I. Dẫn nhập -II. Các nguồn của chân lý- III. Chân lý tuyệt đối và tương đối - IV. Thuyết tính tương ứng của chân lý -V. Thuyết tính nhất quán của chân lý -VI. Thuyết tính công cụ của chân lý -VII. Tóm lược
I. Dẫn nhập
Chân lý và người lý tưởng
Chúng ta nên "xin hân hạnh tuyên bố" rằng loài người đang truy tầm chân lý vì như thế có nghĩa loài người càng ngày càng nhận biết sâu sắc tính chất lý trí của mình và những cùng đích thích đáng của hoạt động con người. Nhưng chẳng may, cuộc tìm kiếm chân lý là một hành trình tra vấn dễ nản chí, mệt mỏi và bất tận.
Loài người thiếu kiên trì và quá quan tâm tới hành động nên thường phó thác việc suy tư cho kẻ khác hoặc chỉ đạt tới các kết luận nửa vời, cốt chỉ để thỏa mãn nhu cầu khẳng định cá nhân mình. Sự kiện ấy không có nghĩa loài người đánh mất lòng tôn trọng chân lý, vì dù gì đi nữa, còn tìm kiếm chân lý thì vẫn còn là người có lý tưởng.
Thậm chí những kẻ không bao giờ vận động một chút tế bào não của mình để tìm cách chứng minh cho lập trường của mình cũng nổi cáu khi có ai đó vạch ra điểm sai lầm hay chưa thỏa đáng trong ý kiến của họ. Nhân danh chân lý, con người phản bác ý kiến của kẻ khác, và hơn nữa, lắm khi còn ngược đãi kẻ nào không chịu đi theo một học thuyết đã được mình chấp nhận.
Vẫn truy tầm chân lý
Thật khó có thể biện minh cho một thái độ như thế. Những mô tả quan điểm của các học thuyết hay truyền thống khác nhau đã góp phần hình thành từng chương của cuốn sách này hẳn đủ để góp phần giúp bạn nhận ra rằng trong suốt khoảng 26 thế kỷ vừa qua, con người chỉ mới bắt đầu cuộc hành trình của mình, và có lẽ còn rất lâu mới có thể đạt tới những kết luận ổn thỏa và cố định, thoát khỏi bất cứ khả năng thách đố hữu hiệu nào. Quả thật, như chúng ta thấy lúc này, trong triết học hiện đại, chưa có sự đồng thuận thật sự về nguồn gốc hoặc ý nghĩa của chân lý.
Một số người xem tri thức tương đương với chắc chắn. Và qua việc xem tri thức đồng nghĩa với chân lý, họ xác định chân lý là chắc chắn. Lập trường ấy phân biệt chân lý với ý kiến đơn thuần, cái có thể có một cấp độ khả thi nào đó nhưng vẫn không thể được khẳng định là chắc chắn. Nó cũng phân biệt chân lý với niềm tin ở chỗ niềm tin hàm ý sự chấp nhận một học thuyết mà không cần phải dựa vào bằng chứng kinh nghiệm hoặc lý trí. Về mặt luận lý, người ta có thể nhận ra không nhiều thì ít điểm trái ngược trong bất cứ bài báo bình luận hay niềm tin nào, và điều đó cho thấy chúng không thể nào cung cấp cái chắc chắn.
Ðầu mối của vấn đề
Khi tuyên bố chân lý tương đương với chắc chắn như trong toán học, người ta khẳng định rằng về mặt luận lý, không thể nào có sự trái ngược trong các lời tuyên bố. Lý tưởng của hầu hết loài người là sở đắc một hệ thống gồm những phát biểu về vũ trụ nói chung, vì như thế có nghĩa là sở hữu Chân lý tối hậu (a final Truth), Chân lý với chữ C viết hoa.
Trong tri thức, khả năng đạt tới cái chắc chắn thì tùy thuộc vào năng lực của con người và các nguồn thông tin của nó. Nó hàm chứa những phẩm chất quí báu của đức tin, lý trí và kinh nghiệm. Chúng ta sẽ cố làm toại nguyện mình bằng cách khảo sát một số nguồn gốc của tri thức mà loài người kỳ vọng sẽ cung cấp cho nó các giải đáp đối với những câu hỏi của nó. Nhưng thao tác theo cách này sẽ mang chúng ta thêm lần nữa quay trở lại vấn đề lý trí và giác quan. Và câu hỏi đặt ra là cái nào trong hai cái đó là nguồn thật sự của tri thức.
II. Các nguồn của chân lý
1. Chủ nghĩa duy lý
Việc suy ra từ tiền đề đúng
Con người sở hữu lý trí. Qua lý trí y có thể cân nhắc bằng chứng và đi tới kết luận có cơ sở để kiến lập chân lý của y. Luận lý học (logic) – môn học về suy nghĩ chính xác, chuyên ứng xử bằng qui tắc để suy ra kết luận từ bằng chứng – khẳng định rằng ta kiến lập chân lý của một kết luận khi kết luận ấy được suy ra, theo các qui tắc luận lý (logical rules), từ các tiền đề đúng. Dường như đây là cách thức thỏa đáng để đạt tới chân lý.
