I. Nguồn gốc -II. Các nguyên lý của chủ nghĩa máy móc -III. Phê phán chủ nghĩa máy móc -IV. Thuyết tiến hóa và chủ nghĩa máy móc-V. Suy tàn của thuyết Darwin và chủ nghĩa máy móc -VI. Tóm lược
I. Nguồn gốc
1. Thế giới trung cổ
Lịch sử châu Âu có một thời kỳ được gọi là thời đại Trung Cổ (Middle Ages). Ðây là giai đoạn bắt đầu từ sự sụp đổ của đế quốc La Mã ở phương Ðông tới thời Phục Hưng, kéo dài trong khoảng một ngàn năm (k.500-k.1500 sau C.N.)
Thiên ý là tối thượng
Theo lý thuyết, thế giới Trung Cổ là một thế giới mật thiết và thân thiện. Thiên Chúa hằng sống, siêu việt và có mặt khắp mọi nơi; ngài sẵn sàng bảo vệ và chăm sóc dân ngài. Ðức Giêsu đã vạch rõ rằng nếu không có ý định của Cha trên trời thì một con chim sẻ cũng không rơi xuống đất, đồng thời nhấn mạnh con người quan trọng hơn chim sẻ bội phần. Tín đồ Kitô giáo được bảo đảm về sự hiện diện thiêng liêng ấy, và có thể lấy cảm hứng từ lời thánh vịnh của dân Do Thái rằng: "Thượng đế hằng sống là nơi tôi ẩn náu dưới cánh tay kéo dài vô biên vô tận của Ngài".
Thiên Chúa, Ðấng tạo hóa, Ðấng Phán xét, Ðấng Cứu độ và cũng là Ðấng Quan phòng và Bằng hữu của con người. Người Kitô giáo đã có thể biết rằng: "Vạn vật muôn đời cùng nhau thao tác vì tình yêu Thiên Chúa". Và thậm chí cả những lúc con người không thể nào hiểu thấu những thảm kịch riêng tư đang làm mình đớn đau sầu muộn, nó vẫn có thể cảm thấy mình được ủi an nhờ lời hứa ấy. Không có gì xảy ra mà không có mục đích, hay còn gọi là cứu cánh. Trong sự bảo đảm ấy, con người có khả năng chịu đựng mọi sự.
Con người dâng hiến và cai quản
Cũng học thuyết ấy bảo đảm rằng Thiên Chúa đang chuyển động trong thiên nhiên và lịch sử, để hoàn thành các cứu cánh của ngài, để thành tựu Nước Thiên Chúa. Trong Nước Trời âáy, cừu non an lành nằm bên cạnh sư tử và các nước không còn gây cảnh binh đao. Thượng đế là một thực tại có mặt và sống động "gần hơn hơi thở, kề hơn chân tay". Không một ai có thể đi lệch ra ngoài sự có mặt của ngài; cũng không một ai bị buộc phải đơn độc đối mặt với những thảm họa trong đời sống và cái chết.
Khái niệm ấy biến thế giới thành chốn nhiệt tình đền đáp, cho con người niềm hy vọng và gợi cho thấy rằng cuộc sống của nó có ý nghĩa trọng đại. Con người là đỉnh điểm của cuộc sáng thế, có nghĩa vụ hiến mình cho Thiên Chúa, đấng đã tạo dựng nó theo hình ảnh của chính ngài. Và bên dưới ngài, trong trật tự của thiên nhiên, con người có thể cai quản mọi nơi, và mọi vật được tạo ra vì phúc lợi của con người.
Ðó là thế giới của thời Trung cổ. Thế giới ấy sắp bị tàn phá bởi nhiều người trong nền khoa học mới, bắt đầu với Galileo.
2. Tác động của nền khoa học mới
Chẳng cần Thượng đế nữa
Khi nhà toán học và thiên văn học *Pierre Simon Laplace (1749-1827) thông báo với Ðại đế Napoléon (1769-1821) rằng mình không cần tới giả thuyết có Thượng đế để cắt nghĩa vũ trụ vật lý (the physical universe), ông đã diễn tả trong câu nói cô đọng ấy các hàm ý của nền khoa học mới.
Quả thật nền khoa học mới làm phong phú thêm kho tàng tri thức của loài người về thế giới tự nhiên, tạo khả năng cải thiện số phận của con người và cho con người cảm giác mới về quyền năng bằng các máy móc mới mà giờ đây nó có khả năng chế tạo. Thế nhưng đối với nhiều người, những sở đắc tân tiến ấy chỉ là trống rỗng nếu chúng cướp đi của con người nhận thức tinh thần và trải nghiệm tâm linh.
Thế giới của ngẫu nhiên và vô tình
Một thế giới chịu sự thống trị của các định luật cứng nhắc, không cho phép sự can thiệp của bất cứ quyền năng nào, kể cả quyền năng của Thượng đế. Và một thế giới thao tác một cách mù lòa không thể tán thưởng ý tưởng về một mục đích sau cùng hoặc cứu cánh tối hậu. Thiên nhiên chuyển động mù lòa, không có bất cứ chuỗi giá trị nào, không có bất cứ quan tâm nào tới cuộc sống con người hoặc các cứu cánh. Thế giới đó thao tác một cách tàn nhẫn, khủng khiếp, thể hiện những nội hàm trong khuôn mẫu quan hệ nhân quả của chính nó.
