Ông Phán Thêm là một người tánh nết hoà huỡn, ăn ở nhơn từ. Ông làm việc tại sở Thương Chánh Sài gòn hai mươi mấy năm, ông chẳng hề mếch lòng anh em trong ty, mà cũng chăng biết giận hờn ai hết.
Người tánh tình như vậy, cư xử như vậy ai quen cũng đều thương mến chẳng hiểu tại mạng số làm sao mà đã không được hưởng hạnh phúc, lại còn phải mang một cái tai hoạ lớn trong chốn gia đình, làm cho trí ông muốn đảo điên, lòng ông phải khô héo.
Ông gốc ở Phụng Hiệp. Ông cưới vợ trễ mà có con cũng muộn, đến 32 tuổi vợ chồng mới sanh được một đứa con gái. Vợ chồng ông ăn ở với nhau rất thuận hoà, lại ít con nên cưng con không ai bì kịp.
Nhờ ông cần kiệm lại cũng nhờ có của phụ ấm[i][i] giúp vô nên ông có sắm được một sở ruộng tại kinh Sóc Trăng, mỗi năm thâu huê lợi lối 5 ngàn gia. lúa. Ông lại có mua được một miếng đất nhỏ trong Châu Thành Sài gòn, phía sau Nhà Thờ Chợ Đũi, ông cất một cái nhà ngói nền đúc, vách gạch cao ráo sạch sẽ mà ở với vợ con.
Gia đình của ông đương đầm ấm vui vẻ thình lình đất bằng sóng dậy làm cho rã rời tan nát, đau đớn không biết chừng nào.
Số là cách 3 năm trước, con gái ông lúc ấy được 13 tuổi. Tới mùa gặt, bà Phán sửa soạn xuống Sóc Trăng mà thâu gộp lúa ruộng. Vì bà cưng con bà không muốn rời con, nên bà nói với ông rằng: “Tôi đi lâu, để con nhỏ ở nhà sợ nó nhớ. Lại nếu để nó ở nhà mỗi ngày ông mắc đi làm việc thì nó buồn tội nghiệp. Thôi để tôi dẫn nó theo tôi cho xong. Ông Phán cũng cưng con, song ông nghe bà nói trúng lý, nên ông không nỡ cản, duy có dặn bà góp lúa riết mà gởi rồi về cho mau mà thôi.
Bận đi thì mẹ con đi xe hơi đò. Xuống ruộng ở ít bữa, bà Phán lại thấy nhựt trình đăng tin nói có một chiếc xe đò đường Sài gòn - Sóc Trăng vì chạy mau nên lật, hành khách chết hết hai người, và bị thương trên một chục người. Bà hay tin ấy thì bà sợ quá, nên chừng góp lúa gởi xong rồi bà không dám về xe. Bà biểu tá điền chèo ghe đưa bà lên Ngã Bảy rồi mẹ con xuống tàu mà về Sài gòn, tính tránh tai nạn về xe đụng, xe lật. Tuy bà dè dặt kỹ lưỡng, song con người hễ mang cái mạng đã cùn rồi thì khó mà chạy trời cho khỏi nắng được. Chánh chuyến tàu mẹ con bà đi đó, chiếc tàu rủi nổ nồi sôđe[ii][ii] chìm ban đêm giữa sông cái, hành khách chết rất nhiều, mẹ con bà phán đều chết trong cái tai nạn ấy.
Ông Phán Thêm hay tin, thì ông bủn rủn tay chân. bất tỉnh nhơn sự. Cái hạnh phước của đời ông là vợ với con, nay vợ con tiêu mất một lượt, tiêu mất một cách bất ngờ, một cách thảm thiết thì cái hạnh phước ấy nó tan như chòm mây, nó rã như bọt nước, cái đời của ông không cỏn nghĩa lý gì. Ông gượng gạo đi kiếm vớt tử thi của vợ con mà chôn rồi trở về nhà một mình hiu quạnh, ông nghĩ cuộc đời là một giấc mộng, có sanh rồi có tử, có vui rồi có buồn, lê thứ cũng như công hầu, đồng lặn hụp trong biển luân hồi, đồng lăn lộn trong vòng phiền não.
Ông nhớ vợ con, ông trách căn số, ông hết muốn công danh nữa nên ông làm đơn xin hưu trí, đặng dấu cái sắc buồn trong nhà cho thiên hạ khỏi thấy mà thương tâm.
Trong ba năm nay mà tóc ông đã bạc hết phân nửa, răng ông đã rụng hết vài cái, hình vóc ông đã ốm, da mặt ông đã dùn, khi thì xẩn bẩn ngoài sân sửa kiểng trồng bông, khi thì nằm co trên ghế nghĩ việc đời, hoặc đọc tiểu thuyết.
Một buổi sớm mơi, chị Mười là người ở nấu ăn, mắc lăng xăng sau bếp, còn chú Sen là bạn[iii][iii] trai thì đương lau tủ, lau bàn. Ông Phán Thêm đứng trước sân xem bông, thình lình ông thấy có một cái xe kéo ngừng ngay cửa ngõ. Ông dòm coi khách nào đến thăm, té ra Bà Tư Kiến, là chủ tiệm may “Vĩnh Hưng” quen biết ông thuở nay.
