Những bài thơ viết về quê hương, đất nước, cũng như những bài thơ viết riêng về một làng quê đều tạo được ấn tượng tốt đẹp đối với những người yêu thơ. Cách đây gần 80 năm, trong phong trào thơ mới xuất hiện nhiều cây bút viết về làng quê Việt Nam. Và, họ đã thành danh. 80 năm qua, mỗi khi nhắc đến những bài thơ viết về cảnh làng quê miền Bắc, chúng ta đều nhớ đến những bài thơ của thi sĩ Đoàn Văn Cừ, Anh Thơ, Bàng Bá Lân... hay nhắc đến thôn Vĩ Dạ ở Huế, chúng ta nhớ đến bài thơ "Đây thôn Vỹ" của Hàn Mặc Tử. Nói đến Huế đẹp, Huế thơ, ta nhớ đến những bài thơ của thi sĩ Nam Trân. Và như thế, khi nói đến cảnh sinh hoạt của một làng chài ven biển, nhiều người trong chúng ta nhớ ngay đến bài thơ "Quê hương" của nhà thơ Tế Hanh:
Làng tôi vốn làm nghề chài lưới:
Nước bao vây, cách biển nửa ngày sông
Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng,
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá:
Chiếc thuyền nhẹ băng như con tuấn mã
Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trùng giang.
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Dướn thân trắng bao la thâu góp gió...
Ngày hôm sau, ồn ào trên bến đỗ
Khắp dân làng tấp nập đón ghe về
"Nhờ ơn trời biển lặng cá đầy ghe"
Những con cá tươi ngon thân bạc trắng
Dân chài lưới, làn da ngăm rám nắng
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm
Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ
Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ
Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi
Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi
Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!
(Nghẹ ngào)
Thơ về làng chài là một đề tài thật hiếm người viết. Có lẽ, Tế Hanh là người duy nhất viết về làng chài. Và, đã thành công với bài "Quê hương". Tế Hanh tên thật Trần Tế Hanh, sinh ngày 15/5/1921 ở làng Đông Yên, xã Bình Dương, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Bài thơ "Quê hương" chính là cái làng chài Đông Yên thân thương của Tế Hanh. Sinh ra, lớn lên, gắn bó với quê hương – một làng chài thơ mộng nằm cuối dòng sông Trà hiền hòa. Tế Hanh đã tinh tế đưa vào thơ của mình hình ảnh sinh hoạt trong cuộc sống của quê hương: Cảnh tấp nập ghe thuyền cá đầy khoang trên bến đỗ, những con thuyền như tuấn mã căng cánh buồm vôi trắng bạc lộng gió trên biển xanh mênh mông như mảnh hồn làng của ngư phủ giữa sóng nước đại dương. Hình ảnh những con thuyền nằm im bến mỏi sau chuyến ra khơi... Và, cả cái mùi nồng mặn quá của một làng chài. Chính vì vậy, thơ Tế Hanh gần gũi, quen thân với người yêu thơ.
Từ tuổi 16, đôi mươi, với một tâm hồn nhạy cảm, đầy tha thiết, Tế Hanh chọn lọc những nét đặc trưng đưa vào thơ của mình một thế giới gần gũi với cuộc sống: Nỗi buồn vu vơ của tuổi học trò trước cảnh chia ly trên sân ga (Vu vơ), nỗi niềm của con đường làng (Lời con đường quê), tạo cho người đọc nghe lòng bâng khuâng, xao xuyến... Năm 21 tuổi, với thi phẩm "Nghẹn ngào" (Hoa Niên), Tế Hanh người con của làng chài Đông Yên đã vinh dự nhận giải thưởng Tự lực văn đoàn (1939), khẳng định vị trí của mình trong phong trào thơ mới. Cũng từ đây, Tế Hanh gắn bó suốt cuộc đời mình với thi ca. Và, với bài thơ "Quê hương", Tế Hanh đã ghi dấu ấn rất riêng trong phong trào thơ mới. Bài thơ ra đời đến nay đã gần 80 năm, vẫn còn và mãi mãi hấp dẫn người yêu thơ. "Quê hương" của Tế Hanh như "cánh buồm vôi" vuợt trùng dương đã đi qua thế kỷ.
