Quay lại nhìn, Thược thấy chiếc xe Lam đã nổ máy trên xe chỉ có vài ba người, mấy người lính vẫn còn ngồi trên nền lều chợ, trước cổng trụ sở ấp lui tới những bóng áo đen, ánh nắng buổi trưa mùa hè khiến cho tất cả trở nên yên lặng, lười biếng, và có chút gì như là buồn bã. Chiếc xe đã rời khỏi khu chợ, tiếng máy nổ rú lớn, kéo dài nhỏ dần, nhỏ dần tan biến rời rạc yếu ớt trong bầu không khí oi gắt, tĩnh mịch. Chiếc xe đã chạy, không còn một âm vang nào vọng lại chỗ Thược, chiếc xe quay đầu trở lại thị xã để đón những khách bộ hành trở về muộn màng; Thược bỗng dưng thấy sự vắng vẻ ngộp ngạt bao trùm. Nàng bắt đầu cắm cúi bước, giục những bước chân cùng lúc những ý tưởng lơ mơ hiện rõ dần trong đầu.
Qua khỏi ngã rẽ qua Long Tường, Thược dể thấy đồng ruộng hai bên đường thực quang đãng, trống trải vắng ngắt trong ánh nắng chói tháng tư. Cánh đồng mênh mông, trơ gốc rạ cháy nham nhở, chỗ vàng chỗ đen, cánh đồng trông bằng phẳng. Đồng thời nàng cũng nhận thấy rằng con đường đất trước mặt nàng cũng thật là thấp, chỉ cao hơn mặt cánh đồng một chút. Con đường lồi lõm gập ghềnh, nhưng so với những đường quê khác thì đó là một con đường khá rộng. Hèn gì tới mùa mưa, chỉ mưa vài ngày, con đường lầy lội và có những quảng ngập nước. Bây giờ con đường đã khô khốc, đất sét mầu vàng, thỉnh thoảng có vài cơn gió làm bụi thốc bay vụt lên. Gió từ hướng Tây Bắc, phía núi, gió khô nóng làm cho da mặt se se khô rám khó chịu.
Thược tình cờ quay lại nhìn quãng đường đất phía sau: Một người lính vác hai cây mía trên lưng đang bước tới, có vẻ vội vã, lật dật như chạy. Thược lại ngó mông ra cánh đồng phía trái, những đám ruộng đã gặt gốc rạ cùn thấp có nhiều trũng cháy, đám trẻ lố nhố bu quanh một khúc mương cạn, bờ lau không còn bóng tối hay rườm rà của mấy tháng mưa. Không còn màu xanh nào trên khắp cánh đồng ngoại trừ hai cụm núi ở giữa đồng như những gò đất cao. Ngó lâu, Thược tưởng tượng hai cụm núi như hai con rùa bò lồm cồm trên mặt nước đục vàng. Tiếng lũ nhỏ mò cá ở khúc mương chốc chốc vẳng lại nghe mơ hồ và không tạo được một vang động nào lâu dài. Buổi trưa vẫn náng. Bầu trời xanh cao. Con đường cũng vắng tênh. Tuồng như là ánh nắng chói gắt của tháng hạ đã khiến cho cảnh vật trở nên im sững vắng một cách dễ sợ.
-Cô, cô à …
Tiếng người lính gọi phía sau, Thược nghe nhưng chân cứ bước xuống trũng mương. Mấy tấm vỉ sắt bắt qua dòng nước đục, đoạn đường gồ ghề ,bờ lau hai bên mương khô vàng ngã rẹp, chỗ đất dưới mặt mương khô nứt nẻ. Hồi tháng mưa, tới chỗ này Thược đã phải cuốn quần lên trên vế mà cứ bị ướt, có kẻ sợ phải chờ ghe. Hai thằng em nàng hận khúc mương này lắm vì mẹ lấy lý do khó đi, lỡ sẩy chân nước cuốn ra giữa đồng mênh mông nước thì sao, nên dầu ức mà chúng vẫn không có cách nào hơn là buồn bã ngó theo Thược. Lần nầy thì bà kêu nắng, ở nhà học thi vào lớp sáu cho đỗ, đỗ rồi mày muốn đi bao nhiêu lần thì đi. Thược rất muốn đem chúng cùng đi cho vui khi nghĩ tới chặng đường dài vắng vẻ, sẽ rủ chúng ghé qua Mậu Lâm mua mía, thăm thím Tím xin bắp về nướng; nhưng không muốn làm phiền mẹ và mất giờ học của em nên đành ra đi một mình. Thược đã nghĩ, nếu vắng chúng, nàng sẽ không ghé qua Mậu Lâm, đi thật nhanh để trở về trước buổi chiều.