Rủi thay, chính điều kiện "các tiền đề phải đúng" làm phát sinh tình trạng bối rối vì lúc đó chúng ta lại phải kiến lập chân lý của các tiền đề ấy. Và ta chỉ có thể làm được điều đó bằng cách theo các qui lắc của luận lý học (the rules of logic), suy ra chúng từ các tiền đề đúng. Nhưng như thế lại phải thao tác thêm lần nữa đối với các tiền đề khác, và cứ thế.
Có thể thấy rằng việc kiến lập chân lý của kết luận bằng phương pháp ấy liên quan tới những bước lùi tới vô tận nếu không có một số tiền đề có thể chấp nhận là đúng mà không cần phải viện dẫn thêm chứng cớ. Nếu có những tiền đề như thế để từ chúng mà tiến hành công tác suy ra các kết luận với sự quan tâm thích đáng các qui tắc luận lý, lúc đó chúng ta sẽ tìm ra chân lý.
Trường hợp các định đề
Ta có thể xem những tiền đề gốc – không đòi hỏi có thêm bằng chứng – là những định đề (axioms) hoặc những chân lý hiển nhiên, nghĩa là tự chúng sở hữu bằng chứng về chúng (self-evident truth). Hình học Euclid chứng minh khả năng đi từ các định đề hoặc các tiền đề bảo đảm (assured premises) tới những kết luận xa nhất của môn học ấy chỉ bằng cách lập luận nghiêm ngặt. Nếu có thể tìm thấy trong triết học một kiểu thức giống y như thế thì ta có thể thành tựu cái chắc chắn.
Ngày nay, cách thức kiến lập chân lý ấy không còn được ưa chuộng. Ðại khái, người ta đồng ý rằng cái gọi là chân lý hiển nhiên thật ra chẳng hiển nhiên chút nào hoặc không xác thực. Mọi chân lý đang được chúng ta sở hữu đều chỉ phản ánh một chuỗi giới hạn các định đề trong đó chúng được triển khai; chúng không thể được chấp nhận là đúng trong một hệ thống khác.
Có một định đề (postulates) trong hình học Euclid có thể được chấp nhận là đúng rằng khoảng cách ngắn nhất giữa hai điểm là một đường thẳng, nhưng điều đó không đúng trong thuyết tương đối, ở đó khoảng cách ngắn nhất giữa hai điểm – diễn tả một cách chính xác hơn – là một đường cong!
Nếu trong hình học Euclid, có thể xem là hiển nhiên việc các đường song song sẽ không bao giờ gặïp nhau nếu kéo dài tới vô cực, thì hình học phi-Euclid (non-Euclidian geometry) bắt đầu bằng sự phủ nhận lời khẳng định đó. Và kết quả của việc áp dụng hình học phi-Euclid vào vật lý học hiện đại là một bảo đảm rằng quan điểm mới mẻ này có giá trị. Do đó, hệ quả là muốn sở đắc chân lý, ta không thể chấp nhận lối tiếp cận trông có vẻ đầy hy vọng ấy.
2. Chủ nghĩa duy nghiệm
Lấy trải nghiệm làm cơ sở
Ðây là phản ứng chống lại lập trường tổng quát của chủ nghĩa duy lý (rationism); nó mang hình thức chủ nghĩa duy nghiệm (empirism) vì nó viện dẫn kinh nghiệm. Khoa học hiện đại bắt đầu xuất hiện khi nhà khoa học chuyển hướng từ sự quan sát giản dị và suy lý trong trí óc sang thí nghiệm trong đó có thể tái lập các hoàn cảnh tự nhiên để kiểm soát chúng nhằm mục đích phát hiện tương quan giữa các biến cố.
Ban đầu, khoa học hiện đại hết sức quan tâm tới việc phát hiện nguyên nhân của biến cố để có thể triển khai các phương thế kiểm soát những gì xảy ra hầu phục vụ phúc lợi tổng quát của con người. Các nhà khoa học hiện đại đồng thuận rằng không thể nào tìm thấy nguyên nhân bằng cách viện dẫn lý trí. Thiên nhiên, như người ta thường nói, quá huyền ảo trước các công thức hợp lý của chúng ta. Con người không thể gặp gỡ thiên nhiên với những đáp án lập sẵn mà phải tới với nó bằng một thái độ khiêm tốn như một kẻ cầu xin mang theo các câu hỏi của mình.
Thông tin qua giác quan
Kinh nghiệm phải bắt đầu với chất liệu được giác quan cung cấp. Người ta giả dụ rằng có một thế giới ngoại tại và rằng các đối tượng trong thế giới đó truyền đạt chúng cho tâm trí cá nhân bằng cách cung cấp toàn bộ thông tin có liên quan tới ý nghĩ. Thông tin này có thể xem là được thể hiện dưới dạng các ý tưởng; chừng nào các ý tưởng còn thể hiện chính xác những đối tượng (objects) đang sản sinh chúng, chừng đó chúng vẫn còn đáng tin.
