Ngoài vườn gió thổi nhẹ, những cành lá va đập vào nhau tạo thành thứ âm thanh kỳ quái, nghe như tiếng bước chân của thần Chết ì ạch kéo cỗ quan tài trên đường đi về địa phủ từ nơi xa dội lại.
Trong phòng, bên ngọn đèn dầu lạc, nàng đang ngồi thêu cạnh chiếc bàn gỗ, bóng nàng nghiêng nghiêng in lên tường. Bất giác nàng rùng mình, cảm thấy ớn lạnh, nhưng đôi tay nàng vẫn thoăn thoắt.
Nàng đưa mắt nhìn con, đứa nhỏ vẫn chưa ngủ, ngồi im lặng nãy giờ trên giường, có vẻ như hậm hực một điều gì đó.
- Mẹ sẽ kể tiếp cho con nghe chuyện ông thần Gió, nếu con muốn.
Đứa bé phụng phịu:
- Con không chịu đâu!
- Vậy con muốn gì ?
Đứa bé nhìn cái bóng của nàng in trên tường:
- Con muốn biết, tại sao cha không nói gì với mẹ con mình lời nào?
- Đã rất nhiều lần mẹ nói với con, cha đợi khi nào con lớn, sẽ nói chuyện với con!
- Con lớn rồi mà!
Nàng mỉm cười, đứng dậy bước đến bên con, nhưng đứa nhỏ xua tay phản đối:
- Đó! Mẹ làm sao để ba lại bỏ đi mất rồi!
Nàng chợt hiểu, khi nàng bước đến giường, thì ngọn đèn ở phía trước, nên cái bóng của nàng biến mất. Nàng nằm xuống và ôm chặt con vào lòng:
- Con ngủ đi! Cha cũng còn phải đi ngủ chứ!
- Thế bao giờ cha mới trở lại với mẹ con mình?
Nàng mỉm cười:
- Tối mai!
Đứa nhỏ lăn ra ngủ, không biết có kịp nghe câu trả lời của nàng không. Nàng nhìn con, một cái gì nghèn nghẹn ở cổ họng. Nó giống chàng quá, nhất là nụ cười của nó trong lúc đang ngủ. Nàng hôn nhẹ lên trán con. Nàng cũng muốn ngủ, nhưng mắt nàng vẫn ráo hoảnh.
Thời gian biết bao đổi thay. Nàng nhớ, khi chàng lên đường, nàng đang mang thai, mà bây giờ con nàng đã tấp tểnh biết nói, mẹ chồng nàng không chịu đựng nổi nhớ thương con đã qua đời... Đêm nào nàng cũng thao thức trăn trở với những kỷ niệm và những khát thèm thầm kín. Nàng càng cố chống chỏi, càng cố quên đi, thì những xao động, cháy bỏng trong quá khứ càng như bị đánh thức, sống dậy trên da thịt, trong ký ức nàng. Đối với nàng, những ngày xa cách chồng đã trở nên quá dài, mà đêm lại còn dài hơn. Nàng thực sự cảm thấy căm ghét chiến tranh, thù hận chiến tranh. Chiến tranh không chỉ cướp mất biết bao sinh mạng và tài sản, mà chiến tranh còn mang đến bao nhiêu nước mắt đau thương chồng chất. Chiến tranh đã đẩy nàng vào một hoàn cảnh bi đát. Nàng sống và phải đối diện thường xuyên với cái bóng của chính mình. Con trai nàng mới chỉ hơn hai tuổi, đâu có làm gì nên tội, nhưng nó đã không có cha, phải nhận cái bóng làm cha. Nàng thấy nàng có lỗi vì đã nói dối con, nhưng thật tình nàng đâu muốn nói dối. Chiến tranh đã bắt nàng nói dối. Nàng không biết một ngày nào đó khi con nàng tự nó khám phá ra cái bóng thực chất chỉ là ảo tưởng thì tình thế sẽ ra sao? Con nàng sẽ lớn lên như thế nào và nó suy nghĩ gì về sự dối trá của nàng? Nàng thực sự không dám nghĩ đến. Thôi thì mặc kệ, đến đâu thì đến, tất cả đều ngoài tầm với của nàng.