Trong thế giới đó, không có quyền năng can thiệp mật thiết nào sẵn sàng đáp ứng khi có lời kêu cầu, không có bàn tay thân thiện nào đưa ra nhằm giải quyết các vấn đề của cuộc sinh tồn hoặc uốn nắn dòng chảy của các biến cố để cho con người được hưởng phúc lợi lớn lao và cao cả hơn. Y hệt thế giới trong tâm tưởng của các triết gia cổ đại Hi Lạp, vạn vật xảy ra do bởi ngẫu nhiên, và thế giới tiến bước trong lãnh đạm với mọi sự mọi vật, ngoại trừ ảnh hưởng chủ động của các yêu cầu của chính nó, không thể lay chuyển và chẳng chút mũi lòng.
3. Những xung khắc trong thế kỷ 19
Lý trí và chứng cớ
Hai quan điểm về thế giới, một mang bản sắc Aristotle và một mang bản sắc Newton, lâm vào tình thế xung khắc nhau kịch liệt khi cuộc chiến giữa khoa học và tôn giáo lan rộng và bốc lên cao độ.
Rõ ràng quan điểm Aristotle được người đời ưa chuộng vì nó làm cho con người có thể chịu đựng cuộc đời và cho con người niềm hy vọng. Nhưng đối với nhà khoa học thì không thể quyết định chân lý của một ý tưởng bằng sự thỏa mãn cảm xúc. Phải phán đoán nó bằng lý trí. Pháp đình độc nhất có thẩm quyền tra xét là chứng cớ. Và về mặt chứng cớ, dường như khái niệm mang bản sắc Newton vượt trội và áp đảo.
Chúng ta có thể rút gọn vấn đề này thành những từ ngữ đơn giản nhất của nó, và dành chỗ ưu tiên cho quan điểm vừa đáp ứng đủ các yêu cầu phải có chứng cớ hợp lý vừa cung cấp các giải đáp cho những thắc mắc của loài người về thế giới của nó.
Máy móc chủ nghĩa độc chiếm
Khoa học mang bản sắc Aristotle hoàn toàn không đề cập tới sự vén lộ những bí mật của thiên nhiên, khiến cho các nhà khoa học lệch hướng chú ý vào những vấn đề không thích đáng. Khoa học mang bản sắc Newton diễu hành hết chiến thắng này tới khải hoàn khác; nó vén lộ các nguyên nhân của vạn vật và cho con người khả năng kiểm soát thiên nhiên. Khoa học Newton triển khai kỹ thuật tra vấn, đưa ra lời hứa hẹn sẽ giải quyết hết thảy các vấn đề của vũ trụ.
Sự thành công của những kỹ thuật mới mẻ ấy hàm chứa trong tự thân chúng khái niệm mang tính máy móc chủ nghĩa (a mechanistic conception) về vũ trụ vì khoa học kỹ thuật chỉ có ý nghĩa khi chúng được dự kiến trong một vũ trụ ở đó vạn vật là kết quả của những tiến trình vật lý và hóa học. Như thế, thời thế kỷ 19, đối với kẻ tra vấn có trí óc phóng khoáng, dường như chỉ duy nhất có một chọn lựa lương thiện cho mình, đó là chủ nghĩa máy móc (mechanism), đôi khi còn được dịch sang tiếng Việt là cơ chế chủ nghĩa.
II. Các nguyên lý của chủ nghĩa máy móc
1. Giải thích thiên nhiên
Kiểm soát và cất bỏ
Nền khoa học mới tận tụy tìm cách cắt nghĩa mọi biến cố theo khía cạnh tự nhiên của chúng. Rõ ràng con người có thể quả quyết rằng chiến tranh, bệnh tật và nghèo đói là do Thượng đế gởi tới để thử thách đức tin của dân ngài, hoặc để khiến cho người tội lỗi phải ăn năn hối cải, nhưng những thông tin kiểu đó không cho loài người niềm hy vọng cất bỏ các điều kiện khốn quẩn.
Nếu có thể chứng minh rằng chúng là những hiện tượng tự nhiên, phát sinh từ những điều kiện tự nhiên, lúc đó, theo người máy móc chủ nghĩa, có thể dùng tri thức ấy để kiểm soát hoặc cất bỏ các điều kiện đó. Lịch sử y học là bằng chứng đầy xúc động cho hiệu quả của lối tiếp cận mang tính tự nhiên chủ nghĩa (naturalism).
Thượng đế quả thật muốn gì
Vì Thượng đế – theo định nghĩa về ngài – có khả năng làm mọi điều nên không cách gì có thể nhận biết ngài có quả thật làm điều đó hay không. Người máy móc chủ nghĩa lập luận rằng nếu Thượng đế có thể làm cho con người đau yếu hoặc mạnh khỏe theo thánh ý của ngài, thì không cách gì có thể khẳng định rằng ngài có quyền năng hay không.
Nếu chúng ta cầu nguyện cho một người bệnh, người đó có thể lành bệnh hoặc không thể qua khỏi. Dù khỏi hay không khỏi, trong cả hai trường hợp ấy cũng không thể chứng minh hoạt động của Thượng đế, vì có thể ngài có ý muốn đáp ứng lời cầu nguyện, cũng có thể ngài có ý muốn không đáp ứng lời cầu nguyện.
Giáo hội Kitô dạy rằng Thượng đế sẽ bảo vệ dân ngài. Nhiều người của Thiên Chúa đã và đang chịu đau khổ mà không nhận được sự can thiệp thiêng liêng nào nhân danh họ. Và sự kiện ấy không được đánh giá như là phủ định sự chăm sóc của Thượng đế.
Kiểm tra để xác minh
Từ quan điểm đức tin đó, phải giả dụ rằng trong các cứu cánh khôn dò của Thượng đế, những người ấy chịu đau khổ thì tốt hơn. Lối giải thích đó chưa bao giờ được kiểm chứng chân lý của nó bởi một cuộc thí nghiệm mang tính quyết định. Cũng chưa bao giờ thiết lập một cuộc thí nghiệm như thế.
