Hỡi người Do thái, xin hãy nghe tôi. Tôi chỉ xin các người chừng ấy thôi. Tôi không xin tiền bạc hay lòng thương hại. Chỉ xin các người lắng nghe tôi thôi,” anh la lên giữa những người cầu nguyện vào lúc chiều xuống, và còn la lên giữa những người cầu nguyện vào buổi tối.
Bản thân tôi cũng không tin anh. Tôi thường ngồi bên anh buổi tối sau giờ kinh nguyện, lắng nghe các câu chuyện của anh và rán sức hiểu cho ra cơn sầu khổ của anh. Tôi chỉ cảm thấy thương xót anh.
“Họ đối xử tôi như với một người cuồng dại,” anh thì thầm, và từ mắt anh, nước mắt rơi lả chả như những giọt sáp ong.
Có lần, tôi hỏi anh:
“Tại sao anh quá đổi khắc khoải về việc người ta nên tin những gì anh nói. Nếu tôi ở vào vị trí của anh, tôi chẳng màng chuyện họ tin hay không...”
“Cậu không hiểu,” anh nói trong tuyệt vọng. “Cậu không thể nào hiểu nổi. Tôi đã được cứu thoát một cách đầy phép lạ. Tôi đã tìm cách trở về đây. Bởi đâu mà tôi có sức mạnh đó? Tôi muốn quay lại Sighet để kể cho các người nghe câu chuyện tử thần của tôi. Để các người có thể chuẩn bị khi còn kịp thời. Để sống ư? Đời tôi không còn ràng buộc vào cái gì quan trọng nữa. Tôi một thân một mình. Không, tôi muốn trở lại đây, tôi muốn báo động cho mọi người. Rồi cậu coi tới đây nó sẽ như thế nào, chẳng ai chịu nghe tôi cả...”
Chuyện đó xảy ra vào gần cuối năm 1942. Sau đó, cuộc sống trở lại bình thường. Đài phát thanh BBC Luân đôn mà tối nào chúng tôi cũng nghe, loan các tin tức phấn khởi: cuộc oanh tạc diễn ra hằng ngày ở Đức; Stalingrad; chuẩn bị mặt trật thứ hai. Và chúng tôi, người Do thái ở Sighet, đang chờ đợi những ngày tươi đẹp hơn chưa thể xảy tới ngay lúc này được.
Tôi tiếp tục vùi đầu vào việc học. Ban ngày học sách Talmud, tối đến huyền học bí pháp. Cha tôi bị tràn ngập bởi việc làm ăn và công chuyện của cộng đồng. Ông nội tôi đến ăn mừng ngày Năm Mới với chúng tôi để ông có thể tham gia phục vụ vị thầy cả danh tiếng ở Borsche. Mẹ tôi bắt đầu nghĩ rằng đây là thời gian thuận tiện nhất để tìm một chàng trai thích hợp cho Hilda.
Như thế, mùa xuân 1943 trôi qua.
Mùa xuân năm 1944. Có tin lành từ chiến trường Nga. Lúc này chẳng còn nghi ngờ gì nữa, sự bại trận của Đức chỉ là vấn đề thời gian - có thể tính từng tháng từng tuần.
Cây cối đã đâm chồi nãy lộc. Năm nay cũng như mọi năm, với mùa xuân, các cuộc hứa hôn, đám cưới và sinh nở.
Người ta nói: “Quân Nga đã tiến những bước vạn dặm... Hitler dù có muốn đi nữa, hắn cũng không thể nào làm hại chúng ta được.” Vâng, chúng tôi nghi ngờ cả việc hắn muốn diệt chủng chúng tôi. Tại sao hắn muốn quét sạch cả một dân tộc? Liệu hắn có tiêu diệt hết được tất cả tổng số dân Do thái sống rải rác khắp thế giới không? Có quá nhiều triệu dân mà! Hắn có thể sử dụng phương pháp nào? Và làm chuyện như thế giữa thế kỷ hai mươi này mà được sao!
Bên cạnh đó, người ta để ý đến mọi thứ - đến chiến lược, đến ngoại giao, đến chính trị, đến phong trào lập quốc Do thái - ngoại trừ đến số phận của chính mình. Cả Moché Người giúp việc thánh cũng im lặng. Anh chẳng buồn nói năng. Anh lang thang trong hội đường, trên đường phố, mắt cụp lại, lưng oằn xuống, tránh ánh mắt mọi người.
Thời buổi đó chúng tôi còn có thể kiếm được giấy phép di dân về Palestine, tôi yêu cầu cha tôi bán hết mọi sự, giải quyết việc làm ăn và ra đi. Ông trả lời, “Con ơi, cha già quá rồi. Cha quá già để mà bắt đầu một cuộc đời mới. Cha quá già để thêm lần nữa xuất phát từ cái vạch đầu tiên nơi một xứ sở quá xa xôi...”