-Cô, cô à …
Thược quay lại :
-…
Người lính đã qua khỏi mấy vỉ sắt, bước lên trũng mương thấp, hai cây mía vẫn còn vác trên vai như lúc nãy. Trông bộ anh ta như mệt. Thược nhớ tới tiếng kêu của anh lần đầu khi nàng bắt đầu qua mương. Nàng cắm cúi bước , bước, bước, bước. Nắng đổ chếch từ trên đầu, bóng nàng gãy gập, nhỏ, chập chờn trên mặt đường đất gồ ghề.
Người lính kêu :
-Cô về đâu ? Cô sợ tôi à ?
Tự dưng Thược đi chậm lại. Nàng tỏ không sợ. Ngước nhìn lên dãy núi trước mặt, nàng quay nhìn cánh đồng hai bên đường như thể là không chú ý gì tới tiếng kêu của người lính đi sau. Thược lại nghĩ tới ý định đem theo đứa em, giá có đứa nào ở đây chắc là nàng không bối rối quá như thế.
Người lính nhìn nàng, cười – nụ cười tự nhiên niềm nở quá : “Cô về Mậu Lâm chắc?”
-Không .
-Cô lên Ngọc Đồng à ?
-Không.
Người lính lại cười – lần này thì tiếng cười anh vang lên một cách vui mừng :
-Không về Mậu Lâm, không lên Ngọc Đồng, chắc là cô tìm lên rừng, lên núi?
Thược cười. Nhìn. Nàng chợt nhận thấy nét hiền hậu dễ thương trên đôi môi cười cợt của người lính lạ. Dầu chỉ nhìn một thoáng, khuôn mặt, nụ cười, ánh măt kia tự dưng tạo cho nàng một nỗi tin tưởng nhanh chóng đến nàng cũng ngạc nhiên. Ở khuôn mặt, vóc dáng, lời nói của anh ta như bốc tỏa ra một sự chân thực khác lạ, dễ gây cảm mến tin yêu nơi Thược. Nàng băn khoăn tự hỏi, sao lại có thể dễ để lòng tin tưởng vào một người chưa hề biết mặt một lần? Nàng nhìn. Người lính cười : “Cô thăm ai trên ấy chứ gì ?”
-Tôi thăm ai ông hỏi chi ?
-Tôi xin lỗi vì quá tò mò, nhưng hỏi để quên nắng mà, nắng khó chịu quá.
Thược nhìn lơ đãng tới dãy núi Miếu phía trước, những cụm đá trắng nổi trên màu đen sậm của cây lá dầy, ngôi mộ nằm trơ trụi bên đường phía xa, chân bước phân vân. Nàng đã làm cho khuôn mặt người lính nóng đỏ, bộ áo quần mốc trên người anh thêm xốc xếch, hai cây mia lắc lư trên vai anh trông nặng nề. Họ đi bên nhau một quãng đường. Con đường nắng.
-Quê cô ở trên đó chắc ?
-Không, ở dưới chợ.
-Cô về thăm bà con ?
-Thăm bà con.
-À, cô nói ở dưới chợ, ở dưới chợ sao tôi không biết?
-Ông làm như ai ai ông cũng biết hết.
-Biết chớ.
-Quê ông ở đâu ?
-Quê tôi ở đây .
-Tôi không nói chuyện với ông nữa, nghe giọng nói cũng biết ông ở đâu rồi, hỏi là hỏi vậy thôi.
