Gặp nấm mộ người cùng quê ở Tây Nguyên
Chị tháng bày tôi tháng mười
sinh cùng năm, cũng gốc người Nam Sang
rừng cao su lá ngập vàng
mảnh bia mờ chữ chân nhang nhạt màu
tha hương thân phận như nhau
đá lăn khỏi núi quả cau rã buồng
đời người như chỉ treo chuông
biết rằng dài ngắn tròn vuông thế nào
quê nhà thóc kém gạo cao
người lên Mèo Vạc kẻ vào Đắc Nông
đành rằng ruộng hẹp người đông
thiếu đâu dăm thước đất đồng chị ơi !
ngổn ngang vải nát ván thôi
nước dâng nửa huyệt, cát bồi lưng bia
người thân đã đón chị về?
gạch Châu Sơn, đá Kiện Khê lập “nhà”
gò cao dứa ngộ trắng hoa
đất nâu ấm cốt phù sa mát hồn
đêm rằm trăng sáng đường thôn
lúa đồng ngậy sữa bưởi vườn toả hương
lang bang đã đủ chín phương
mảnh áo dẫu ấm bát cơm dù đầy
mình như thuyền mộc thương cây
rồi ra cũng nhẩm tính ngày về quê…
Phương Nam, 1998
Mả tù
Một đàn gọng vó chèo đò
dăm con nhái bén thập thò miệng hang
đầu thừa đuôi thẹo nghĩa trang
rào thưa nẻo tắt dọc ngang trâu bò
thanh minh còn thấy xanh ngô
mưa ngâu tháng bảy nhấp nhô nổi chìm
mộ phần chẳng thấy tuổi tên
dăm ba chữ số vạch trên ván thùng
hỏi “sao đắp chỉ lưng lưng
rằng “nông choèn tiểu đất chừng ấy thôi
“trẻ già, trai, gái, ngược, xuôi ?
“đã nằm góc ấy chỉ người trại giam !
cỏ khâu ngoi nước úa tàn
kiếp người còn lại nhân gian chút này
chết rồi hết nợ sạch vay
nhúm xương tù tội biết ngày nào tha !
sống thành nhân chết làm ma
ngậm ngùi kiếp nạn xót sa phận người
hương hoa - bẹ chuối thả trôi
biết rằng còn được luân hồi nữa chăng…
Nghĩa trang Phủ Lý, 2001