Đài phát thanh Budapest loan báo đảng Phát xít nắm chính quyền. Horthy bị buộc phải yêu cầu một trong các lãnh tụ của đảng Nyilas thành lập chính phủ mới.
Sự việc đó không đủ làm chúng tôi bận lòng. Dĩ nhiên chúng tôi có nghe về phe đảng Phát xít, nhưng đối với chúng tôi, bọn họ vẫn chỉ là cái gì đó trừu tượng. Chỉ là một đổi thay về hành chính.
Ngày kế có thêm tin tức đầy ưu tư: với sự chấp thuận của chính phủ, lính Đức đã vào Hungary.
Khắp nơi dấy lên lo lắng. Berkovitz, một người bạn của chúng tôi từ thủ đô về, kể với chúng tôi:
“Người Do thái ở Budapest sống trong bầu khí sợ hãi và khủng bố. Hằng ngày, có nhiều vụ chống người Do thái và người A rập trên đường phố, trên xe lửa. Tình hình hiện nay rất nghiêm trọng.”
Tin tức ấy lan truyền lẹ làng ở Sighet, nhanh chóng tới trên đầu môi mọi người. Nhưng không lâu. Rồi người ta lạc quan trở lại.
“Bọn Đức không chuyển quân xa hơn chỗ đó đâu. Chúng ở lại Budapest. Có nhiều lý do chiến lược và chính trị...”
Chỉ nội ba ngày sau, quân xa Đức xuất hiện trên đường phố của chúng tôi. Khổ rồi. Lính Đức đó - mũ sắt và huy hiệu đầu lâu.
Tuy vậy đầu tiên chúng tôi có cảm tưởng rất an lòng về lính Đức. Các sĩ quan tới ở trong nhà thường dân, kể cả nhà người Do thái. Thái độ của chúng đối với chủ nhà tuy có xa cách nhưng rất lịch sự. Chúng chẳng bao giờ đòi hỏi những điều không thể thực hiện, không đưa ra ý kiến nào làm mất lòng, nhiều khi còn cười với bà chủ nhà nữa. Một viên sĩ quan Đức ở trong ngôi nhà trước mặt nhà chúng tôi. Anh ta có một phòng trong gia đình Kahn. Họ nói anh ta là người duyên dáng - trầm lặng, dễ thương, lịch sự và dễ xúc động. Ba ngày sau khi tới ở, anh ta đưa tặng bà Kahn một hộp sô-cô-la. Những kẻ lạc quan lấy làm hoan hỉ.
“Tốt, vậy đó, các người thấy chưa! Chúng tôi đã kể các người nghe chuyện gì? Các người đâu có tin chúng tôi. Lính Đức của các người đây này! Các người nghĩ sao về họ? Tính hung ác nổi tiếng của họ đâu nào?”
Lính Đức đã ở trong thành phố, những tên Phát xít đã nắm chính quyền, lời phán quyết đã được tuyên bố, thế mà người Do thái tại Sighet vẫn tiếp tục mỉm cười.
Tuần lễ Vượt Qua. Thời tiết tuyệt diệu. Mẹ tôi tất bật trong bếp. Không còn hội đường nào mở cửa. Chúng tôi quây quần trong nhà riêng để khỏi khiêu khích bọn Đức. Thực tế ngôi nhà của Thầy cả trở thành nguyện đường.
Chúng tôi uống, chúng tôi ăn, chúng tôi hát. Thánh kinh ra lệnh cho chúng tôi hân hoan suốt bảy ngày hội hè, để được hạnh phúc. Nhưng bụng chúng tôi không yên. Trong mấy ngày đó, trái tim chúng tôi đập nhanh hơn. Chúng tôi mong hội hè chấm dứt để mình không đóng tuồng hài kịch này lâu hơn.
Vào ngày thứ bảy của Tuần lễ Vượt Qua, màn kéo lên. Bọn Đức bắt các thủ lãnh của cộng đồng Do thái.
Từ lúc đó mọi việc xảy ra rất nhanh. Cuộc đua với thần chết bắt đầu.
Bước đầu tiên: trong vòng ba ngày, cấm người Do thái không được ra khỏi nhà - ai vi phạm sẽ bị xử tử.
Moché Người giúp việc thánh chạy tới nhà chúng tôi:
“Tôi đã cảnh giác các người rồi mà,” anh gào lên với cha tôi. Và không chờ trả lời, anh biến đi.
Cùng ngày, cảnh sát Hungary ập vô nhà người Do thái trên phố. Cấm người Do thái giữ trong nhà vàng, nữ trang hoặc bất cứ đồ gì có giá trị. Phải nộp cho nhà chức trách mọi thứ đó - ai vi phạm sẽ bị xử tử. Cha tôi xuống hầm nhà, chôn những gì chúng tôi dành dụm được.