-Cô giận tôi là phải, nếu cô ở vào hoàn cảnh như tôi thì sẽ nói như tôi: Xưa nay tôi đổi tới đâu đều cho là quê của mình. Nếu không nghĩ thế thì buồn chịu không nỗi. Giờ thì biết tới khi nào tôi được trở lại quê nữa?
Thược quay nhìn người lính, đôi mắt có vẻ gì thương xót. Nàng nghĩ tới nhận xét tin tưởng lúc đầu, thấy mình không hời hợt hay nghĩ sau lầm. Ở giọng nói như lơ đãng, như buồn bã kia Thược tìm thấy rất nhiều lòng thành. “Giờ thì biết tới khi nào tôi được trở lại quê nữa”, Thược chợt ngước lên nhìn người lính, thật lâu. Nàng hỏi : “Ông có nhớ quê không? “.
-Không .
-Sao lạ vậy?
-Tôi đã nhớ quá nhiều rồi nên giờ không còn nhớ được nữa. Ở cái cảnh tôi mà thêm một sự nhớ thương nào cũng khổ. Chắc cô chưa lúc nào nghĩ vậy?
-Chưa - Thược cười, quanh quẩn mãi ở nhà thì làm sao biết nhớ thương gì?
-Cô nói chuyện nghe hay quá.
-Ông đừng có nhạo tôi à.
-Không, tôi nói thiệt. Có lẽ cô còn đi học?
-Nghỉ học lâu rồi, ông có nghĩ là con gái học hành chi cho nhiều không?
-Không. Tôi chắc không có ai nghĩ vậy đâu.
-Có chứ, mẹ tôi nghĩ vậy, tôi cũng nghĩ vậy nên nghỉ học, để cho hai thằng em trai học. Con trai thì nên học hơn.
Hai người đi gần tới ngôi mộ cổ. Ngôi mộ khá lớn, xây tường bao bọc cẩn thận, có chiếc cổng vôi dẫn vào bên trong. Cỏ cây mọc lan tràn, quạnh quẽ. Sau lưng ngôi mộ là dãy núi Miếu đá trắng lởm chởm, cỏ cây ít màu xanh, màu nắng ở đó trông thực chói mắt.
Người lính bỗng dừng lại, mặt hướng nhìn ngôi mộ, quan sát một cách thích thú. Anh quay lại hỏi Thược : “Cô biết ngôi mộ nầy của ai không?”.
-Nghe mẹ tôi nói của dòng họ Tạ nào đó, tôi không biết nữa.
-Chắc là giàu lắm mới dựng được ngôi mộ thế nầy?
-Mẹ tôi kể lại dòng họ nầy giàu lắm, chỉ thua ông Bang Liềm một chút.
-Sống có cái nhà, chết có cái mồ. Được cái mồ thế này là nhất rồi phải không?
- Thược bỗng thở dài :
-Lúc còn sống thì còn thứ nầy thứ nọ, chứ chết rồi mà cần chi nữa, cho khổ ?
Người lính nhìn thực nhanh lên mặt Thược, có vẻ xúc động vì câu Thược vừa nói. Anh nhìn lơ đãng ra cánh đồng : “tôi cũng nghĩ như cô vậy”, rồi cung tay vẽ gãy cây mía.
-Mời cô ăn cho vui…
-Cám ơn, tôi không khát !
-Đâu phải khát mới ăn, ăn cho vui mà.
Thược đỡ khúc mía từ tay người lính, đôi mắt hơi bỡ ngỡ, và như nàng cũng đang e ngại điều gì nữa. Người lính thản nhiên xiết từng lóng mía, nhai ngoàm ngoàm, trông anh ta dửng dưng và sung sướng. “Ăn đi, còn một cây nữa”, người lính thúc.
-Ông đến đây lâu chưa ?
-Gần một tháng, tới để thay cho tiểu đoàn trước phải dời đi Pleiku.
-Chắc ông đi lính đã lâu rồi ?
-Cũng lâu rồi.
Thược cười ngập ngừng:
-Đi lính khổ nhỉ?
Người lính cũng cười:
-Khổ .