Mặt khác, nếu nhà khoa học quả quyết rằng thuốc pê-nê-xi-lin sẽ chữa khỏi một loại bệnh nhất định, thì có thể thiết lập một cuộc thí nghiệm có tính xác định để kiểm tra chân lý của lời tuyên bố đó. Nếu trong những điều kiện thích đáng, thuốc pê-nê-xi-lin không chữa trị được như thế, lời tuyên bố đó bị bác bỏ vì thiếu cơ sở.
Nguyên lý thứ nhất
Chính do bởi khoa học có khả năng cung cấp những cuộc thí nghiệm có tính xác định nên người ta phân biệt nó với các hình thức tra vấn khác; và người ta cực kỳ tin tưởng vào thẩm quyền quyết định của nó. Ðồng thời khả năng ấy chỉ có ý nghĩa khi giả định rằng các biến cố đều có thể được giải thích theo khía cạnh tự nhiên của chúng. Ðó là nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa máy móc.
2. Tính tác động của nhân quả
Không do bởi sức mạnh ngoại tại
Ðối với người máy móc chủ nghĩa, tính khả thi của lối giải thích theo khía cạnh tự nhiên đòi hỏi phải cất bỏ những giới hạn dành cho lối cắt nghĩa quan hệ nhân quả mang tính tác động (efficient causality), hoặc hiệu ứng.
Ta phải giả định rằng mỗi biến cố tự nhiên đều phát sinh từ những điều kiện tự nhiên đi liền trước nó và quyết định nó. Nếu chúng ta cho rằng có một quyền năng ngoại tại (an external power) nào đó làm biến đổi dòng chảy của các biến cố theo một cứu cánh ngoại tại (an external purpose) nào đó khiến cho ta không thể nào tiên đoán, thì chính lời quả quyết ấy tàn phá toàn bộ ý tưởng của khoa học.
Nhân nào quả đó
Vạn vật phải thao tác đúng như nó bị quyết định bởi các nguyên nhân của nó, khiến cho nó phải thao tác đúng y như thế, vì có sự "thiết yếu kết liên nhau" giữa nguyên nhân và kết quả. Khi tảng đá lăn xuống theo một triền dốc bằng phẳng, ta có khả năng tiên đoán đường lăn, vận tốc và chỗ dừng lại của nó, và ta cung cấp tri thức về mọi điều kiện liên hệ và về các định luật khoa học thích đáng với hoàn cảnh ấy.
Không có khả năng xảy tới kết quả nào khác ngoài cái kết quả tiềm ẩn trong các điều kiện có tính quyết định ấy. Cái đúng với tảng đá ấy phải đúng với hết thảy các hiện tượng tự nhiên. Không có lối nào thoát ra khỏi các định luật bất đi bất dịch của thiên nhiên.
Tiên đoán sai là vì mình
Ðôi khi ta khó có thể khẳng định hết thảy các điều kiện, vì thế, khả năng tiên đoán bị giới hạn. Người ta thường kể chuyện, như một cảnh giác tượng trưng, rằng một con bướm vẫy cánh ở Brazil có thể gây ra "hiệu ứng cánh bướm", truyền động thành cơn bão lớn tại một nơi rất xa xôi nào khác, làm thay đổi khí hậu toàn cầu.
Gặp trường hợp đó, nhà khoa học phải giả định sở dĩ như thế là do bởi sự ngu dốt của mình hoặc vì mình không thực hiện một ngoại lệ đối với qui luật của chủ nghĩa tất định tổng quát (the general determinism). Ðộng thái của con người là một thí dụ cho hoạt động rất phức tạp trong đó ta không thể nào hiểu hết mọi thành tố đang điều kiện hóa nó và rất khó tiên đoán.
Có lẽ khoa tâm lý học (the science of psychology) nên tìm cách cởi bỏ sự ngu dốt của chúng ta trong lãnh vực ấy. Thuyết *duy động thái (behaviourism) cố gắng làm công việc đó bằng cách giảm thiểu toàn bộ động thái thành các phản ứng và các phản xạ bị điều kiện hóa (conditionned reflexes). Thuyết ấy cho rằng nếu khảo sát và am hiểu đầy đủ mọi hành động của con người, ta có thể giải thích chúng bằng những kích thích và những phản ứng.
Freud và Hobbes
Sigmund Freud nỗ lực chứng minh làm thế nào có thể giải thích động thái bất thường của một người theo khía cạnh tự nhiên hoặc khía cạnh máy móc. Cả hai hệ thống ấy – tự nhiên chủ nghĩa và máy móc chủ nghĩa – đều đặt cơ sở trên niềm xác tín rằng có khả năng dự báo động thái của con người; và chúng phủ định khả năng quyết định của con người như một hành động tự do trong việc chọn lựa các phương thế hành động mà không hoàn toàn bị chướng ngại nào cản trở.
Thomas Hobbes nêu ý kiến rằng cái được chúng ta gọi là ý chí, thật ra chỉ là sự xung khắc giữa những mong muốn tự nhiên và các đối thủ của chúng. Vì chúng ta không thể tiếp tục cân nhắc kỹ lưỡng và liên tục về cách thế hành động, nên phải có một trong các mong muốn tự nhiên thắng thế; nó ca khúc khải hoàn và quyết định động thái của chúng ta.
Nguyên lý thứ hai
Từ bên ngoài nhìn vào vấn đề, chúng ta có khuynh hướng thông giải động thái của chúng ta là có tính tự do, trong khi đó theo người máy móc chủ nghĩa, nếu thông giải thích đáng động thái, ta sẽ thấy rằng nó bị quyết định bởi một mong muốn mạnh mẽ hơn trong số các mong muốn đang xung khắc nhau.