Trong nhà, mẹ tôi tiếp tục bận rộn với những công việc thường lệ. Lâu lâu bà dừng tay, im lặng nhìn chúng tôi.
Hết ba ngày, có sắc lệnh mới: người Do thái phải mang ngôi sao màu vàng.
Vài người vị vọng trong cộng đồng đến gặp cha tôi - là kẻ thường có quan hệ đáng kể với cảnh sát Hungary - để hỏi ý kiến ông về tình hình. Cha tôi không đánh giá tình hình là quyết liệt - có lẽ ông không muốn làm người khác nãn lòng hoặc xát muối vô vết thương của họ:
“Ngôi sao vàng? Ờ, thì đã sao? Các người chẳng chết vì cái đó đâu...”
(Khốn khổ cho Cha! Rồi có phải cha chết vì cái đó không?)
Nhưng nhà cầm quyền đã ban hành những sắc lệnh mới. Cấm chúng tôi vào tiệm ăn hay quán cà phê, đi du lịch bằng xe lửa, tới hội đường, ra phố sau sáu giờ chiều.
Rồi thì tới ghetto, biệt khu Do thái.
Người ta thành lập tại Sighet hai biệt khu. Một cái lớn ở trung tâm thành phố, chiếm bốn đường phố; cái kia nhỏ hơn chạy dài hai bên những con phố nhỏ trong khu vực quanh rìa thành phố. Đường phố Sergent của chúng tôi nằm trong biệt khu thứ nhất. Nhờ vậy chúng tôi được ở lại trong nhà mình. Nhưng vì nhà nằm ngay góc đường nên các cửa sổ mặt ngoài ngó ra đường phố đều bị niêm kín. Chúng tôi nhường vài phòng cho những người bà con bị lôi ra khỏi nhà của họ.
Từng chút một, đời sống trở lại bình thường. Hàng rào kẽm gai không làm chúng tôi thật sự sợ hãi. Thậm chí chúng tôi nghĩ mình còn may mắn; chúng tôi hoàn toàn độc lập: một nước cộng hoà Do thái nhỏ... Chúng tôi bổ nhiệm Hội đồng Do thái, cảnh sát Do thái, văn phòng trợ cấp xã hội, ủy ban lao động, bộ phận vệ sinh -- toàn bộ guồng máy của một chính quyền.
Ai cũng ngạc nhiên về chuyện đó. Trước mắt chúng tôi không còn những bộ mặt thù nghịch, những cái nhìn nặng trĩu căm ghét. Nỗi sợ hãi và đau khổ của chúng tôi đã chấm dứt. Chúng tôi sống giữa người anh em Do thái với nhau...
Dĩ nhiên cũng có những lúc không vừa ý. Hằng ngày bọn Đức đến chở đàn ông đi đốt than dùng cho xe lửa quân sự. Loại việc này không có nhiều người tình nguyện làm. Nhưng ngoài chuyện đó ra, không khí thật bình yên và an lòng.
Ý kiến chung là chúng tôi sẽ được ở trong biệt khu cho tới khi chiến tranh chấm dứt, cho tới khi Hồng Quân đến. Rồi mọi sự sẽ lại như ngày trước. Không có người Đức hoặc người Do thái nào cai trị biệt khu - chỉ có ảo giác chế ngự chúng tôi.
Vào ngày chủ nhật trước lễ Ngũ Tuần, trong nắng xuân người ta thảnh thơi vô tư lự, tản bộ dạo mát đầy đường phố. Họ sung sướng chuyện vãn. Trẻ con bày đồ chơi trên vĩa hè. Tôi ngồi trong vườn Exra Malik cùng với vài bạn học tìm hiểu một luận đề trong sách Talmud.
Đêm xuống. Có hai mươi người tụ tập ở sân sau nhà tôi. Cha tôi cùng họ nói chuyện vặt và trình bày tỉ mỉ nhận xét riêng của ông về tình hình. Ông vốn là người khéo chuyện.
Thình lình cổng mở và Stern -- một người trước kia là thương gia nay làm cảnh sát - đi vào, túm một bên người cha tôi. Dù trời nhá nhem tôi vẫn thấy cha tôi tái người.
“Việc gì vậy?” tất cả chúng tôi hỏi ông.
“Tôi không biết. Người ta mời tôi dự cuộc họp bất thường của hội đồng. Chắc xảy ra chuyện gì đó.”
Câu chuyện vui vẻ ông đang kể cho chúng tôi nghe tới đây bị ngưng lại nửa chừng, và sẽ không bao giờ kết thúc.
“Tôi tới họp liền,” ông nói tiếp, “nếu được, tôi về ngay. Tôi sẽ kể hết với các người. Chờ tôi nghe.”