Trong cuộc hành trình với thơ ca, Tế Hanh đã xuất bản các tác phẩm chính: Nghẹn ngào (Hoa Niên – 1939), Lòng miền Nam (1956), Chuyện em bé cười ra đồng tiền (1960), Hai nửa yêu thương (1967), Khúc ca mới (1967), Đi suốt bài ca (1970), Câu chuyện quê hương (1973), Theo nhịp tháng ngày (1974), Giữa những mùa xuân (1976), Con đường và dòng sông (1980), Bài ca sự sống, Tuyển tập Tế Hanh (Tập I – 1987), Thơ Tế Hanh (1989), Vườn xưa (1992), Giữa anh và em (1992), Em chờ anh (1993), Tuyển tập Tế Hanh (Tập II – 1997).
Suốt gần một đời, Tế Hanh viết nhiều thơ về quê hương, đất nước và chiến tranh. Thơ Tế Hanh có nét rất riêng, độc đáo, đằm thắm và sâu sắc, được người yêu thơ đồng cảm. Nhà thơ Chế Lan Viên đã nhận định về Tế Hanh: "... Anh viết khá hay về biển, biển trong bão dữ. Nghĩ đến anh tôi nghĩ về cái êm đềm của những con sông. Anh có thể tả mùa hè rực rỡ, nhưng hình như anh xúc động nhất mùa thu... ".
Cùng với những bài thơ hay viết về quê hương, đất nước, Tế Hanh còn viết nhiều về tình yêu. Thơ tình của Tế Hanh không có nét rạo rực, cháy bỏng, lãng mạn bay bổng như thơ Xuân Diệu, cũng không dằn vặt khổ đau như thơ của Vũ Hoàng Chương. Thơ tình của Tế Hanh thường gắn với hoàn cảnh cụ thể trong cuộc sống đời thường, thể hiện nỗi niềm đằm thắm, sâu kín tận đáy lòng:
"Mảnh vườn xưa cây mỗi ngày mỗi xanh
Bà mẹ già tóc mỗi ngày mỗi bạc
Hai ta ở hai đầu công tác
Có bao giờ cùng trở lại vườn xưa?
Hai ta như ngày nắng tránh ngày mưa
Như mặt trăng mặt trời cách trở
Như sao Hôm sao Mai không cùng ở
Có bao giờ cùng trở lại vườn xưa?
Hai ta như sen mùa hạ cúc mùa thu
Như tháng mười hồng, tháng năm nhãn
Em theo chim em đi về tháng tám
Anh theo chim cùng với tháng ba qua
Một ngày xuân em trở lại nhà
Nghe mẹ nói anh có về hái ổi
Em nhìn lên vòm cây gió thổi
Lá như môi thầm thỉ gọi anh về
Lần sau anh trở lại một ngày hè
Nghe mẹ nói em có về bên giếng giặt
Anh nhìn giếng, giếng sâu trong vắt
Nước như gương soi lẻ bóng hình anh
Mảnh vườn xưa cây mỗi ngày mỗi xanh
Tóc mẹ già mỗi ngày mỗi bạc
Hai ta ở hai đầu công tác
Có bao giờ cùng trở lại vườn xưa?
(1957)
Bài thơ "Vườn xưa" nói về nỗi niềm xa cách của đôi tình nhân trong hoàn cảnh ở hai đầu công tác. Ở đây, chúng ta bắt gặp nỗi cô đơn, nhớ nhung của nhiều người có chung một hoàn cảnh. "Bài thơ tình ở Hàng Châu" Tế Hanh viết từ năm 1956, có lẽ đây là một trong những bài thơ tình hay nhất của Tế Hanh. Những điều tưởng chừng bình thường, giản dị, qua thơ của Tế Hanh bỗng nhiên sâu sắc vô cùng, làm lay động tâm hồn nhiều người:
Anh xa nước nên yêu thêm nước
Anh xa em càng nhớ thêm em
Trăng Tây Hồ vời vợi thâu đêm
Trời Hàng Châu bốn bề êm ái
Mùa thu đã đi qua còn gửi lại
Một ít vàng trong nắng trong cây
Một ít buồn trong gió trong mây
Một ít vui trên môi người thiếu nữ...