Dừng một lát, anh hỏi:
-Cô có sợ khổ không?
Thược nhìn người lính với đôi mắt trìu mến, vui thích:
-Mẹ tôi thường nói có khổ mới nên thân.
-Cô ngoan ngoãn quá. Tôi nghe cô cứ nói “mẹ tôi nói” chớ ít khi nghe “cô nói”.
-Tại tôi còn nhỏ. – Thược che tay lên miệng cười, còn nhỏ phải nghe người lớn nói chớ?
-Biết nghe lời vậy tức là ngoan ngoãn rồi, còn gì ?
Họ đã ăn hết hai cây mía, cả hai cùng muốn bước đi một lúc khi thấy sự im lặng trở nên nặng nề. Đi được vài bước người lính thấy tiếc những giây phút dừng lại trước ngôi mộ, nửa muốn tìm cách dừng lại một lần nữa, nửa thấy ngại ngùng. Anh nghĩ tại sao không rủ cô gái vào nấp dưới cổng ngôi mộ một lúc cho đỡ nắng? Được vậy, có lẽ, anh sẽ gần gũi hơn với cô ta ngoài những câu nói xa xôi xa cách. Giờ thì biết còn dịp nào có thể đi trở lại đoạn đường êm ả nầy một lần nữa?
-Ông đi Mậu Lâm à ?
Người lính chợt ngẩng lên, trước mắt anh chiếc cổng gỗ nhỏ có viết “Ấp Mậu Lâm”, phía trên có hàng chữ xanh viết trên nền sơn trắng “Chào Mừng Quan Khách”. Anh cười : “À, tôi đi Mậu Lâm”.
-Thôi ông đi …
Thược nói vừa đứt câu, nôn nã bước lên dốc núi rẽ qua Ngọc Đồng. Đoạn đường dốc đá trắng, nắng chói lòa, hơi nóng ngột ngạt khó chịu. Ấp Ngọc Đồng, những căn nhà tranh trét đất nhỏ xíu, vùng đất cát cằn cỗi, những cảnh đời lận đận, người dì góa bụa với bầy con nheo nhóc lam lũ, núi đồi bốn phía hoang vu bất trắc; Thược cảm thấy lâng lâng buồn với những hình ảnh sắp hiện ra trong mắt nàng. Nàng ngước lên nhìn chiếc cổng gỗ một cách vô tình : “Chào mừng Quan Khách”, nghĩ rằng có con ma nào chịu quá bước đến đây đâu - chỉ có những người khách như nàng mới bước qua chiếc cổng, để tìm thăm một người bà con đang khốn đốn mà thôi.
Có chị Thược ở nhà không Nguyên?
-Dạ không. Chị Thược mới đi Tuy Hòa rồi.
-Tuy Hoa với má hả ?
-Đi với má với anh Tín,
-Chi vậy Nguyên ?
-Chi em cũng không biết nữa.
-Bộ má không nói gì sao ?
-Má có nói ở nhà coi nhà một chút má về.
Toàn nhìn lên mặt đồng hồ, một giờ mười, anh nghĩ sẽ đợi Thược cho tới hai giờ, còn năm mươi phút nữa. Anh ngồi ở tấm phảng kê ngoài hiên, bồn chồn nhìn ngó khắp sân nhà: Chiếc lẫm đất kín mít chứa lúa, những chậu hoa vạn thọ, những cột rơm cao, bầy chim sẻ chập chờn, chiếc võng mắc dưới hai cây dừa, nắng hanh vàng buồn bã. Anh ngồi dựa lưng lên vách, lấy thuốc hút, đặt cả bao thuốc và chiếc máy quẹt lên phảng. Anh nghe rõ sự hối hả, buồn phiền mỗi lúc một dâng lên lồng ngực nặng, đôi mắt hoa mờ, đầu óc quay cuồng những ý tưởng nhập nhằng rối loạn. Thược đi Tuy Hòa làm gì, bao giờ mới về kịp? Nhiều lần anh định kêu thằng Nguyên lại hỏi, nhưng cũng vừa chợt nhớ là nó cũng không biết : “Chi em cũng không biết nữa”. Thược với khuôn mặt bầu bầu đôn hậu, mớ tóc cột bằng một sợi dây vải hoa, những lời lẽ né tránh tội nghiệp với câu mở đầu “mẹ tôi nói, mẹ tôi…” trong buổi sáng đầu tiên tìm tới nhà, những quyển tiểu thuyết của Võ Hồng, những tập báo quay ronéo cũ lúc còn đi học với những bài thơ sầu tình, những nụ hôn bột chạc giấu giếm phía sau bờ giếng, mơ ước theo chuyến tàu lửa đầu ngày chạy thẳng vào Nam theo chân người tình với một đứa con tình nghĩa (…); anh nhớ lại hết thảy những hình ảnh mơ tưởng rời rạc quanh Thược với một tâm hồn yên tĩnh, đắm chìm vào một cõi mộng mơ hồ.