Theo họ, trong vũ trụ hoàn toàn không có tự do và không có gì không đã được quyết định. Mọi biến cố phải được giải thích bằng tính tác động (hiệu ứng) của quan hệ nhân quả. Ðó là nguyên lý cốt tủy thứ hai của chủ nghĩa máy móc.
3. Không uyển chuyển
Có khả năng dự báo
Vì mọi giải thích đều có tính tự nhiên và mọi động thái đều đã được quyết định, hệ quả là dòng chảy tương lai của vũ trụ và của mọi biến cố trong vũ tru, về mặt lý thuyết,ï đều có thể dự báo. Luận cứ ấy đã và đang được kiến lập trong thiên văn học (astronomy), nơi con người có thể tiên đoán các cuộc nhật thực, nguyệt thực với độ chính xác lạ thường. Ðịnh luật khoa học thể hiện tương quan bất biến giữa các biến cố ấy tới độ bất cứ sự sửa đổi nào trong biến cố này sẽ đi kèm theo sự sửa đổi có thể dự báo trong biến cố kia.
Laplace phát huy định luật ấy lên tới cực điểm kết luận của nó khi ông lập luận rằng, vào bất cứ lúc nào, tri thức đầy đủ về thế giới có thể làm cho con người có khả năng dự báo toàn bộ quá trình diễn biến của vũ trụ trong tương lai, một cách không sai lầm. Chúng ta có thể giả dụ mình có khả năng làm thay đổi dòng chảy của các biến cố, nhưng giả dụ như thế dứt khoát là không đúng.
Hoặc giả, chúng ta có thể tin rằng có Ðấng siêu nhiên có khả năng sửa đổi dòng chảy của các biến cố, nhưng tin như thế là mê tín. Dù có thêm luận cứ nào khác bên cạnh giả định và niềm tin vừa kể, thì hết thảy các lập trường kiểu đó đều sai lầm, vì ta có thể vạch rõ ra rằng nếu chúng đúng thì khoa học phải vừa trật vừa bất khả thi.
Khoa học và máy móc chủ nghĩa
Khoa học mang bản sắc Newton không thể thao tác nếu không đặt căn bản trên máy móc chủ nghĩa. Hình ảnh của thế giới cả quá khứ, hiện tại lẫn tương lai được Bertrand Russell trình bày trong cuốn A Free Man’s Workship (Sự thờ phượng của con người tự do, 1976) chỉ là một câu chuyện về khoa học mang bản sắc Newton được khuếch đại. Mọi sự đều bị các sức mạnh tự nhiên kiểm soát.
Ngày nay, chúng ta đã biết rằng thế giới này hiện hữu rất lâu trước thời điểm con người xuất hiện, và có lẽ nó sẽ tiếp tục hiện hữu rất lâu sau khi con người biến mất. Chừng nào còn liên quan tới thế giới này, chừng đó con người vẫn còn không thuộc về quan tâm và sở thích cá biệt của nó. Thế giới này sẽ tồn tại sau khi con người đi qua, như thể chưa bao giờ có con người ở đó. Con người không là gì cả mà chỉ là một tiến trình đang biểu lộ và đang trôi qua của các sức mạnh tự nhiên, chúng thao tác không theo chương trình nào và cũng chẳng có cứu cánh nào.
Nguyên lý thứ ba
Ðối với người theo phái Newton, vũ trụ là sự hợp thành của các phân tử vật chất, gắn bó nhau theo cách có thể diễn đạt bằng những định luật bất biến (invariable laws). Và như thế, những điều kiện giống nhau phải sản sinh những kết quả giống nhau. Y hệt mọi cơ phận của một bộ máy, chúng chỉ thao tác như đã được định hướng bởi hoạt động của các cơ phận khác và không thể lệch khỏi sự bố trí ấy, các biến cố trong vũ trụ cũng đã bị quyết định một cách khắc nghiệt như thế.
Trật tự của vũ trụ là kết quả của sự nối tiếp có tính nhân quả (causal sequence). Nó là tiến trình đang biểu lộ của những tương quan tự nhiên giữa các biến cố, và chỉ thế thôi, không hơn không kém. Nó không là đối tượng cho bất cứ sự sửa đổi hoặc điều chỉnh nào. Ðây là nguyên lý thứ ba của máy móc chủ nghĩa.
Ứng dụng về mặt xã hội
Khi mới bắt đầu có ngành khoa học xã hội, người ta đã giả định rằng chúng chỉ đáng được gọi là khoa học nếu chúng đi theo khuôn mẫu của vật lý học và hóa học cùng các nguyên lý tổng quát vừa kể của chủ nghĩa máy móc. Ðôi khi có vẻ như thể nhiều nhà xã hội học bảo lưu khái niệm ấy. Khi người ta lập luận rằng tình trạng thiếu nhi phạm pháp chỉ là hậu quả của các hoàn cảnh xã hội nhất định như nghèo khổ, gia đình đổ vỡ hôn nhân, thiếu phương tiện giải trí hoặc thiếu các sân chơi, v.v., nghĩa là họ đã làm nổi bật thuyết máy móc chủ nghĩa.
Khi người ta quả quyết rằng việc giải tỏa các khu nhà ổ chuột, mở rộng giáo dục và phân phối công bằng sự thịnh vượng sẽ xóa bỏ hết thảy những bất công xã hội và mang lại một hệ thống xã hội lý tưởng, thì bóng ma của thuyết máy móc chủ nghĩa đang ám ảnh lối thông giải ấy về động thái của con người. Rất có thể lập trường đó chính xác. Tuy nhiên, ở đây ta chỉ đề cập tới hàm ý của nó.