Chúng tôi chuẩn bị chờ đợi suốt mấy giờ. Sân sau thành giống như hành lang bên ngoài một phòng hành quân. Chúng tôi chỉ chờ cổng mở cánh -- như thể chờ thấy các tầng trời tự mở ra. Những người láng giềng khác nghe lời đồn đãi tìm tới nhập bọn. Người ta nhìn đồng hồ mình. Thời gian trôi qua rất chậm. Một cuộc họp lâu lắc như thế này có ý nghĩa gì đây?
“Tôi linh cảm điềm dữ,” mẹ tôi nói. “Chiều nay tôi để ý thấy có nhiều mặt lạ trong biệt khu -- tôi tin đó là hai viên chức Đức, người của Gestapo. Từ khi chúng ta bị gom vào khu này, chưa có tên viên chức nào ló mặt ra...”
Gần nửa đêm. Chẳng ai buồn đi ngủ. Vài người vội vã tạt ngang nhà mình coi mọi sự có yên ổn không. Một số người về nhà, nhưng yêu cầu là hễ cha tôi về thì báo ngay cho họ biết.
Cuối cùng cửa mở, ông xuất hiện. Người xanh mét. Thêm lần nữa ông bị bu quanh.
“Xảy ra chuyện gì vậy? Kể chúng tôi nghe chuyện gì xảy ra! Nói đi nào!”
Vào lúc đó chúng tôi thèm nghe một lời gây tin tưởng, một câu nói rằng chẳng có gì mà sợ cả, rằng cuộc họp rất như cũ, rất như thường lệ, rằng chỉ họp về vấn đề trợ cấp xã hội, về sửa soạn làm vệ sinh! Nhưng chỉ thoáng nhìn vẻ mặt hốc hác của cha tôi cũng đủ hiểu.
“Tôi có tin khủng khiếp,” rốt cuộc ông cũng phải nói. “Trục xuất.”
Khu biệt cư bị dẹp bỏ hoàn toàn. Bắt đầu ngày mai chúng tôi phải rời đi tuần tự theo tên đường phố có nhà mình.
Chúng tôi muốn biết mọi sự, tất cả các chi tiết. Tin đó làm choáng váng mọi người, tuy thế chúng tôi muốn biết tới tận cùng cho dù có cay đắng mấy đi nữa.
“Chúng ta bị mang đi đâu?”
Cái đó bí mật. Bí mật đối với tất cả, ngoại trừ một người: Chủ tịch Hội đồng Do thái. Nhưng ông không nói; ông không thể nói. Gestapo dọa sẽ bắn ông nếu ông nói.
“Có lời đồn,” cha tôi nói lạc giọng, “rằng chúng ta sẽ tới đâu đó ở Hungary, làm việc trong các lò gạch. Chắc là vì chỗ này gần mặt trận quá...”
Và, sau khi im lặng một chút, ông thêm:
“Mỗi người chỉ được phép đem theo vật dụng cá nhân. Một ba lô, ít đồ ăn, vài bộ quần áo. Ngoài ra không thêm gì khác.”
Lại im lặng nặng nề.
“Đi đánh thức hàng xóm dậy,” cha tôi nói. “Để họ có thể chuẩn bị kịp thời.”
Bóng tối lâu nay ở bên tôi đột nhiên vươn dậy như từ một giấc ngủ dài. Chúng thinh lặng vụt chạy tràn lan mọi hướng.
Trong chốc lát chúng tôi trơ trọi. Rồi thình lình, Batia Reich, người bà con sống chung nhà với chúng tôi, bước vô phòng:
“Có ai đó ở ngoài biệt khu đang gõ phía cửa sổ bị niêm!”
Mãi tới sau chiến tranh chúng tôi mới biết người gõ cửa sổ đó là ai. Đó là viên thanh tra cảnh sát dân Hungary, bạn của cha tôi. Trước khi chúng tôi vào biệt khu, ông đã nói với chúng tôi: “Đừng lo. Nếu có gì nguy hiểm tôi sẽ báo trước cho các người.” Nếu tối đó ông nói chuyện được với chúng tôi thì có thể chúng tôi đã cao bay xa chạy... Lập tức chúng tôi cố cạy cửa sổ nhưng đã trễ. Bên ngoài không có ai.
Khắp biệt khu thức giấc. Từng cửa sổ rồi từng cửa sổ, ánh sáng bùng lên hết mọi cửa sổ. Tôi đi vào nhà một người bạn của cha tôi. Tôi đánh thức người gia trưởng, một ông cụ râu xám, mắt mơ mộng. Cụ thường suốt đêm gò lưng nghiên cứu.