Tri thức phải bắt đầu bằng sự khảo sát các ý tưởng ấy; nó không thể nào mở rộng tới quá bên kia chúng. Mọi tri thức được sở hữu theo cách đó phải nhất thiết đúng vì nó đặt cơ sở vững chắc trên thực tế. Có thể đánh giá phương pháp này có giá trị vì các ngành khoa học đã chứng minh rằng đây là lối đi chắc chắn và độc nhất để sở đắc tri thức.
Kinh nghiệm thôi chưa đủ
Chủ nghĩa duy nghiệm rất tán thưởng phương pháp đó. Các sự kiện của kinh nghiệm phải có thẩm quyền tối hậu trong việc đề ra hệ thống nào quả quyết nó đang trình bày chi tiết bản tính của vũ trụ. Thế nhưng người ta thường phản đối quan điểm ấy với lập luận rằng kinh nghiệm là cái ắt có chứ chưa đủ vì trong thực tế tri thức còn liên quan tới nhiều thứ nữa chứ không phải chỉ được cung cấp qua giác quan.
Do bởi bản tính của mình, các giác quan tự hạn chế trong thông tin được chúng cung cấp: mắt cho màu sắc, tai cho âm thanh, mũi cho mùi, v.v. và giác quan này không thể cung cấp loại thông tin tùy thuộc giác quan kia. Như thế, thông tin được các giác quan cung cấp đều nằm trong dạng các ý tưởng đơn giản, và chỉ thế thôi. Nhưng kinh nghiệm của chúng ta và có lẽ của thế giới chúng ta đang hiếu kỳ muốn biết, được làm thành bởi các ý tưởng phức tạp trong đó màu sắc, âm thanh, mùi và vị, v.v. phối hợp nhau.
Phải có thêm nữa
Các giác quan không thể giải thích sự phối hợp của các ý tưởng đơn giản. Chúng cũng không thể đi tới quá bên kia bản thân đối tượng để cung cấp thông tin về tương quan giữa các đối tượng. Chúng ta từng đọc lời quả quyết của David Hume rằng kinh nghiệm giác quan không thể nào cung cấp cho chúng ta ý tưởng về quan hệ nhân quả.
Nếu các giác quan không thể cung cấp thông tin về những nối kết giữa các biến cố thì chúng không thích đáng với công tác khoa học. Chúng ta không quan tâm tới một thế giới như là nơi tập kết vạn vật mà là tới một thế giới như một toàn bộ ngăn nắp, một hệ thống có trật tự. Do đó, phải có một cái gì nữa cho tri thức chứ không phải chỉ là thông tin do giác quan cung cấp.
Một số người phản đối chủ nghĩa duy nghiệm; họ cho rằng nếu quả thật như thế, nó hẳn không cung cấp cho chúng ta thông tin về những đối tượng mà chúng ta quan tâm nhất. Nếu như tôi chỉ biết dựa trên cơ sở những thông tin được cung cấp qua các giác quan, có thể chẳng bao giờ tôi có bất cứ tri thức nào về Thượng đế vì theo chỗ tôi biết cho tới nay, không người nào từng trải nghiệm Thượng đế giống như bản thân họ trải nghiệm người khác.
Tính lý tưởng của khoa học
Tri thức chỉ có thể là tri thức về hiện tại vì trong chừng mực am hiểu của chúng ta, không ai từng đang nhìn vào tương lai diệu vợi hoặc quá khứ xa xăm. Nó cũng liên quan tới sự phê phán nghiêm khắc nhiều định luật khoa học vì các định luật ấy biểu hiện cho lý tưởng chứ không cho các điều kiện thực tế. Các nhà khoa học nói tới định luật có thể áp dụng cho các vật thể đang rơi tự do trong chân không nhưng điều đó không dựa trên cơ sở kinh nghiệm nào cho tới khi đạt được những bước tiến cụ thể trong khoa học không gian.
Các nhà khoa học cũng nói cho chúng ta biết điều gì sẽ xảy ra cho một vật thể khi chuyển động không gặp sức ma sát nào, thế nhưng chưa từng có ai chứng kiến một hiện tượng như thế, ít nhất cho tới khi tạo được chân không hoặc con người và phi thuyền bay lên vũ trụ, đi vào không gian và tiến hành các cuộc thí nghiệm trên đó. Nói chung, khoa học chỉ có thể thao tác bằng các phát biểu về những điều kiện lý tưởng, bằng các giả thuyết và bằng sự suy tưởng tổng quát. Vì chỉ dựa vào trải nghiệm, chủ nghĩa duy nghiệm không thể nào giải thích đặc tính ấy của tri thức khoa học.
Một giải pháp thỏa hiệp
Ðể có một thỏa hiệp nào đó giữa chủ nghĩa duy lý và chủ nghĩa duy nghiệm, có thể đựa ra một giải pháp tương đối thỏa đáng. Nhà khoa học hoặc triết gia bắt đầu với các sự kiện của kinh nghiệm và chấp nhận thẩm quyền tối hậu của kinh nghiệm để kiểm tra các kết luận, nhưng trong khuôn khổ những giới hạn ấy, họ tiến hành qua suy tưởng để tăng tiến nguyên ủy của tri thức.