Hệ luận của máy móc chủ nghĩa
Nếu giả định ấy thiết yếu cho khoa học và được chứng minh là đúng bởi các kết quả của khoa học, lúc đó, chúng ta phải sử dụng những thuật ngữ mang tính máy móc chủ nghĩa để giải thích thế giới. Do đó, chúng ta phải bác bỏ ý tưởng về một Thượng đế có thể can thiệp vào các hoàn cảnh tự nhiên để sửa đổi dòng chảy của các biến cố.
Chúng ta cũng phải phủ định việc con người sở hữu tự do ý chí, cái làm cho nó có khả năng chọn lựa giữa các phương thế hành động khác nhau một thái độ hoặc một tác phong mà không ai có thể đoán đúng. Chúng ta cũng phải buông bỏ khả năng con người có thể cải tạo xã hội để mang xã hội ngày càng tới gần hơn khát vọng của tâm hồn, bằng một hình thức nào đó của guồng máy xã hội, thí dụ xã hội chủ nghĩa hoặc dân chủ xã hội chủ nghĩa, v.v. Tương lai luôn luôn tiềm ẩn trong hiện tại, và cả Thượng đế lẫn con người đều không thể nào sửa đổi cái phải hiện hữu đúng như nó đang là.
III. Phê phán chủ nghĩa máy móc
1. Ðối lập và giới hạn
Bên tuyến đối lập
Thuyết máy móc chủ nghĩa kết hợp một cách tự nhiên với các định lý có cơ sở vật lý học và hóa học của khoa học mang bản sắc Newton. Vào cuối thế kỷ 18, nó đặt căn bản trên các định lý ấy, và thuở đó dường như nó là kết luận độc nhất mở ra cho những người thông minh và am hiểu.
Nhiều người, trong số đó có nhiều thi sĩ, giáo sĩ và triết gia, không đành lòng chấp nhận thuyết đó. Những người như thi sĩ Anh *William Wordsworth (1770-1850) và Hồng y giáo chủ *John Henry Newman (1801-1890) tấn công nó bằng cách bác bỏ các cơ sở của nó. Họ giả định có các nguồn khác của chân lý, thí dụ "tâm linh trong tự nhiên" (spirit in nature) hoặc "chấp thuận cảm tính" (emotional assent), và không chịu buông bỏ khái niệm một vũ trụ thân thiện, có cứu cánh và hoàn toàn dựa vào chứng cớ khoa học.
Các triết gia như Kant cảm thấy sức mạnh của chứng cớ khoa học; ông tìm cách tránh né các hàm ý của máy móc chủ nghĩa bằng cách đặt ra giới hạn cho phạm vi của tri thức khoa học.
Thế giới thành hai của Kant
Như chúng ta từng thấy, Kant đã đánh giá thế giới tự nhiên là sự pha trộn không gỡ nổi của các cảm giác hỗn độn và các nguyên lý về trật tự. Vì khoa học chỉ quan tâm tới thế giới trật tự nên tri thức của nó bị giới hạn vào cái thế giới xuất hiện theo vẻ bên ngoài, và các qui tắc mang tính máy móc chủ nghĩa của khoa học chỉ là sự diễn đạt các nguyên lý trật tự tiên nghiệm (a priori), thí dụ quan hệ nhân quả.
Không thể cho rằng phát biểu khoa học là để ứng dụng vào cái thế giới như nó thật sự đang là; cũng không thể xem bất cứ qui tắc mang tính máy móc chủ nghĩa nào có thể áp dụng vào bản ngã (the self), vì bản ngã là nguồn của các nguyên lý về trật tự, nên nó không thể nào là đối tượng của chúng. Do đó bằng việc chia thế giới thành hai, một có tính bản chất hoặc bản thể (noumenal world) và một có tính hiện tượng (phenomenal world), Kant tìm cách hòa giải khoa học và đạo đức, chủ nghĩa máy móc và tự do.
Tìm nguyên lý giải thích khác
Có một phương cách đối lập với chủ nghĩa máy móc là chứng minh rằng có những lãnh vực của kinh nghiệm không là và không thể nào được giải thích bằng các nguyên lý của máy móc chủ nghĩa. Trong thế kỷ 19, những kẻ đối lập với chủ nghĩa duy vật máy móc (materialistic mechanism) nhấn mạnh ba lãnh vực khác: đạo đức, tôn giáo và tâm trí, mà ở đó các giải thích vật lý dường như không thỏa đáng. Ở nơi nào nguyên lý giải thích này không thỏa đáng, ta có thể đi tìm nguyên lý giải thích khác cho thích đáng.
Nếu thiết lập được điều đó, nó cũng mang hàm ý một cuộc đình chiến giữa khoa học và một số hình thức giải thích khác, đồng thời giới hạn mỗi bên vào phạm vi riêng biệt của mình trong khi bảo lưu một không gian xứng đáng cho những thông giải thêm nữa của con người. Thậm chí chủ trương ấy còn có thể lưu giữ một không gian cho khái niệm về bản tính và hoạt động của Thượng đế.
2. Ðạo đức
Xét lại đạo đức
Nếu chủ nghĩa máy móc chính xác và có thể ứng dụng nó một cách phổ quát, lúc đó đương nhiên đạo đức không có tính khả thi hoặc ta phải tái phát biểu ý nghĩa của đạo đức.
Ðạo đức là một thực tế kinh nghiệm. Mọi người đều nhận biết ý nghĩa của ràng buộc đạo đức, một sự ràng buộc con người phải chọn cái thiện. Ðiều đó được diễn tả trong từ ngữ "phải", mà ta có thể dùng nó như một dấu hiệu đặc trưng của một tình trạng có đạo đức. Từ ngữ "phải" và từ ngữ đi kèm với nó là "hổ thẹn" và "hối hận", chỉ có ý nghĩa hợp qui cách (legitimate) nếu loài người có quyền chọn lựa để hành động theo cách này hoặc cách nọ.