Thược đã nói:
-Em mơ hồ thấy đời em giống như Thanh Phương trong truyện “Đôi Ngã”, em có một tâm trạng như cô ta: “Số em long đong lắm. Yêu nhằm những người không thể cưới mình được. Người yêu mình thì mình không yêu lại nỗi”.
-Không có điều gì là chắc chắn em sẽ như vậy cả. Đừng có để cái cảm tưởng hay định kiến theo kiểu tiểu thuyết để làm khổ đời mình. Cái số của em, theo cái tài coi tướng của anh, thế nào rồi em cũng sung sướng.
-Anh vin vào cái gì ?
-Cứ nhìn vào khuôn mặt, với lại ngoan ngoãn hiền hậu như em mở miệng ra là “mẹ tôi nói, mẹ tôi dạy…” thì chắc hẳn phải sướng…
-Thầy tướng như anh thì kỳ cục hết chỗ nói. Ai lại vin vào mấy cái cớ mơ hồ đó mà bói?
-Vậy mà anh còn hơn em.
Bây giờ Toàn mới thấy rõ điều mà Thược “mơ hồ thấy” trước kia, nay đã dần trở thành một sự thực: Chuyến di chuyển đột ngột bằng trực thăng hai giờ chiều nay đã bắt đầu cho cái số long đong, phiền muộn của nàng. Không ngờ, những gì thuộc về linh tính của đàn bà, đều có thể xảy ra. Xảy ra thực tình cờ và gọn gàng như một cái lệnh ngắn, một buổi chiều.
Toàn đột nhiên đứng dậy, rời phảng bước vào nhà. Căn nhà ẩm thấp hơi tối, hai chiếc bàn thờ với ảnh hình khung gỗ phủ vài đỏ lư đèn yên tĩnh, chiếc ghế bố gần cửa sổ bầy lộn xộn những tập báo cũ, tấm áo ngắn tay mầu xanh sửa từ chiếc áo dài thời còn đi học đã cũ bỏ cạnh giường, bình hoa trên kệ sách đã khô héo. Anh bước tới ngồi ở ghế bố, chỗ nằm của Thược, cầm một tập báo cũ lên xem: Những tập báo quay renéo của những năm còn trọ học ở Tuy Hòa, những bài thơ Thược làm với những cuộc tình buồn, mấy đoạn văn viết cho tuổi nữ sinh thơ mộng. Tự dưng Toàn thấy tình yêu thương Thược ngập tràn trong hồn anh. Nghĩ tới dĩ vãng xanh mộng và hiện tại cô quạnh của nàng, anh nghe tim mình se sắt, quặn buốt. Rồi những ngày kế tiếp mà nàng bước tới sẽ như thế nào?