“Dậy cụ ơi, dậy! Cụ phải sửa sọan cho một chuyến đi dài! Cụ sắp bị trục xuất khỏi đây sáng mai với cả nhà và tất cả mọi người Do thái. Đi đâu? Cụ ơi, đừng hỏi cháu. Đừng hỏi cháu câu nào hết. Chỉ có Thượng đế mới trả lời cụ được. Vì Trời, dậy đi cụ ơi.”
Lời tôi nói ra không được cụ hiểu lấy một tiếng. Có lẽ cụ nghĩ là tôi mất trí.
“Chuyện gì vậy? Chuẩn bị chuyến đi à? Chuyến đi nào? Tại sao? Xảy ra chuyện gì? Cháu có khùng không đó?”
Vẫn còn ngái ngủ cụ nhìn tôi với đôi mắt vừa kinh dị vừa ngờ vực, như thể cụ mong tôi bật ra cười rồi sau cùng nói, “Vô giường lại đi cụ. Đi ngủ lại đi cụ. Mơ cho đẹp đi cụ. Chẳng có gì xảy ra hết. Cháu giỡn chơi thôi mà.“
Cổ họng tôi khô, lời nói mắc nghẹn trong đó, làm môi tôi tê dại. Tôi không nói thêm được nữa.
Rồi cụ hiểu ra. Cụ ra khỏi giường, với cử chỉ máy móc, cụ bắt đầu mặc quần áo. Bước tới giường vợ mình đang ngủ, rất dịu dàng cụ khẻ chạm tay lên mi mắt cụ bà, bà mở mắt, và tôi thấy hình như trên môi bà có nụ cười. Kế đó cụ đến giường các con, lẹ làng đánh thức chúng dậy, kéo chúng ra khỏi những giấc mơ. Tôi vọt đi.
Thời gian vụt qua rất nhanh. Bốn giờ sáng rồi. Cha tôi chạy hết chỗ này qua chỗ kia, mệt lã, an ủi các bạn, chạy tới Hội đồng Do thái coi thử lúc này có hủy bỏ chỉ thị đó không. Tới phút giây sau cùng, trong lòng chúng tôi vẫn le lói hy vọng.
Phụ nữ luộc trứng, xào thịt, nướng bánh và sửa soạn ba lô. Trẻ con lang thang chỗ này chỗ nọ, vít đầu nhau, chúng chẳng biết mình nên làm gì, đi đâu, làm sao cho khỏi vướng chân người lớn. Sân sau nhà tôi như thành nơi họp chợ. Đồ quí của mỗi nhà, thảm quí, chân đèn bạc, sách nguyện, Thánh kinh, các đồ thờ phượng vất bừa bãi trên mặt đất đầy bụi dưới bầu trời xanh tuyệt vời; những đồ vật đáng thương ngó như thể chúng chẳng bao giờ còn thuộc về ai nữa.
Khoảng tám giờ sáng, sự mệt mỏi như chì bị nấu chảy tụ lại trong mạch máu, chân tay, đầu óc. Tôi đang giữa giờ cầu nguyện thường lệ của mình thì thình lình có nhiều tiếng la trên đường phố. Tôi đứng bật dậy làm toác hộp đựng sách kinh, chạy tới cửa sổ. Cảnh sát Hungary đang tràn vào biệt khu, la lớn ở đường phố bên cạnh:
“Tất cả người Do thái ra ngoài! Lẹ lên!”
Vài người cảnh sát Do thái vào trong nhà dân, nói lạc giọng:
“Đã đến giờ rồi... chúng ta bỏ hết những thứ này lại...”
Cảnh sát Hungary vung tứ tung dùi cui và khiên, hết qua phải lại về trái, không cần lý do, đánh rạp người già, phụ nữ, trẻ con và những ai có vẻ tàn phế.
Từng nhà rồi từng nhà trống trơn, đường phố đầy người ta và bọc gói. Chừng mười giờ, tất cả những kẻ bị kết án đều đã ra ngoài. Cảnh sát điểm danh, một lần, hai lần, hai mươi lần. Sức nóng tăng cao. Mồ hôi tuôn như suối khắp mặt khắp người.
Trẻ con đòi nước.
Nước? Có rất nhiều, sát tầm tay, trong nhà, trong sân, nhưng cấm ra khỏi hàng.
“Nước! Mẹ ơi! Nước!”
Chỉ có cảnh sát của biệt khu là có thể lén đổ nước vô một ít chiếc bình. Các chị em tôi và tôi bị sắp xếp đi chuyến sau chót nên chúng tôi còn được để cho đi lòng vòng, chúng tôi hết lòng tiếp sức họ.
Rồi sau cùng, khoảng một giờ trưa, có lệnh lên đường.