Nàng ngủ thiếp đi từ lúc nào không biết. Trong giấc mơ, nàng thấy chồng nàng mình trần, tay cầm thanh kiếm sắt cỡi con ngựa hồng băng qua vùng biển lửa. Nàng muốn chạy theo chàng mà đôi chân như bị ai đó níu giữ lại, nàng muốn cất tiếng gọi chàng mà miệng ú ớ không thốt ra được thành lời. Nàng cảm thấy chới với, hụt hẫng trong cõi hư vô chưa từng chạm tới.
*
Đêm. Trên sông Luộc. Đại quân của Chế Bồng Nga đuổi theo mấy chục chiếc thuyền của tướng quân Phạm Khả Vĩnh, bọn chúng gần lọt hết vào trận địa thì đoàn quân Việt đang chạy, bỗng dừng lại, quay mũi thuyền chặn đường.
Nhận được pháo lệnh, đoàn thuyền của chàng từ con sông đào vượt nhanh, cắt đôi đoàn thuyền của Chế Bồng Nga. Trái tim chàng bùng sôi lên, chàng muốn lao nhanh ra phía trước, hăm hở, náo nức hơn bao giờ hết. Chàng muốn thanh kiếm của chàng vung đến đâu thì xác giặc ngã đến đấy. Chàng ý thức rất rõ, chàng có bổn phận phải bảo vệ quê hương, bảo vệ đồng bào mình, và những người đang cùng chiến đấu với chàng. Nhưng ngay phút giây đó, bỗng trong đầu chàng hiện lên hình ảnh trận đánh đầu tiên sau khi chàng bị gọi sung quân. Hình như nó vẫn luôn theo đuổi, ám ảnh trí óc chàng mãi đến tận hôm nay.
Lần đó cũng vào ban đêm, khi đội quân của chàng được lệnh rút lui vì thế giặc quá mạnh, chàng đang lưỡng lự, bỗng bên cạnh chàng, có tiếng thét vang lên. Chàng quay lại chợt nhận ra một cảnh tượng kinh hoàng: người bạn đồng ngũ với chàng và một tên Chiêm cùng ngã xuống, thân họ dán chặt vào nhau. Chiếc đao quăn của tên Chiêm cắm sâu vào ngực bạn chàng, và mũi kiếm của bạn chàng cũng đã đâm thốc vào ngực kẻ địch. Chàng cúi xuống, cố gỡ hai thân xác ra khỏi nhau với hy vọng cứu sống bạn, nhưng cả hai đã chết, khuôn mặt của họ đều rất trẻ. Đôi mắt của họ mở lớn, tưởng chừng như chưa hết ngạc nhiên. Chàng có cảm giác như họ thực sự không biết chuyện gì đã xảy ra với họ, dù trước đó chỉ mấy phút cả hai đã đâm bổ vào nhau.
Chàng nhớ, sáng hôm đó người bạn trẻ đồng ngũ với chàng, sau bữa ăn tập thể, còn cầm lấy đôi đũa đánh lên mặt nồi đồng làm trống, hồn nhiên làm trò cho cả bọn chàng cười bò. Còn người lính Chiêm, không biết sáng hôm đó hắn đã làm gì, chắc cũng vui đùa với đồng đội như bạn chàng. Thế mà cả hai giờ chỉ còn là một đống thịt mềm nhũn, tê lạnh.
Chàng sững người với hình ảnh của quá khứ. Chàng cảm thấy đầu đau nhói, như có ai đâm vào những mũi tên sắc và nhọn. Chàng ôm lấy đầu thở dốc. Đây không phải lần đầu tiên chàng rơi vào tâm trạng đau đớn và lạc lõng đến độ trống vắng đó. Chàng nhớ đến mẹ chàng, đến vợ chàng và đứa con mà chàng cũng chưa biết là trai hay gái. Những hình ảnh và kỷ niệm về họ như dòng thác lũ chảy nhanh qua trong ký ức chàng, rất rõ nét. Chàng băn khoăn không biết bây giờ những người thân của chàng đang làm gì? Họ có còn nhớ chàng hay đã quên mất sự có mặt của chàng trên cuộc đời ? Chàng cảm thấy sợ hãi khi nghĩ đến phút giây chàng ngã xuống. Chàng sợ mất họ vĩnh viễn.
Nhưng những âm thanh và sự cuồng nộ chung quanh đã kéo chàng trở lại với thực tại. Trước mắt chàng có hơn mấy trăm chiến thuyền Chiêm và Việt quần nhau trên một khúc sông dài. Chàng không còn kịp suy nghĩ nữa, có lẽ những người khác cũng như chàng, tất cả lao vào trong cơn say máu . Chung quanh chàng là một biển người, tiếng va chạm của vũ khí, tiếng khóc la, rên siết, những xác người ngã xuống, và vô tình máu nhuộm đỏ cả một khúc sông.