Một tấm giấy có viết bài thơ đang còn dang dở rơi xuống mặt vải giường, Toàn cầm lên – chăm chú đọc :
Ngồi nhìn những đốt tay dài
Cuộc đời tẻ lạnh hai vai trắng gầy
Môi hồng nhuộm thắn men say
Như hồn rữa nát đắng cay tuổi đời
Tươngl ai không nói nên lời
Ngàn năm giấc ngủ giữa trời cô đơn…”
Anh xếp tờ giấy bỏ vào túi áo, đứng dậy rời khỏi cửa sổ, đi lững thững ra phía sau vườn, đi quanh thềm giếng rộng, ngước nhìn những tổ chim sẻ treo lủng lẳng trên cành tre, nhìn ngó vu vơ ra cánh đồng bên kia hàng rào, đầu óc miên man nhớ Thược quay quắt: Thược của buổi trưa bên ngôi mộ cổ với hai cây mía xa lạ kín đáo, Thược của buổi sáng đầu tiên gặp lại bỡ ngỡ sợ hãi, Thược của những lần riêng rẽ sau bờ giếng nồng nàn, Thược của những nụ hôn sôi nổi nhưng ngậm ngùi, Thược của hy vọng một ngày nào theo chuyến xe lửa vào Nam (…) Thược bây giờ sao chưa thấy về?
Toàn vội vã trở vào nhà - Anh lấy một tờ giấy trong vở học của Nguyên viết cho Thược một cái thư. Chỉ còn cách đó. Đã hai giờ mười phút.
“Bạch Thược yêu dấu,
Có lẽ em sẽ buồn khi nghe anh báo tin này: Anh phải rời xa đây ngay buổi chiều hôm nay. Đó là một sự tình cờ đã khiến anh khổ sở, Anh đã nói với em hôm gặp trên đường đi Mậu Lâm rằng ở cái cảnh anh mà thêm một sự nhớ thương nào cũng khổ. Bây giờ phần anh, anh đã nhận sự khổ đau này như một an ủi để luôn luôn nhớ tưởng em dầu ở phương trời nào. Còn em, điều anh muốn nhắn nhủ sau cùng là em đừng để cái định kiến long đong hay buồn bã gì đó của Thanh Phương làm em buồn rầu, khổ sở thêm. Hãy để cho sự đau khổ nung nấu thành sự hy vọng, và hãy coi sự xa cách là để bắt đầu cho một ngày nào gần gũi tha thiết. Cũng sẽ có một ngày nào xe lửa khởi hành. Xa anh, em hãy cứ viết những bài thơ gửi cho anh đọc như bài thơ anh vừa đọc được chiều nay. Đó là một cách bày tỏ, an ủi nồng nàn để em không còn thấy rằng chuyến ra đi của anh là biền biệt. Anh sẽ trở lại, một ngày nào, em hãy cứ tin như vậy. Anh muốn em có nhiều niềm tin tưởng hơn là sự buồn phiền. Em có nghe anh ?
Gấp gáp quá, Bạch Thược yêu dấu, anh chưa thể nói hết cùng em nỗi lòng anh trong giờ phút xáo trộn đột ngột nầy. anh sẽ viết tiếp cho em những cánh thơ, những cánh thơ dài đầy ánh nắng của con đường đi Mậu Lâm, Ngọc Đồng; những ánh mắt nụ cười ngây ngất, và những nụ hôn kỳ cục nhưng quá hân hoan sau bờ giếng. Cho anh gởi lời từ giã má, Tín và Nguyên. Lần chót: Mong em buồn nhưng đừng bao giờ thất vọng.”.
Toàn xếp thư, gọi Nguyên vào dặn: “Chị Thược về, em đưa cho chị Thược cái thư nầy giùm anh, nghe chưa?” - Nguyên hỏi lại:
-Đưa cho chị Thược à ?
-Cho Chị Thược.
-Có nói gì nữa không?
-Thôi, khỏi nói gì nữa, có dặn cũng dài dòng em không nhớ hết đâu.
-Em nhớ mà.
-Biết tồi, thôi anh đi nghe Nguyên, ở lại mạnh giỏi?
Ra khỏi vuông sân, chợt anh hối hả chạy vào trong nhà. Anh đi thẳng tới chiếc giường bố cạnh cửa sổ. Anh cầm tấm áo ngắn tay mầu xanh của Thược lên, vội vàng xếp bỏ vào trong túi quần. Quay đi…/.
1972 -(Tuần báo Khởi Hành, số 151 – 1972)