Không có sự kiện thì không có tri thức; không có suy tưởng thì không thể có tiến bộ. Cả khoa học lẫn triết học chỉ có thể tăng tiến khi đôi bên học được cách gắn bó các phương pháp của mình vào với nhau.
III. Chân lý tuyệt đối và tương đối
1. Quá trình thẩm tra
Thời thế kỷ mười bảy
Về phương diện lịch sử, chủ nghĩa duy lý và chủ nghĩa duy nghiệm có chung một đức tin vào khả năng đạt được chân lý tối hậu và tuyệt đối, được hiểu như một phát biểu hay một hệ thống bao gồm các phát biểu không thể nào sai.
Vào thế kỷ 17, rõ ràng nếu có chân lý tuyệt đối thì không người nào có thể phát biểu rằng mình đã từng nắm bắt nó. Sự va chạm của các hệ thống khoa học và triết học được xem như bằng chứng đủ để chứng minh cho thấy hết thảy các lời phát biểu đều có thể bị thách thức nghiêm trọng. Do đó, các triết gia thời thế kỷ 17 lập luận rằng vì không thể nào đạt tới chắc chắn tuyệt đối nên các phương pháp tìm kiếm chân lý đang sử dụng đều sai. Và như thế, tư tưởng của thời kỳ đó bị chế ngự bởi vấn đề phương pháp.
Các triết gia thế kỷ 17 tranh cãi nhau về phương pháp nhưng không tranh cãi về việc có khả năng đạt được chân lý tuyệt đối hay không. Các thế kỷ về sau nêu lên câu hỏi nghiêm trọng hơn nhiều, đó là liệu rằng có chân lý tuyệt đối hay không?
Từ thế kỷ mưới chín
Kể từ thế kỷ 19, có sự đồng thuận rộng rãi rằng ý tưởng về chân lý tuyệt đối chỉ là ảo tưởng. Thậm chí có người còn lập luận rằng sự giả định có chân lý tuyệt đối được dùng để biện minh cho chủ nghĩa giáo điều (dogmatism) và sự ngược đãi, đồng thời làm chệch hướng các nỗ lực của loài người, biến nó thành một cuộc nghiên cứu vô bổ khiến cho loài người bị cướp đi nhiều ân sủng lý ra đã có thể sở đắc bằng cách tập trung vào những dự án ít tham vọng hơn.
Bởi thế, trong thời đương đại, vấn đề không phải là chú trọng tới phương pháp tuy phương pháp vẫn quan trọng, mà là cuộc xung khắc về ý nghĩa của bản thân chân lý. Và như thế, trong vấn đề chân lý, chúng ta bị mang lùi trở lại cuộc xung khắc giữa tính tương đối và tính tuyệt đối của các giá trị.
2. Chân lý tuyệt đối
Chân lý qua mạc khải
Nếu chúng ta có thể hình dung Ðấng Toàn năng đang đứng bên ngoài vũ trụ, có năng lực nắm bắt trong chớp mắt toàn bộ quang cảnh các biến cố quá khứ, hiện tại và tương lai, thì có thể nói rằng Ðấng ấy sở hữu chân lý tuyệt đối.
Nếu Ðấng ấy truyền đạt từng phần tri thức của ngài cho cá nhân mỗi người, có lẽ các thành phần đó hẳn có thẩm quyền y như cái toàn bộ, và những kẻ tiếp nhận mặc khải ấy đều có thể được xem là sỡ hữu chân lý, với chữ CHÂN LÝ viết hoa.
Do đó, ta có thể lập luận rằng sự hiện hữu của Ðấng toàn tri là một bảo đảm cho chân lý tuyệt đối là có thật, và sự mạc khải của ngài cung cấp cho con người một phần chia nào đó của chân lý ấy.
Niềm tin vào khoa học
Thế nhưng, con người chẳng bao giờ mãn nguyện với việc chấp nhận chân lý theo hình thức đó. Ðược phú cho khả năng suy luận, nó liên tục tìm kiếm câu trả lời cho các vấn đề của mình bằng suy nghĩ, quan sát hoặc thí nghiệm. Con người thường nghĩ tới thẩm tra như một cách thức dẫn tới tri thức đầy đủ về vũ trụ tự nhiên, một tri thức đầy đủ như thế có nghĩa là một đáp án tối hậu cho hết thảy các câu hỏi. Khoa học có thể được hình dung như một bộ phận tri thức đang ngày càng gia tăng, triển khai và dàn trải một cách thận trọng bởi các phương pháp đã được chấp nhận.
Trong khi vẫn thừa nhận khoa học tuy tiến bộ nhưng chỉ là một phương thế nhỏ nhoi trong cuộc khám phá bí mật của vũ trụ, con người lại cảm thấy trong sự kiện thành tựu dăm ba cái ấy ẩn chứa lời hứa hẹn rằng nó có thể thành tựu mọi cái. Về mặt lý thuyết, tới một ngày nào đó, khoa học sẽ có khả năng làm chủ mọi vấn đề và trả lời mọi câu hỏi. Và lời phát biểu tối hậu của khoa học hẳn là chân lý tuyệt đối.
3. Chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa hoài nghi
Ðều xem chân lý là tuyệt đối
Cả hai bên, chủ nghĩa giáo điều lẫn chủ nghĩa hoài nghi đều có điểm giống nhau, đó là đồng ý có chân lý tuyệt đối. Thế nhưng bên thứ nhất quả quyết rằng chân lý ấy đang có sẵn, còn bên thứ hai khẳng định rằng chân lý ấy chỉ có thể xuất hiện qua cuộc tìm kiếm lâu dài và gian khổ.
Lập trường thứ nhất, của bên này, đưa tới chủ nghĩa giáo điều (dogmatism) bằng cách không cho phép sử dụng lý trí của con người để khảo sát những phát biểu đã được bảo đảm bởi Ðấng tối cao.
Lập trường thứ hai, của bên kia, dễ dàng thích ứng với chủ nghĩa hoài nghi (scepticism) vốn ngờ vực hết thảy các tuyên bố đương thời về chân lý; nó cho rằng chính sự công nhận chưa có ai đạt tới mục đích ấy đủ để chứng thực nỗi hoài nghi rằng bất cứ lập trường đương đại nào cũng đều tuyệt đối có lý!
Chân lý trong phát biểu cá biệt
Có một khả năng thứ ba liên quan tới chân lý tuyệt đối. Trong khi cả hai lập trường vừa kể đều đồng ý chân lý tối hậu như một phát biểu đầy đủ về thiên nhiên và con người và về bất cứ cái gì đang hiện hữu thì một số nhà tư tưởng có yêu cầu khiêm tốn hơn rất nhiều. Họ chỉ tuyên bố chân lý cho những phát biểu cá biệt. Bởi thế, ta tuyệt đối chính xác khi nói lúc này bạn đang đọc lời phát biểu rằng các mệnh đề cá biệt có thể được gọi là đúng.
Có thể bảo đảm cho những phát biểu như thế bằng sự quan sát đơn giản hoặc bằng lời tuyên bố nào đó có tính hiển nhiên. Dường như tuyệt đối chắc chắn rằng hình tròn không phải là hình vuông. Một phát biểu như thế không đòi hỏi bằng chứng tinh tế. Nó đủ để thể hiện hai giả thuyết, giúp cho người quan sát hoàn toàn thắng lợi. Bằng sự khiêm tốn trong các tuyên bố của mình, lập trường này có thể được xem như vừa vô hại vừa hữu ích. Tuy thế, trong thực tế, nó cũng bị một số người tương đối chủ nghĩa (relativism) thách thức.
Tuyệt đối khách quan
Khi nói chân lý có tính tuyệt đối, chúng ta có ý nói – theo phân tích vừa rồi – rằng đối với một sự kiện, chỉ có một lời phát biểu có thể được khẳng định là đúng. Chân lý này không liên quan gì tới sở thích hoặc mong muốn của chúng ta. Thậm chí nó cũng chẳng trực tiếp liên quan chút nào tới động cơ cá nhân của mỗi người.
Nó đúng như một tiêu chuẩn khách quan và tuyệt đối của chân lý hoặc nó sai cái sai của bất cứ một chuỗi phát biểu nào do con người đưa ra.
4. Chân lý tương đối
Tri thức thực dụng
Có khả năng khái niệm chân lý có tính tuyệt đối là hoàn toàn sai. Bằng cách chuyển đổi tư tưởng thành lý tưởng bất khả thi có thể làm lệch lạc công tác ưu tiên của nó là phải làm điều gì đó liên quan tới nhu cầu thực tiễn của loài người. Dường như khoa học hiện đại quan tâm tới tương quan của vạn vật hơn bản tính của vạn vật; kết quả của tri thức chỉ có ý nghĩa khi nó giúp cho con người kiểm soát và vận dụng các biến cố để phục vụ cho phúc lợi của con người.
Cho dù có thể sở đắc tri thức đầy đủ về vũ trụ – một điều hẳn không thể nào có – nhưng nếu kết quả của thông tin có được ấy không thể sử dụng cho phúc lợi của loài người thì đó cũng chỉ là thứ dùng để thỏa mãn tính tò hiếu kỳ vu vơ mà thôi.
Tập trung và riêng biệt
Vì chẳng bao giờ có thể nắm bắt chân lý tuyệt đối nên, theo những kẻ ủng hộ quan điểm này, con người phải tập trung vào các vấn đề tức thời và học hỏi điều gì đó về việc kiểm soát các biến cố tự nhiên nhằm phục vụ lợi ích của nó.
Tiếp đến, không có chân lý đơn lẻ, đúng hơn, có vô số chân lý vì tiêu chuẩn của chân lý hẳn có tính tương đối đối với nhu cầu của các tình huống riêng biệt và đối với giải pháp của các vấn đề trong hoàn cảnh đó. Các giải pháp làm thỏa mãn nhóm này có thể không thích đáng với nhóm kia, khiến cho thật phi lý khi nói rằng cả hai nhóm dù gì đi nữa cũng nên chấp nhận những kết luận giống nhau.
IV. Thuyết tính tương ứng của chân lý
1. Một số khái niệm
Có thể làm sáng tỏ vấn đề bằng cách khảo sát một số khái niệm về chân lý của các triết gia.