Chúng ta chỉ cảm thấy hổ thẹn hoặc hối hận ít nhiều về một hành động của mình trong quá khứ, hoặc tự trách mình đã không làm điều đáng phải làm ngay khi trong thâm tâm mình có sức mạnh để làm điều ấy hoặc làm điều ngược lại.
Không tự do không đạo đức
Ðạo đức là một thực tế; nó được diễn đạt bằng sự bắt buộc, và nó liên quan tới sự tự do chọn lựa giữa các cách thế hành động khác nhau, này hoặc nọ. Không thể nào có sự chọn lựa đó trong một vũ trụ mang tính máy móc chủ nghĩa, nơi bạn chỉ có thể là "cái bạn đang là", và "mọi sự đang là" đều đã bị quyết định "phải là như thế".
Trong vũ trụ mang tính máy móc chủ nghĩa ấy, người tốt không thể được ca ngợi vì sự thiện của họ, và người xấu không thể bị khiển trách vì sự ác của họ, bởi lẽ chẳng người nào chịu trách nhiệm về hành động của mình. Không thể có đạo đức nếu không có tự do chọn lựa, và không thể có tự do chọn lựa trong một vũ trụ máy móc chủ nghĩa. Vì thế, người ta lập luận rằng máy móc chủ nghĩa không có khả năng giải thích đạo đức.
3. Tôn giáo
Tôn giáo không có ý nghĩa
Trong một vũ trụ máy móc chủ nghĩa, tôn giáo chẳng có chút ý nghĩa nào. Tôn giáo là một trong các thực tế lan tỏa nhất của kinh nghiệm. Dù có thể khoác những hình thức khác nhau, tôn giáo quả thật, một cách tổng quát, liên quan tới ý tưởng về Thượng đế, đấng can thiệp vào dòng chảy của các biến cố vì phúc lợi của những kẻ tin vào ngài.
Dù tôn giáo ở phương Ðông hay phương Tây, tiềm tàng trong dân gian hay có định chế vững chắc, thờ phượng Thượng đế, thí dụ Thiên Chúa giáo, hay không cụ thể minh danh ngài, thí dụ Phật giáo. Trong vũ trụ máy móc chủ nghĩa, không có sự biện minh cho một khái niệm như thế. Thế giới ấy vỏn vẹn chỉ có vật chất chuyển động một cách mù lòa theo những nguyên nhân có tính sản sinh hoặc phát sinh, và chẳng chỗ nào có chứng cớ về một Ðấng tối cao nào đó.
Thượng đế toàn năng
Trong khi ao ước bảo tồn tôn giáo của mình và tìm cách chứng minh đức tin của mình, người tôn giáo có thể lập luận rằng ít nhất phải có lời giải thích về khởi thủy của vạn vật; và Thượng đế được thừa nhận là Ðấng Sáng thế, kẻ khởi đầu cho toàn bộ cấu trúc vật lý này. Nhưng Thượng đế chỉ là Ðấng Tạo hóa mà thôi thì không đủ làm mãn nguyện nỗi thôi thúc tôn giáo.
Ngang đây có thể mở một ngoặc đơn. Trong chủ đề này, nổi bật quan điểm của người Phật giáo được hiểu như một ngoại lệ. Phật giáo không đặt vấn đề cụ thể về Thượng đế hiện hữu hay không hiện hữu. Ðối với Ðức Phật, bấn cứ vấn đề nào không liên quan tới khổ não, kể cả vũ trụ quan, cũng chỉ làm chúng sinh xao lãng. Con người phải đặt trọng tâm mọi nỗ lực của nó vào vấn đề nhìn cho rõ căn nguyên khổ não của mình và tự mình diệt khổ não. Người Phật giáo sống thân tâm an lạc không phải vì sở đắc được cái này cái nọ, mà đơn giản chỉ vì lòng không còn khổ.
Trở lại với người máy móc chủ nghĩa, do bởi họ nhìn thế giới là đối tượng của những qui luật bất di bất dịch nên họ thấy không cách gì sửa đổi nó, và nhất thiết Thượng đế phải không có mặt trong cái gọi là cuộc sáng thế của ngài. Và ngài cũng không có khả năng hành động bất cứ điều gì trong cuộc tạo hóa và trong thế giới đó. Lời kêu cầu của những kẻ đi theo ngài có thể tới tai ngài, nhưng ngài phải bỏ nó ở ngoài tai hoặc phải đứng yên, bất động nhìn dân ngài bị đè bẹp dưới các sức mạnh mà ngài không kiểm soát chúng.
Khoa học không tôn giáo
Một nhà khoa học, với tư cách là nhà khoa học, không quan tâm tới câu hỏi về nguồn gốc của vũ trụ vì y không xem đó là câu hỏi có thể trả lời. Y cũng không thấy việc trả lời câu hỏi ấy có thể đưa tới tác động nào, nghĩa là hoặc làm thay đổi chút nào thế giới tự nhiên, hoặc làm cho chóng vánh hơn công tác thực nghiệm của y. Trong vũ trụ máy móc chủ nghĩa, nếu có tôn giáo thì đó là một thứ tôn giáo xanh xao thiếu máu.
Những kẻ chống đối máy móc chủ nghĩa trả đũa rằng tôn giáo là một kinh nghiệm thật sự trong đó con người ý thức sự có mặt của Thượng đế, được bảo đảm về sự có mặt của ngài và được an ủi. Thượng đế không là một Ðấng Tạo hóa vắng mặt và bất lực mà là một thực tại hướng dẫn, ủi an và muôn đời hiện diện. Tiến trình sáng thế của Thượng đế vẫn đang diễn ra, càng lúc càng tốt đẹp hơn. Và vì chủ nghĩa máy móc không có khả năng giải thích tôn giáo nên nó bị giới hạn trong các giải thích "máy móc và khô khan" của nó.