Thật vui mừng - vâng, vui mừng. Có thể người ta cho rằng Thượng đế không bày được trò thống khổ nào trong hỏa ngục tệ hơn là nổi khổ ngồi đây bên đóng bọc gói, ngay chính giữa đường, dưới ánh mặt trời thiêu đốt: thế nên không gì thích hơn là được lên đường. Họ bắt đầu chuyến đi không chút ngoái nhìn đường phố, bỏ lại những người khuất núi, nhà trống trơn, vườn tược, mộ bia... Trên lưng mỗi người là ba lô. Trong mắt mỗi người là cơn đau đã chìm sâu trong nước mắt. Chầm chậm. Nặng nề. Đám diễu hành tìm đường ra cổng biệt khu.
Và tôi đứng đó, bên vệ đường, không cục cựa nổi thân mình. Đây rồi vị Thầy cả, lưng còng xuống, mặt cạo nhẵn nhụi, ba lô trên lưng. Sự có mặt của ông giữa đám người bị trục xuất này làm tăng thêm vẻ không thực của quang cảnh. Nó như một trang bị xé ra từ cuốn truyện nào đó, từ cuốn tiểu thuyết dã sử nào đó về việc bị cầm giữ ở thành Babylon hoặc trước một Toà án Dị giáo Tây ban nha.
Từng người, từng người đi qua trước mặt tôi, thầy giáo, bạn hữu, tất cả những ai đã làm tôi sợ hãi, tất cả những kẻ tôi đã cười nhạo, tất cả những người đã sống với tôi trong nhiều năm. Họ đi qua, té xuống, đứng lên, kéo lê hành lý, kéo lê cuộc đời, rời bỏ nhà mình và những năm tháng ấu thơ, co rúm lại như những con chó bị đòn vọt.
Họ đi qua mà chẳng nhìn về phía tôi. Chắc họ ganh tị với tôi.
Đoàn diễu hành biến mất nơi khúc quanh đường phố. Chỉ ít bước nữa thôi họ sẽ vượt qua vòng rào biệt khu.
Đường phố như thể chốn chợ búa thình lình bị bỏ hoang. Ở đây có thể tìm thấy mọi thứ: va li, xách, cặp táp, dao, dĩa, sổ trương mục ngân hàng, giấy tờ, các bức chân dung bạc màu. Tất cả những vật mà họ những tưởng sẽ đem được theo bên mình thì đến phút cuối phải bỏ lại. Người ta đã đánh mất tất cả các giá trị.
Mọi nơi phòng ốc bỏ ngỏ. Cửa lớn cửa sổ mở ra như há miệng ngó vào hư không. Mọi vật đều tự do, ai muốn lấy gì thì lấy, chẳng thuộc về ai cả. Đã có cái rất giản dị cho con người tự giúp mình. Một huyệt mộ mở sẵn.
Mặt trời mùa hè nóng.
Suốt hôm đó chúng tôi chẳng ăn gì. Nhưng chúng tôi không đói. Chúng tôi kiệt sức.
Cha tôi đi theo những người bị trục xuất tới tận lối ra vào của biệt khu. Trước tiên họ phải đi qua hội đường to lớn nơi đó họ bị lục soát tận xương, xem có mang theo mình bất cứ vàng bạc hay các vật gì có giá trị không. Tại đó, bùng lên cơn điên tiết và những cú dùi cui đánh xối xả.
“Khi nào tới lượt chúng ta?” tôi hỏi cha tôi.
“Ngày kia. Ít ra là như vậy, trừ phi sự việc có thay đổi gì khác. Một phép lạ, có thể...”
Người ta bị mang đi đâu? Đã có ai biết chưa? Không, bí mật được giữ kín bưng.
Đêm xuống. Tối đó chúng tôi đi ngủ sớm. Cha tôi nói:
“Ngủ ngon, các con. Không kéo dài tới ngày kia, Thứ Ba đâu.”
Thứ Hai trôi qua như đám mây nhỏ ngày hè, như giấc mộng trong giờ tảng sáng.
Bận rộn với việc sắp xếp ba lô, với việc nướng bánh mì và bánh ngọt, chúng tôi chẳng còn nghĩ tới gì cả. Lời phán quyết thì đã công bố.
Tối đó, mẹ tôi chuẩn bị giường cho chúng tôi rất sớm, bà nói: để giữ gìn sức khoẻ. Đây là đêm cuối cùng chúng tôi ở nhà mình.
Tôi thức dậy khi trời rạng sáng. Tôi muốn có thời giờ cầu nguyện trước khi chúng tôi bị trục xuất.
Cha tôi còn dậy sớm hơn cả tôi để đi thăm dò tin tức. Ông về khoảng tám giờ. Tin mừng: hôm nay chúng ta không phải rời thành phố. Chỉ bị dọn vào biệt khu nhỏ. Ở đó để chờ chuyến chuyên chở chót. Chúng tôi sẽ là những kẻ ra đi sau cùng.