Chủ nghĩa duy thực biểu hiện
Khái niệm đầu tiên có thể gọi là chủ nghĩa duy thực (realism), dù ngày nay, thuật ngữ này trở nên co giãn tới độ khó có thể cho nó một định nghĩa chính xác. Tuy thế, ta có thể mượn lập trường của John Locke, thường được xem là chủ nghĩa duy thực biểu hiện (representative realism), để làm thí dụ minh họa.
Locke coi việc quyết định nguồn gốc, mức độ và giá trị của tri thức như một hướng dẫn tới loại câu hỏi mà con người có thể đặt ra và bảo đảm có thể tìm thấy câu trả lời. Cuộc thẩm tra của ông bắt đầu với cấp bậc đơn giản trong cuộc sống hằng ngày.
Khi một người bình thường nói y biết cái gì đó, có nghĩa rằng y có sự tiếp xúc thẳng với đối tượng ấy. "Tôi thấy cái cây" có nghĩa rằng tôi thấy có cái cây chứ không phải thấy cái vật thay cho cái cây. Chân lý của lời phát biểu ấy tùy thuộc vào tính chất tức thời của giao tiếp.
Không tức thời chẳng trực tiếp
Khảo sát sơ qua các điều kiện của tri thức cũng đủ để vén lộ cho thấy rằng không thể nào có sự giao tiếp tức thời như thế. Việc thấy cái cây quả thật liên quan tới sự phản ánh ánh sáng từ một đối tượng ngoại tại qua thần kinh thị giác trong dạng dao động mà bằng cách nào đó chuyển thành hình ảnh trong ý thức của tôi. Khi tôi nói tôi thấy cái cây, tôi thật sự muốn nói răèng tôi nhận biết cái phản ánh hoặc cái biểu hiện của cái cây ấy.
Với người quan sát bình thường, Locke giả định rằng có một đối tượng ngoại tại là nguồn của cái trải nghiệm được gọi là tri thức, đang truyền đạt thông tin tới một cái gì đó có thể gọi là tâm trí. Nhưng ông thấy rằng giữa đối tượng ngoại tại và tâm trí nhất thiết phải xen vào một ý tưởng mà ta có thể xem là hình ảnh của đối tượng ấy. Do đó, tri thức không liên quan trực tiếp tới vạn vật mà là tới các hình ảnh của vạn vật.
Khi tôi nói rằng tôi thấy cái cây, và nếu cái được tôi nói đến đó là một đối tượng ngoại tại, chân lý của lời phát biểu ấy đặt cơ sở trên thực tế rằng hình ảnh ấy quả thật là cái biểu hiện của cái cây. Như thế, chỉ có thể kiến lập chân lý của lời phát biểu ấy bằng cách so sánh ý tưởng với cái cây.
Chân lý thì tuyệt đối
Thuyết này thườøng được gọi là thuyết tính biểu hiện (representative theory) hay thuyết tính tương ứng (correspondence theory) của chân lý. Nó giả định rằng chân lý có tính tuyệt đối theo ý nghĩa có thể lập thành những lời phát biểu đúng về các đối tượng hoàn toàn độc lập với sở thích hoặc thị hiếu của cá nhân đưa ra lời khẳng định ấy, và rằng nếu có người nào khác đối diện chung một đối tượng ấy, người ấy cũng sẽ lập thành lời phát biểu về nó giống như của tôi.
Như thế, những lời phát biểu về đối tượng ấy có sự viện dẫn công khai (public reference), và do đó, chỉ là sự lập thành một lời phát biểu duy nhất và thật sư đúng. Chân lý của những lời phát biểu về các đối tượng trong kinh nghiệm thì hoàn toàn độc lập với mọi phúc lợi mà tri thức có thể tạo ra cho loài người. Lời phát biểu hoặc đúng hoặc sai, và không gì có thể quyết định vấn đề đúng hay sai ấy ngoại trừ sự viện dẫn công khai. Chân lý thì tuyệt đối.
Ðối tượng hiện hữu từ trước
Thuyết này giả định rằng vì các đối tượng ngoại tại hiện hữu ở đó trước khi xảy ra hành động biết cho nên toàn bộ tri thức đều là tri thức về các đối tượng hiện hữu từ trước. Nó cũng giả định rằng tâm trí thụ động trong khoảnh khắc trải nghiệm ấy, vì chính khách thể, chứ không phải chủ thể, quyết định nội dung chính xác của tri thức. Hoạt động ở phía chủ thể, nếu có, hẳn sẽ làm méo mó bằng chứng và dẫn tới sai lạc.
Quả thật ở phía các cá nhân, người ta luôn luôn kỳ vọng có hoạt động nào đó, thí dụ chú ý, nhưng trong khoa học, yếu tố cá nhân có thể bị sớm làm cho mất tác dụng bằng các kỹ thuật thích đáng. Do đó, có khả năng đi tới sự chắc chắn trong tri thức bằng việc đưa toàn bộ thẩm quyền cho đối tượng ngoại tại và lưu tâm tới những méo mó lệch lạc do bởi những dị biệt cá nhân.