4. Tâm trí
Hoạt động tinh thần và vật chất
Tuy chủ nghĩa máy móc không bị buộc phải liên kết với chủ nghĩa duy vật (materialism) nhưng nó cực kỳ thoải mái trong cuộc liên minh này. Bởi thế người máy móc chủ nghĩa có khuynh hướng thông giải các hiện tượng tâm thần (mental phenomena) bằng những thuật ngữ có tính vật chất.
Ðối với người máy móc chủ nghĩa, hoạt động tinh thần là một hình thức thao tác trong não bộ, giống như một tổng đài điều phối điện thoại, nơi các thông điệp được truyền đi qua một dây thần kinh được móc nối với những dây thần kinh khác, hoặc là vấn đề hoạt động có tính hóa học hoặc cái gì đó thuộc về tự nhiên.
Vì hoạt động tinh thần là một thực tế nên phải giải thích nó theo khía cạnh tự nhiên. Với người máy móc chủ nghĩa, hoạt động ấy không thể do bản thể tinh thần cung cấp, mà phải được giảm thiểu thành một hoạt động vật chất, đang thao tác theo định luật nhân quả.
Còn về ý tưởng trừu tượng
Những kẻ chống đối thuyết duy máy móc quả quyết rằng nói như thế không bao giờ có thể là một thông giải thích đáng các hiện tượng tinh thần. Ta có thể qui các ý tưởng đơn giản cho cảm xúc, như Hobbes đã làm, thế nhưng kẻ nào có thể truy tầm dấu vết của các ý tưởng cực kỳ trừu tượng của toán học trong sự thao tác mù lòa của các phân tử vật chất?
Con người có khả năng tập tành trong tâm trí nó một phong cách cư xử có hạnh kiểm mà không cần phải thao diễn nó ra bằng các hoạt động thể lý thật sự, và thậm chí có thể thấy trước, nếm trải trước những gì sẽ theo sau các hành động thể lý nhất định. Ta có thể chứng thực cho điều đó bằng các minh họa về tự kỷ ám thị, quán tưởng, thần giao cách cảm, mơ mộng, thiền định, v.v. Thật khó có thể qui những hiện tượng đó cho hóa học.
Ý tưởng tự nó có ý nghĩa
Ý tưởng không đơn giản chỉ là hình ảnh của các đối tượng ngoại tại, chúng cũng có ý nghĩa của chính chúng. Một ý tưởng chỉ tới, hoặc ngụ ý cái gì đó khác với bản thân nó. Trong số những ý tưởng của chúng ta, có các ý tưởng về chân, thiện, mỹ. Thật không cách gì chứng minh làm thế nào chúng có thể phát sinh từ hành động thuần túy vật lý học và hóa học.
Nếu nói rằng các tác phẩm của Newton, Plato, Shakespeare, Nguyễn Trải, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, v.v. chỉ là kết quả hoạt động mù lòa của nguyên tử đang chuyển động không ngừng dưới tác động hiệu ứng của quan hệ nhân quả mà không có bất cứ kế hoạch hoặc cứu cánh nào, thì hình như "hơi bị phi lý".
IV. Thuyết tiến hóa và chủ nghĩa máy móc
1. Quá trình hình thành
Phải có câu trả lời
Vật lý học và hóa học, hai ngành khoa học khống chế thuở mới bắt đầu thế kỷ 19, bị thôi thúc phải phản biện các ý kiến chống đối ấy. Nhà khoa học tin cả những nơi y có thể không thấy, và y giả định có thể đưa ra lời giải thích có tính tự nhiên cho các hiện tượng ấy một khi có thêm tri thức. Ðức tin ấy của nhà khoa học có vẻ được biện minh bởi thuyết tiến hóa do nhà vạn vật học người Anh Charles Darwin (1809-1882) trình bày một cách chi tiết, vì từ một lập trường khoa học khác, nó cống hiến câu trả lời có vẻ hợp lý cho các vấn đề đạo đức, tôn giáo và tâm trí vừa đề cập ở trên.
Giờ đây, việc khoa học tìm được câu trả lời cho mọi vấn đề của vũ trụ, hoặc đang thẳng tiến trên con đường giải thích, ngày càng trở thành niềm hy vọng có cơ sở, và biện hộ cho thiện cảm lạc quan của những người như Ernst Haeckel, kẻ xem sự phản đối chủ nghĩa máy móc như là tàn tích của mê tín và ngu dốt.
Manh nha từ cổ đại
Theo Darwin, thuyết tiến hóa không mới mẻ. Thuởû thế kỷ 6 trước C.N., Anaximander đã giải thích sự xuất hiện của các vỏ sò tìm được sâu trong nội địa bằng giả thuyết rằng mặt đất từng có thời hoàn toàn ngập nước. Vị triết gia Hi Lạp ấy phỏng đoán rằng khi nước rút hết, một số sinh vật tự tái điều chỉnh với môi trường mới bằng cách lập thành các cơ quan thích nghi. Những hình thức đa dạng của các sinh vật, như chúng ta biết, phát sinh từ những nguồn gốc khiêm tốn. Aristotle biến ý tưởng về triển khai ấy thành tâm điểm học thuyết của ông, dù nó bị giới hạn trong vòng những chủng loại không biến đổi.