Anh đã đến những nơi lịch sử
Đường Tô Đông Pha làm phú
Đường Bạch Cư Dị đề thơ
Hồn người xưa vương vấn tự bao giờ
Còn thao thức trên cành đào ngọn liễu
Phong cảnh đẹp nhưng lòng anh thấy thiếu
Bức tranh kia anh muốn điểm thêm màu
Có hai ta cùng tựa bên cầu
Cho mặt nước Tây Hồ trong sáng nữa
Lá phong đỏ như mối tình đượm lửa
Hoa cúc vàng như nỗi nhớ day dưa
Làn nước qua ánh mắt ai đưa
Cơn gió đến bàn tay em vẫy
Chúng mình yêu nhau từ độ ấy
Có núi sông và có trăng sao
Có giận hờn và có chiêm bao
Cay đắng ngọt bùi cuộc đời kháng chiến
Nói sao hết em ơi bao kỷ niệm...
Những ngày buồn nghĩ đến thấy vui vui
Những ngày vui sao lại thấy ngùi ngùi
Anh không muốn hỏi nhiều quá khứ
Ngày đẹp nhất là ngày rồi gặp gỡ
Rời Tây Hồ trăng xuống Bắc Cao Phong (*)
Chỉ mình anh với im lặng trong phòng
Anh ngước nhìn bức thêu trên vách:
Hai bóng người đi
một hàng tùng bách
Bàn tay nào đã dệt nỗi lòng anh?
Tiếng mùa xuân đem sóng vỗ bên mình
Vơ vẩn tình chăn
chập chờn mộng gối
Anh mơ thấy Hàng Châu thành Hà Nội
Nước Tây Hồ bỗng hóa nước Hồ Tây
Hai chúng mình cùng bước dưới hàng cây.
(1956)
(*) Một dãy núi ở Hàng Châu – Trung Quốc
Cũng như những nhà thơ cùng thời: Xuân Diệu, Nguyễn Xuân Sanh, Chế Lan Viên, Huy Cận, nhà thơ Tế Hanh còn dịch thơ tiếng Pháp. Đây cũng là mảng đề tài, công việc trong sự nghiệp sáng tác, dịch thuật của ông. Tế Hanh dịch thơ của những nhà thơ lớn của Nga, Pháp, Đức... như: Pushkin, J. Ritos, Hugo, Aragong, Eluard, René Char, S. Petofi, B. Brecht... ra tiếng Việt. Những bài thơ do Tế Hanh chuyển ngữ từ Pháp ra Việt rất tài hoa, tinh tế, đầy chất thơ, giữ được cái hồn của các tác giả đã chinh phục bao thế hệ người yêu thơ. Và, giúp cho người đọc tiếp xúc với văn hóa thế giới.
Từ bài thơ đầu tiên "Lời con đường quê" đến nay Tế Hanh đã đồng hành cùng thi ca gần 80 năm, đi qua thế kỷ. Ông đã có những đóng góp nhất định vào nền thi ca hiện đại. Năm 1996, Tế Hanh được tặng giải thường Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Mã Giang Lân – nhà nghiên cứu phê bình văn học đã nhận xét về thơ Tế Hanh một cách ngắn gọn, nhưng rất đầy đủ và chính xác: "Thơ Tế Hanh giản dị, trong sáng, tinh tế mà đậm tình đất nước...". Tế Hanh đã thực sự trở thành một trong những cây đại thụ trong nền thi ca đương đại Việt Nam./.
Tài liệu tham khảo & trích dẫn:
- Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh – Hoài Chân (1942)
- Non nước xứ Quảng của Phạm Trung Việt (1971)
- Tuyển tập thơ Tế Hanh I (1987)
- Tuyển tập thơ Tế Hanh II (1997)
- Vườn xưa thơ Tế Hanh (1992)