Lúc chín giờ, khắp nơi tái diễn hoạt cảnh hôm Chúa Nhật. Cảnh sát vung dùi cui la lớn:
“Tất cả Do thái ra ngoài!”
Chúng tôi đã sẵn sàng. Tôi bước ra trước hết. Tôi không muốn nhìn nét mặt của cha mẹ mình. Tôi không muốn trào nước mắt. Chúng tôi ngồi giữa đường như những người đã ngồi hôm kia. Vẫn cơn nóng thiêu đốt ấy. Vẫn cơn khát ấy. Nhưng chẳng còn ai ở lại để mang nước tới cho chúng tôi.
Tôi nhìn ngôi nhà mình đã sống, đã trải qua rất nhiều năm trong cuộc tìm kiếm Thượng đế trong chay tịnh nhằm thúc cho mau tới ngày giáng lâm của Đấng Cứu thế, trong mường tượng những gì cuộc đời mình sẽ trở thành giống như thế. Dù thấy có phần khổ não trong trí óc trống rỗng của mình.
“Đứng lên! Đếm người!”
Đứng. Đếm. Ngồi xuống. Lại đứng lên. Lại ngồi bệt xuống. Vô tận. Chúng tôi nóng ruột chờ cho xong chuyện. Bọn họ đợi cái gì đây? Cuối cùng lệnh truyền:
“Đằng trước bước!”
Cha tôi khóc. Lần đầu tiên trong đời tôi thấy ông khóc. Tôi chưa bao giờ tưởng tượng ra là ông có thể khóc. Phần mẹ tôi, bà bước đi khuôn mặt lộ nét bất động, không một lời, chìm sâu trong ý nghĩ. Tôi nhìn đứa em gái út Tzipora nhỏ của tôi, tóc chải gọn gàng, áo khoác đỏ vắt tay, em tôi thơ dại mới lên bảy. Ba lô trên lưng đè quá nặng lên người nó. Nó cắn chặt răng. Nó biết lúc này có than thở cũng vô ích. Cảnh sát đang vung dùi cui. “Lẹ lên!” Tôi hết hơi. Chuyến đi chỉ mới bắt đầu mà tôi đã cảm thấy đuối sức...
“Lẹ lên! Lẹ lên! Vác xác lên chớ, đồ con lợn!” viên cảnh sát Hungary gào lên.
Từ lúc đó tôi bắt đầu hận họ, và cho tới hôm nay, dây liên kết duy nhất giữa họ và tôi là mối hận thù ấy. Họ là những kẻ đầu tiên đàn áp chúng tôi. Họ là bộ mặt đầu tiên trong những bộ mặt của địa ngục và thần chết.
Chúng tôi được lệnh chạy. Chúng tôi phải rút ngắn nửa khoảng thời gian. Ai nghĩ ra là chúng tôi rất sung sức? Bên trong cửa sổ, đằng sau cửa chớp, đồng bào Hungary nhìn chúng tôi chạy qua.
Cuối cùng tới điểm đến. Ném túi xách xuống đất, chúng tôi ngã lăn ra.
“Lạy Chúa, Chúa Tể Càn khôn, xin thương xót chúng con trong hồng ân Ngài...”
Biệt khu nhỏ. Ba hôm trước người ta còn sống ở đây - chủ nhân những gì mà lúc này chúng tôi dùng. Họ đã bị trục xuất. Chúng tôi đã quên hẳn họ.
Ngỗn ngang hỗn độn còn hơn cả biệt khu lớn. Chắc là người ta đã bị trục xuất bất ngờ. Tôi vào các phòng gia đình chú tôi đã ở. Trên bàn còn nửa liễn xúp. Có chiếc bánh ngọt đang chờ đút lò. Sách vung vãi khắp sàn nhà. Hẳn chú tôi đã mơ mang chúng theo mình?
Chúng tôi có chỗ ở. (Thật sung sướng!) Tôi đi kiếm ít củi; chị và em gái tôi nhóm bếp. Mặc dù đang mệt lã người, mẹ tôi vẫn bắt đầu chuẩn bị bữa ăn.
“Chúng ta phải sống sót, chúng ta phải sống sót,” bà nhắc đi nhắc lại không ngừng.
Tinh thần mọi người không tới nổi tệ lắm; chúng tôi bắt đầu làm quen với hoàn cảnh mới. Thậm chí trên đường phố chúng tôi còn chuyện vãn hết sức lạc quan. Chính quyền Quốc xã sẽ không còn đủ thời gian trục xuất chúng tôi, người ta nói rằng...trục xuất chừng ấy người là quan ngại lắm rồi, tệ lắm rồi, không thể trục xuất thêm nữa. Ngoài ra, chính quyền có thể để cho chúng tôi sống nốt cuộc đời nhỏ nhoi bạc phước của mình tại đây cho tới khi hết chiến tranh.