Bất ngờ, ở phía Nam có hàng trăm tiếng nổ của hỏa pháo, rồi tiếng reo hò của quân Việt vang lên, dội lại một góc trời. Quân Chiêm rung động, rối loạn hàng ngũ. Chàng mệt mỏi ngừng tay, ngước nhìn về phía tiếng reo hò. Chàng cũng không nhớ những giây phút vừa qua mình đã làm gì, thanh kiếm của chàng đã đốn ngã bao nhiêu kẻ địch, chàng không biết và gần như chàng quên mất tất cả mọi khái niệm. Chàng đứng lặng yên như một pho tượng giữa trời đêm.
Đột nhiên chàng hốt hoảng quay ngoắt lại, vung kiếm lên. Chàng có cảm giác như thanh đao của kẻ địch từ sau lưng chàng đang nhắm tới. Nhưng rất nhanh, chàng kịp nhận ra chàng đang loay hoay chống đỡ với cái bóng của chính mình, loang loáng trên mặt nước.
Bỗng có tiếng vọng lại :
- Chế Bồng Nga đã bị giết ! Quân ta toàn thắng !
Chàng tỉnh lại, cúi người nhìn xuống. Khuôn mặt chàng phản chiếu chập chờn trên mặt sông gợn sóng, nhưng chàng không nhận ra được đó là chàng hay ai khác. Nó hoàn toàn xa lạ với chính chàng.
*
Nàng đang ngồi thêu ở hàng hiên. Cả tuần nay, nàng có ý định thêu chiếc gối cho chồng. Nàng đang băn khoăn không biết làm cách nào có thể gửi được cho chàng. Nghe nói tình hình chiến sự ngày càng khốc liệt, sinh mạng của người lính xông pha ngoài chiến trận khó mà bảo đảm được. Nhưng nàng vẫn muốn có một cái gì để gửi cho chàng, hay ít ra nàng cũng muốn chứng tỏ với chính mình, tất cả tâm hồn nàng đang hoàn toàn thuộc về chàng. Điều đó còn giúp nàng khẳng định niềm tin của nàng: chàng vẫn còn sống và sẽ trở về. Dù niềm tin hay đúng hơn niềm mơ ước đó đã có khi lung lay, làm nàng chao đảo, sợ hãi.
Nàng nhìn ra ngoài cửa sổ. Tự nhiên mặt nàng nóng bừng khi nhìn thấy trên cành cây đôi chim nhỏ đang âu yếm nhau một cách thật tự nhiên, không che đậy, không giấu giếm. Nàng nhớ rất rõ đêm hôm trước tiễn chàng lên đường, khi mọi người đã ra về, chỉ còn lại hai vợ chồng nàng trong phòng.
Chàng đưa tay khẽ vuốt những sợi tóc lòa xòa trên trán nàng, dặn dò:
- Sáng mai ta lên đường, không biết sống chết thế nào, nhưng quyết trở về với nàng cho trọn nghĩa vợ chồng. Khi ta vắng nhà, nàng thay ta phụng dưỡng mẹ già và nuôi con khôn lớn!
Giọng nàng thật nhẹ và hơi thở ngọt ngào:
- Ở nhà thiếp sẽ cố gắng chu toàn để chàng an tâm lo việc nước. Ngoài biên ải việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường, chỉ xin chàng có được ngày về!
Thật tự nhiên đôi tay chàng vòng qua bụng nàng, cơ thể tràn đầy sức sống của nàng như mềm ra khi chàng xoay người nàng lại và đôi môi gắn chặt môi nàng. Nàng không còn tự chủ được nữa, đầu ngả ra sau, và nồng nhiệt chẳng kém.
Bỗng có tiếng chạy thình thịch, rồi một đứa tớ gái mặt mày hớt hãi xuất hiện trước cửa. Nàng giật mình quay lại:
- Chuyện gì vậy?
Giọng đứa tớ gái thấp xuống:
- Ở ngoài chợ người ta bàn tán tin Thượng tướng Trần Khát Chân đã đánh thắng quân Chiêm, chặt đầu Chế Bồng Nga đem dâng Thái thượng hoàng!