Vào thế kỷ 18, Kant đề xuất các giả thuyết liên quan tới tinh vân để cung cấp lời giải thích có tính tự nhiên cho các thiên thể. Hegel biến các ý tưởng về quá trình diễn tiến (tiến trình, process) thành tâm điểm của triết học vào lúc bắt đầu thế kỷ 19. Nếu thuyết tiến hóa chỉ có nghĩa là triển khai hoặc tiến trình mà thôi thì ta có thể nói một cách trung thực rằng nó không xuất phát từ Darwin.
Ðóng góp của Darwin
Ðiều Darwin đã làm là biến các lý thuyết có tính suy tưởng về tiến hóa thành qui mô và đạt tiêu chuẩn khoa học bằng cách sưu tập một số lượng rất lớn những thí dụ thực nghiệm (empirical instances) làm thành kiểu mẫu hỗ trợ cho các ý tưởng lý đoán ấy.
Có lẽõ đánh giá thích đáng nhất về sự đóng góp của Darwin là, vào lúc bắt đầu thế kỷ 19, ý tưởng về thuyết tiến hóa đã quen thuộc; nhiều người tìm cách chứng minh nó tới độ tích lũy được nhiều sự kiện khoa học gợi tới một sự giải thích như thế nhưng định hướng của nó không rõ ràng; các lý thuyết đương thời hoặc quá tưởng tượng hoặc quá suy tưởng, cho tới khi Darwin viết cuốn sách kinh điển của ông.
2. Lamarck
Sửa đổi theo môi trường
Vào lúc bắt đầu thế kỷ 19, *Jean Pierre Lamarck (1744-1829), người được xem là nhà lý thuyết tiến hóa tiền Darwin, tiến hành một nỗ lực trang trọng và tiên khởi nhằm cung cấp lý thuyết cho cuộc tiến hóa. Nhà vạn vật học người Pháp ấy giả định rằng mỗi sinh vật khi bị đặt vào một môi trường sống, tự nó phải thích nghi nếu nó hy vọng được sống sót. Chừng nào môi trường vật lý ấy còn kéo dài một cách hợp lý và không biến đổi, chừng đó vẫn chưa có vấn đề vì sinh vật đã được trang bị để đáp ứng các đòi hỏi của môi trường ấy.
Khi môi trường biến đổi mạnh mẽ, sinh vật cũng phải biến đổi theo hoặc bị diệt vong. Ðiều thiết yếu là phải giả định rằng sinh vật đó có khát vọng sinh tồn và có năng lực sửa đổi cấu trúc hoặc tập quán của nó để đáp ứng được hoàn cảnh mới. Căn cứ vào sự kết hợp của nỗ lực và khát vọng, ta có thể giải thích cuộc tiến hóa của các sinh vật.
Khát khao và rán sức
Hươu cao cổ từng có thời tầm vóc không khác con ngựa ngày nay bao nhiêu. Tuy thế, nó cần thực phẩm là lá của một loại cây nhất định. Thuở đó, có rất nhiều loại cây ấy, sum suê lá tới độ hươu cao cổ có thể thỏa mãn nhu cầu của nó bằng cách thoải mái ăn lá ở những cành thấp. Rồi xảy tới một chuỗi hạn hán làm chết rất nhiều cây và giảm số lượng lá. Chẳng bao lâu sau, lá ở các cành thấp cũng thưa thớt dần, không đủ cung cấp cho hươu. Ðể sống sót, hươu phải ăn lá ở những cành cao hơn. Hươu có khát vọng sinh tồn và phải đem hết nỗ lực cần thiết ra mà tự sửa đổi cấu trúc của nó, do đó cần cổ của nó duỗi dài.
Lối cắt nghĩa ấy đủ để giải thích những biến đổi trong các con hươu cao cổ nguyên thủy nhưng không thể giải thích sự kiện những con hươu cao cổ ngày nay, lúc mới chào đời, cổ cũng đã dài sẵn. Ðiều thiết yếu là phải bổ sung vào lời giải thích đó một giả định rằng các đặc điểm đạt được ấy qua di truyền khiến hậu duệ bẩm sinh sở hữu cái chỉ được tổ tiên của chúng sở đắc bằng nỗ lực.
Xét theo quan điểm khoa học, lý thuyết ấy xem ra có nhiều thiếu sót. Sự giải thích bằng khát vọng và nỗ lực đã loại trừ mọi khả năng làm thí nghiệm để có thể quyết định giá trị của giả thuyết ấy. Giả thuyết về di truyền các đặc điểm đã đạt không được đánh giá một cách tổng quát là đúng vì nó liên quan tới giả định có thể di truyền sự sửa đổi các tế bào của cơ thể.
Không hẳn máy móc chủ nghĩa
Nhà sinh vật học người Ðức *Friedrich Weismann (1834-1914) đã chứng minh rằng sự di truyền bị giới hạn trong các tế bào mầm. Do đó, nếu tôi bị cụt tay hay mất một con mắt, những biến đổi trong cơ thể của tôi sẽ không bị lưu truyền cho con cháu của tôi. Những khác biệt trong di truyền tùy thuộc vào những biến đổi trong tế bào mầm. Quan điểm này ngày nay được chứng thực bởi các khám phá về DNA (Acid deoxyribonucleic) và gene di truyền.
Dù thuyết của Lamarck có vẻ như cắt nghĩa có tính tự nhiên nhưng nó không là lời cắt nghĩa mang tính máy móc chủ nghĩa, vì nó quả quyết rằng khả năng của hành động sửa đổi cấu trúc vật lý là do bởi hoạt động có tính cứu cánh. Lý thuyết của Darwin được đánh giá ưu việt vì nó giải thích hết thảy những biến đổi bằng cách viện dẫn nghiêm ngặt tính hiệu ứng của quan hệ nhân quả và ăn khớp với lược đồ mang tính máy móc chủ nghĩa.