Biệt khu không bị canh gác. Mọi người được ra vào tùy ý. Martha, bà lão giúp việc trước đây đến thăm chúng tôi. Bà khóc rấm rứt, van nài chúng tôi tới ở tại làng bà, nơi bà có thể lo cho chúng tôi một chỗ ẩn núp an toàn. Cha tôi không muốn nghe chuyện đó.
Ông nói với tôi và chị tôi, “Các con muốn thì cứ đi. Cha ở lại đây với mẹ và con út...”
Đương nhiên chúng tôi không chịu rời nhau.
Đêm. Chẳng ai nguyện cầu cho đêm qua nhanh. Sao trời là những tia lửa đau đáu nhìn chúng tôi. Liệu có ngày nào những tia lửa ấy tắt lịm, bầu trời sẽ chẳng còn lại gì ngoài những ngôi sao chết, những con mắt chết.
Không có gì làm ngoài việc lên giường, vào nằm trong giường của những người vừa vắng mặt, để nghỉ ngơi, để gom lại sức lực của mình.
Rạng sáng, chẳng còn sót lại chút lo phiền nào. Chúng tôi thấy mình như trong ngày nghỉ lễ. Người ta nói:
“Ai mà biết được? Có thể người ta trục xuất chúng ta là để giữ cho chúng ta an toàn. Mặt trận không xa đây lắm; chỉ ít lâu nữa là chúng ta sẽ nghe tiếng súng. Tới lúc đó thì sớm muộn gì thường dân cũng phải sơ tán...”
“Có lẽ họ sợ chúng ta có thể giúp quân du kích...”
“Theo tôi thì toàn bộ việc trục xuất này chỉ là trò hề. Vậy đó, đừng cười. Tụi Quốc xã muốn lấy trộm châu báu của chúng ta. Họ biết chúng ta chôn dấu khắp nơi và họ phải lùng sục nó: thật tiện lợi cho họ khi các chủ nhân đi nghỉ lễ...”
Nghỉ lễ!
Những lời lạc quan chẳng ai tin đó giúp chúng tôi qua được thời giờ. Một ít ngày sống ở đây trôi qua khá thú vị, êm đềm. Không còn có vấn đề nào về tài sản, về phân biệt xã hội, và điều quan trọng là hết thảy mọi người đều bị kết án chung một số phận - ra sao thì vẫn chưa biết được.
Thứ Bảy, ngày nghỉ ngơi, ngày được chọn để trục xuất chúng tôi.
Đêm qua, chúng tôi ăn bữa Thứ Sáu truyền thống. Chúng tôi theo tục lệ đọc lời kinh nguyện trên bánh và rượu, im lặng ngồi ăn. Chúng tôi cảm thấy đây là lần chót cả nhà được ngồi bên nhau quanh bàn ăn. Suốt đêm tôi trằn trọc với những ý nghĩ và nhung nhớ đầy ắp tâm trí, không ngủ được.
Sáng tinh sương, chúng tôi đã ở trên đường phố, sẵn sàng ra đi. Lần này không có cảnh sát Hungary. Hội đồng Do thái được đồng ý cho tự đứng ra lo liệu việc tổ chức người của mình.
Đoàn xe chở chúng tôi đi thẳng tới hội đường chính. Thành phố như hoang mạc. Tuy vậy, đằng sau các cửa chớp có lẽ có những người bạn Hungary của chúng tôi đang chờ lúc có thể vào hôi của trong nhà chúng tôi.
Hội đường như một nhà ga lớn: đồ đạc tan nát. Bàn thờ sụp, rèm trướng bị xé giật, tường trống trơn. Nhiều người nghẹn thở. Chúng tôi trải qua hai mươi bốn giờ kinh hoàng ở đó. Nam tầng dưới, nữ tầng trên. Hôm nay Thứ Bảy; như thể chúng tôi đến đây để dự một cuộc hành lễ. Vì mọi người không được phép ra ngoài nên ai cũng tìm một góc riêng để nghỉ ngơi.
Sáng hôm sau, chúng tôi đi bộ tới nhà ga nơi đoàn tàu với các toa dùng để chở súc vật đang chờ. Cảnh sát Hungary dồn chúng tôi lên - tám mươi người một toa. Để lại cho chúng tôi một ít bánh và vài gàu nước. Người ta kiểm tra các thanh cửa sổ xem chúng đã vít chặt chưa. Rồi niêm toa lại. Mỗi toa đặt một người phụ trách. Nếu có ai trốn thoát, người phụ trách sẽ bị bắn.
Hai viên chức Gestapo đi đi lại lại trên sân ga, mỉm cười: mọi sự đúng y như sắp đặt, mọi sự diễn ra tốt đẹp.
Còi tàu xé không khí. Bánh bắt đầu nghiến. Chúng tôi đang ở trên con đường của mình.