Chỉ là đức tin thôi
Nan giải chính yếu là sự can thiệp của các ý tưởng. Nếu tri thức là tri thức về ý tưởng chứ không thật sự về vạn vật, thì sự viện dẫn ngoại tại ấy hoặc bất khả thi hoặc không thiết yếu. Nếu chúng ta chỉ biết các ý tưởng mà thôi, lúc đó lời quả quyết về sự hiện hữu của các đối tượng là vấn đề đức tin, và chỉ thế thôi.
Muốn cho những lời phát biểu về đối tượng ngoại tại có giá trị, phải giả định quan hệ nhân quả có giá trị. Một khi đã giả định rằng vì có ý tưởng nên phải có nguyên nhân của ý tưởng, thì ta thấy các đối tượng ngoại tại đều có thể đáp ứng đòi hỏi ấy, theo ý nghĩa "có lửa mới có khói". Rủi thay, như Hume đã chứng minh, trong chủ nghĩa thực nghiệm không có biện minh nào cho sự xác nhận quan điểm này về quan hệ nhân quả, vì ta không thể nào nhận thức mối quan hệ ấy và như thế, phải buông bỏ luận cứ liên quan tới đối tượng ngoại tại.
Lựa chọn độc nhất là lập trường của Berkeley. Triết gia giám mục ấy cho rằng tri thức chỉ liên quan tới các ý tưởng, và như thế, cấu trúc vững chắc về thế giới ngoại tại rõ ràng là bị sụp đổ, biến thành *hiện tượng chủ nghĩa (phenomenalism) của thuyết duy tâm chủ quan (subjective idealism).
2. Chủ nghĩa duy thực hiện đại
Chống duy tâm chủ quan
Không người *duy thực chủ nghĩa hiện đại (modern realism) nào chấp nhận lập trường của chủ nghĩa duy thực ấu trỉ (naive realism), vì các triết gia đã đồng thuận một cách tổng quát rằng không ai có thể phản biện các luận cứ chống lại nó.
Chủ nghĩa duy thực hiện đại là một phản bác sự giả định rằng chủ nghĩa duy tâm chủ quan là chọn lựa độc nhất. Theo người duy thực chủ nghĩa, chủ nghĩa duy tâm chủ quan làm cho người ta không thể nào hiểu chức năng và thành quả của khoa học, và giảm thiểu thế giới thành các giới hạn của chỉ một mình ý thức. Không người nào có thể nghiêm chỉnh chấp nhận một kết luận như thế. Tuy thế, như Hume đã vạch rõ rằng ta không thể bác bỏ các luận cứ của Berkeley nhưng cũng không thể nào tin nổi chúng.
Chủ nghĩa duy thực hiện đại xác nhận tính chất ngoại tại và độc lập của đối tượng ngoại tại. Nó lập luận rằng tri thức sẽ vô nghĩa nếu không được hiểu như là tri thức về các đối tượng ngoại tại. Ta vẫn còn tìm thấy tiêu chuẩn của chân lý bằng sự viện dẫn công khai. Mọi khẳng định có ý nghĩa đều có thể bị kiểm tra trong liên quan tới các đối tượng được chúng quả quyết. Như thế, ta có thể nói rằng chủ nghĩa duy thực hiện đại chấp nhận học thuyết có chân lý tuyệt đối.
Thêm hai chủ nghĩa duy thực
Vào lúc bắt đầu thế kỷ 20 vừa qua, có nhiều triết gia tìm cách thoát khỏi các giới hạn bị chủ nghĩa duy tâm khống chế. Họ đề ra hai chương trình tổng quát để làm khuôn mẫu, đó là chủ nghĩa tân duy thực (neo-realism) và chủ nghĩa duy thực phê phán (critical realism).
Thoạt đầu, cả hai thuyết đó chủ yếu chỉ là sự phân làm hai nhánh từ chủ nghĩa duy thực. Nhưng rồi chẳng bao lâu sau, càng ngày càng rõ ràng rằng vấn đề kiến lập thực tại của đối tượng ngoại tại và quyết định các tiêu chuẩn thích đáng của chân lý không là chuyện dễ làm. Ðồng thời, xuất hiện các dị biệt giữa những người từng bắt đầu với mối quan tâm chung và bằng một cương lĩnh chung.
Chủ nghĩa duy thực vẫn còn là khái niệm có tính đại chúng nhất nhưng hiện nay, có quá nhiều phiên bản tới độ không thể trình bày một cách thích đáng về chúng trong khuôn khổ cuốn sách đại cương này.
Ý tưởng và viện dẫn
Cuộc thảo luận phần lớn xoay quanh ý nghĩa của nhận thức với niềm hy vọng vứt bỏ từ ngữ "ý tưởng" đang gây bối rối, đồng thời phục hồi sự viện dẫn trực tiếp đối tượng, hoặc ít ra, cung cấp cho từ ngữ "ý tưởng" một ý nghĩa nào khác để có thể khẳng định cao độ khả năng thực sự hiện hữu các đối tượng ngoại tại, những khách thể chịu trách nhiệm về ý tưởng của chủ thể.