Ông mời chào bà, chả kịp mời vô nhà thì bà nói rằng: “Mấy tháng nay tôi không gặp ông nay có dịp đi lên mé trên nầy, nên ghé thăm ông một chút. Sao ông không đi chơi, cứ ở nhà hoài, ông Phán”.
Ông thở ra mà đáp rằng:
- Tôi có biết vui là cái gì đâu mà đi chơi.
- Ông cứ buồn rầu hoài!
- Không buồn sao được, bà Tư.
- Buồn thì phải đi chơi cho khuây lảng chớ.
- Tôi tưởng khó mà khuây lảng được.
Hai người dắt nhau vô nhà. Ông phán mời bà Tư Kiến ngồi bộ ván lót căn bìa, kêu chú Sen biểu đem nước trà đãi khách, rồi ông kéo ghế ngồi tại bàn viết cho gần bà và nói chuyện.
Bà Tư muốn khuyên giải ông Phán nên bà nói rằng:
- Ở đời ai có mạng số nấy, hơi nào mà buồn rầu. Như tôi đây, hồi ông mất tôi cũng buồn dữ lắm chớ, mà buồn ít tháng rồi khuây lảng lần lần, để trí lo làm ăn, chớ nằm co mà buồn rầu hoài, thì chết đói còn gì.
- Ông mất mà bà còn có vài người con. Tuy con có gia thất riêng song cũng còn đó. Còn phận tôi thì rụi hết một lượt, hễ nhớ tới thì tôi đứt ruột nát gan, làm sao mà vui được.
- Tại phần số của bà Phán tới chừng đó mà thôi, nên trời khiến bà phải theo ông theo bà.
Bây giờ ông buồn rầu đến chừng nào đi nữa, bà Phản hay là con cháu cũng không sống lại được.
- Đã biết như vậy đó chớ mà tôi khuây lảng không được biết làm sao.
- Tôi khuyên ông phải đi chơi, đi xứ nầy, xứ kia tự nhiên khuây lảng.
- Tôi có đi thử rồi. Đi ra ngõ thấy thiên hạ họ có vợ có con họ vui với vợ con, tôi nghĩ lại phận tôi thì tôi càng buồn nhiều hơn nữa. Nhất là tôi thấy con gái của họ một trang một lứa với con nhỏ của tôi thì tôi nhớ con nhỏ tôi quá, chịu không được. Vì vậy nên tôi hết muốn đi đâu nữa lục đục ở nhà ra vô thấy chân dung của con nhỏ tôi cho tôi đỡ buồn.
Ông Phán nói tới đó ông ngó vô bàn thờ hai hàng nước mắt rưng rưng.
Bà Tư Kiến ngó theo ông thì thấy trên bàn thờ có treo hai tấm chân dung, hoạ thiệt lớn, một tấm của bà Phán thì ngồi, một tấm của con gái bà thi đứng, hai tấm đau đóng khuôn lồng kiếng kỹ lưỡng. Bà thấy ông Phán đau đớn về gia đình quá thì bà động lòng bà muốn kiếm lời khuyên giải ông, nên bà nói rằng:
- Ông buồn rầu quá, tôi sợ Ông đau chớ, năm nay tôi coi ông ốm lung lắm.
- Ôi! Đau ốm gì tôi cũng không cần. Tôi muốn chết phứt cho rồi chớ song như tôi nghĩ cũng không ích gì.
- Ông nói như vậy sao phải. Ông năm nay chưa đầy 50 tuổi, mà muốn chết cái gì!
- Chớ tôi sống nữa làm gì? Cái đời của tôi không còn mục đích gì nữa, sống thêm một ngày thì phiền não thêm một mớ, chớ có ích chi đâu?
- Ông nói như vậy tôi xin đỡ lời ông. Đời thiếu gì người gãy gánh[iv][iv] nửa chừng như ông vậy. Họ kiếm chỗ chắp nối[v][v] rồi cũng sanh con được vậy chớ.
- Họ khác tôi khác. Tôi làm như họ không được.
- Tại sao vậy? Ông năm nay thiệt mấy mươi tuổi?
- Tôi được 48 tuổi.
- Mới 48 tuổi mà già cả gì đó! Có người tới sáu mươi mà họ còn cưới vợ, còn sanh con đó sao.
- Tôi làm sao kiếm được người như vợ tôi hồi trước, mà bà biểu tôi cưới vợ khác?
- Phải, vợ chồng chắp nối thì làm sao cho bằng nguyên phối được. Nhưng mà ông ở trơ trọi một mình nếu có một người đờn bà ở trong nhà sớm khuya hủ hỉ với ông, thì có lẽ ông cũng bớt buồn được chớ.
- Khó lắm bà ôi! Tôi đã gây dựng được một cái gia đình đầm ấm, vui vẻ thì tốn công phu không biết bao nhiêu. Thình lình cái gia đình ấy tan rã đi. Bây giờ tôi đã già rồi, tôi nhắm khó mà lập lại một cái gia đình khác nữa cho được.
- Ông trộng tuổi chớ chưa phải là già thiệt. Tôi tưởng nếu ông cưới vợ khác, thì còn kiếm con được mà.
Hai người dắt nhau vô nhà. Ông phán mời bà Tư Kiến ngồi bộ ván lót căn bìa, kêu chú Sen biểu đem nước trà đãi khách, rồi ông kéo ghế ngồi tại bàn viết cho gần bà và nói chuyện.
Bà Tư muốn khuyên giải ông Phán nên bà nói rằng:
- Ở đời ai có mạng số nấy, hơi nào mà buồn rầu. Như tôi đây, hồi ông mất tôi cũng buồn dữ lắm chớ, mà buồn ít tháng rồi khuây lảng lần lần, để trí lo làm ăn, chớ nằm co mà buồn rầu hoài, thì chết đói còn gì.
- Ông mất mà bà còn có vài người con. Tuy con có gia thất riêng song cũng còn đó. Còn phận tôi thì rụi hết một lượt, hễ nhớ tới thì tôi đứt ruột nát gan, làm sao mà vui được.
- Tại phần số của bà Phán tới chừng đó mà thôi, nên trời khiến bà phải theo ông theo bà.
Bây giờ ông buồn rầu đến chừng nào đi nữa, bà Phản hay là con cháu cũng không sống lại được.
- Đã biết như vậy đó chớ mà tôi khuây lảng không được biết làm sao.
- Tôi khuyên ông phải đi chơi, đi xứ nầy, xứ kia tự nhiên khuây lảng.
- Tôi có đi thử rồi. Đi ra ngõ thấy thiên hạ họ có vợ có con họ vui với vợ con, tôi nghĩ lại phận tôi thì tôi càng buồn nhiều hơn nữa. Nhất là tôi thấy con gái của họ một trang một lứa với con nhỏ của tôi thì tôi nhớ con nhỏ tôi quá, chịu không được. Vì vậy nên tôi hết muốn đi đâu nữa lục đục ở nhà ra vô thấy chân dung của con nhỏ tôi cho tôi đỡ buồn.
Ông Phán nói tới đó ông ngó vô bàn thờ hai hàng nước mắt rưng rưng.
Bà Tư Kiến ngó theo ông thì thấy trên bàn thờ có treo hai tấm chân dung, hoạ thiệt lớn, một tấm của bà Phán thì ngồi, một tấm của con gái bà thi đứng, hai tấm đau đóng khuôn lồng kiếng kỹ lưỡng. Bà thấy ông Phán đau đớn về gia đình quá thì bà động lòng bà muốn kiếm lời khuyên giải ông, nên bà nói rằng:
- Ông buồn rầu quá, tôi sợ Ông đau chớ, năm nay tôi coi ông ốm lung lắm.
- Ôi! Đau ốm gì tôi cũng không cần. Tôi muốn chết phứt cho rồi chớ song như tôi nghĩ cũng không ích gì.
- Ông nói như vậy sao phải. Ông năm nay chưa đầy 50 tuổi, mà muốn chết cái gì!
- Chớ tôi sống nữa làm gì? Cái đời của tôi không còn mục đích gì nữa, sống thêm một ngày thì phiền não thêm một mớ, chớ có ích chi đâu?
- Ông nói như vậy tôi xin đỡ lời ông. Đời thiếu gì người gãy gánh[vi][iv] nửa chừng như ông vậy. Họ kiếm chỗ chắp nối[vii][v] rồi cũng sanh con được vậy chớ.
- Họ khác tôi khác. Tôi làm như họ không được.
- Tại sao vậy? Ông năm nay thiệt mấy mươi tuổi?
- Tôi được 48 tuổi.
- Mới 48 tuổi mà già cả gì đó! Có người tới sáu mươi mà họ còn cưới vợ, còn sanh con đó sao.
- Tôi làm sao kiếm được người như vợ tôi hồi trước, mà bà biểu tôi cưới vợ khác?
- Phải, vợ chồng chắp nối thì làm sao cho bằng nguyên phối được. Nhưng mà ông ở trơ trọi một mình nếu có một người đờn bà ở trong nhà sớm khuya hủ hỉ với ông, thì có lẽ ông cũng bớt buồn được chớ.
- Khó lắm bà ôi! Tôi đã gây dựng được một cái gia đình đầm ấm, vui vẻ thì tốn công phu không biết bao nhiêu. Thình lình cái gia đình ấy tan rã đi. Bây giờ tôi đã già rồi, tôi nhắm khó mà lập lại một cái gia đình khác nữa cho được.
- Ông trộng tuổi chớ chưa phải là già thiệt. Tôi tưởng nếu ông cưới vợ khác, thì còn kiếm con được mà.
[i] của thừa tựa
[ii] chaudière: bộ phận sản xuất hơi nước
[iii] người giúp việc
[iv] chết vợ hay chết chồng
[v] cưới vợ hay chồng kế
[vi] từ xưa ít người sống tới 70
[vii] kiếp trước