Một số tác giả, thí dụ các nhà *duy vật biện chứng chủ nghĩa (dialectic materialism), dường như giả định rằng chỉ cần (ắt có) lời tuyên bố đơn giản về sự hiện hữu của một đối tượng ngoại tại là đủ để thiết lập nó, nhưng hầu hết người duy thực hiện đại tin rằng ở đây quả thật có vấn đề, và họ còn tin rằng triết học đòi hỏi tiên quyết phải có giải pháp nào đó cho vấn đề ấy.
3. Nan giải trong thuyết tính tương ứng
Phê phán thuyết tính tương ứng
Chúng ta có thể thấy một số vấn đề mà chủ nghĩa duy thực phải đối mặt, bằng cách phát biểu các luận cứ chính chống lại thuyết tính tương ứng của chân lý trong hình thức cổ truyền của nó.
Nếu chân lý mang tính tương ứng của một ý tưởng đối với một phẩm tính ngoại tại hay đối tượng ngoại tại, thì không bao giờ có thể tìm thấy chân lý vì ta không cách gì có thể so sánh ý tưởng với cái gì đó không phải là ý tưởng. Không thể đối chiếu ý tưởng của tôi về cái cây với cái cây thật sự, vì không cách gì tôi có thể giao tiếp thẳng với cái cây ấy. Nói một cách nghịch lý hơn, tôi không thể nào nhận thức một đối tượng khi nó không đang được nhận thức.
Làm sao biết chắc chắn
Người ta chấp nhận một cách tổng quát sự kiện rằng đôi khi con người là đối tượng của các ảo giác, của các ý tưởng dường như biểu hiện một đối tượng ngoại tại trong khi thực tế đối tượng ấy không đang là như thế. Tôi thấy một cây sào cắm thuyền bên bờ sông Hương, có một đoạn dài nhú lên khỏi mặt nước, ngó như thể nó cong. Dù tôi tin rằng nó không cong, và tôi hoàn toàn có lý do cụ thể để tin như thế. Trong sa mạc, người khát thường bị đánh lừa bởi ảo tượng hứa hẹn một ốc đảo có nước mát, mà thật sự ở đó chẳng có ốc đảo nào cả.
Nếu có những ý tưởng chắc chắn không thể biểu hiện các đối tượng ngoại tại, thì vấn đề quyết định cái nào biểu hiện cái nào không là cả một chuyện thật sự nan giải. Kiểm chứng độc nhất về tính chính xác của một ý tưởng có thể là khả năng dự báo. Một ý tưởng biểu hiện cho các hệ quả nhất định; nếu các hệ quả ấy xuất hiện, thì ta có thể nói ý tưởng ấy đã được xác minh.
Tuy nhiên, rõ ràng rằng các hệ quả ấy cũng chỉ hiện hữu trong các giới hạn của ý thức; chúng không tự thiết lập được sự hiện hữu của đối tượng ngoại tại cho dẫu chúng làm cho đối tượng ấy có khả năng hiện hữu.
Làm sao chứng minh
Chủ nghĩa duy thực tin rằng những chứng minh thích đáng của khoa học đều dựa trên giả định về một thế giới ngoại tại và công khai. Ðây là lý do khiến cho ta không thể tin nổi thuyết duy tâm chủ quan. Tuy nhiên, nếu thông tin về thế giới ngoại tại chỉ được truyền đạt qua giác quan mà thôi, thì có vấn đề chứng minh lời tuyên bố có tính khoa học về việc khám phá những tương quan giữa các biến cố.
Trong thực tế, chưa từng có ai nhận thức không gian và thời gian, quan hệ nhân quả hoặc sự tự do của con người. Ta không thể chứng minh bất cứ lời tuyên bố nào về các ý tưởng ấy là đúng, vì không thể thiết lập chúng bằng sự viện dẫn công khai nào.
Có một minh họa có lẽ thích hợp hơn nữa, đó là ngôn ngữ toán học. Có một số các ý tưởng trừu tượng và các ký hiệu thiết yếu cho môn học ấy cho dù ta có căng óc tưởng tượng ra tới mấy đi nữa cũng không thể xem chúng là những phần hợp thành một thế giới ngoại tại và độc lập. Nếu toán học sở hữu chân lý – có một ít người nghi ngờ chuyện đó – thì ở đó phải có một ý nghĩa về chân lý khác với chân lý của viện dẫn sự kiện ngoại tại nào đó hoặc so sánh với sự kiện ấy.
Vấn đề mở
Thuyết tính tương ứng dường như không chống chế nổi các phản bác vừa kể. Do đó, người duy thực chủ nghĩa hiện đại đang nỗ lực giải quyết ba vấn đề:
1. Trình bày giá trị của sự viện dẫn ngoại tại;
2. Khảo sát các điều kiện của nhận thức; và
3. Cho thấy làm thế nào có thể thiết lập các ý tưởng trừu tượng và các tương quan.
Phải còn lâu lắm mới giải quyết được ba vấn đề ấy, nhưng đang có sự đồng thuận rằng nếu giải quyết xong, lập trường ấy sẽ thể hiện một khái niệm về chân lý đáng tán dương nhất và thích hợp nhất cho việc am hiểu khoa học thuần lý thuyết (theoretical science).
Xem tiếp phần 2.