Nàng bật người đứng dậy :
- Vậy ư? Thật là chuyện đáng vui mừng!
Mắt nàng ánh lên niềm hy vọng:
- Có lẽ chàng đang trên đường trở về!
*
Dưới ánh nắng của trời chiều, hai bên đường, đồng lúa xanh uốn mình theo từng cơn gió nhẹ. Cảnh vật yên ắng, nhưng không che giấu được cái vẻ tiêu điều còn sót lại sau nhiều năm chiến tranh.
Khi ngựa chàng về đến đầu ngõ thì chàng đã nhìn thấy vợ chàng đang bồng con đứng đợi. Càng đến gần, hình ảnh nàng càng rõ hơ. Nhưng tại sao không có mặt mẹ chàng, lòng chàng đầy hoài nghi. Chàng thúc ngựa phóng nhanh và chàng nhảy xuống, bước tới.
Vợ chàng đang bồng con, nước mắt ứa ra khi chàng ôm chặt lấy nàng trong cánh tay rắn chắc của chàng. Nàng gục lên vai chàng và cứ để mặc cho nước mắt tuôn trào. Chàng nâng đầu nàng lên, mỉm cười nhìn thẳng vào đôi mắt đẹp và long lanh của nàng:
- Ta đã vĩnh viễn về đây với nàng và con mà!
Nàng nhìn vào khuôn mặt đầy phong sương của chàng, rồi đưa hai bàn tay chậm rãi mân mê lên má chàng như không dám tin vào sự thật!
Bỗng chàng nhớ ra:
- Mẹ đâu không thấy?
Nàng ngước lên, giọng đau khổ:
- Mẹ đã mỏi mòn đợi chàng về, nhưng sức già không chịu nổi, mẹ đã rời bỏ chúng ta.
Chàng cố đè nén nỗi đau trong lòng mình.
Nàng hiểu được tâm trạng của chàng. Nàng trao đứa con cho chàng. Chàng trao thanh gươm cho vợ, rồi đón lấy đứa con trong tay vợ ôm chặt vào lòng.
Từ nãy đến giờ, đứa con chưa lên tiếng, nó vẫn cứ im lặng. Nói đúng hơn, nó đang bỡ ngỡ quan sát thái độ của người đàn ông xa lạ, lần đầu tiên nó gặp và đang ôm nó.
Chàng quay lại nói với vợ:
- Nàng vào nhà chuẩn bị cơm nước, ta cũng đói rồi. Ta muốn đưa con ra thăm mộ của mẹ!
- Vâng, chàng có thể đi dọc theo mương nầy ra vườn sau, rồi rẽ trái!
- Nàng yên tâm, ta biết đường đi tới đó!
Vợ chàng nhìn theo hai cha con khuất sau hàng cây, lòng ngập tràn hạnh phúc. Nàng quay bước trở vào nhà, hối hả chuẩn bị bữa ăn tối.
*
Chàng ôm con đi ra vườn sau. Nhảy qua khỏi vũng nước , chàng lên tiếng hỏi con:
- Con có thương bà nội không ?
- Dạ có! Nhưng bà nội không thương con!
Chàng mỉm cười nhìn con, hơi ngạc nhiên trước câu nói ngây ngô của con:
- Tại sao con nói bà nội không thương con?
- Vì bà nội đi thăm ai đó đã lâu không chịu về với con!
Khi đến trước mộ mẹ, chàng đặt con xuống, rồi quỳ xuống nghiêm cẩn lạy:
- Mẹ tha lỗi cho con. Con đã không về kịp để gặp lại mẹ!
Đứa con chợt nhiên lên tiếng hỏi:
- Nhưng ông là ai mà kêu bà nội con là mẹ?
Chàng quay lại xoa má con mỉm cười:
- Ta là cha con, con không biết sao? Mà con không biết cũng phải vì từ ngày con sinh ra đâu lần nào thấy mặt ta. Ta ra đi khi con còn đang trong bụng mẹ!
Đứa trẻ lắc đầu:
- Ông đừng nói dối con, ông không phải là cha con!
Chàng giật mình, nắm chặt vai đứa con:
- Con nói sao, ta không phải là cha con, vậy ai là cha của con?
- Cha của con không giống ông. Cha con chỉ đến với mẹ và con vào ban đêm!
Chàng tái mặt hỏi lại:
- Chỉ đến vào ban đêm?
- Phải ! Chỉ vào ban đêm, và không hề nói gì cả. Hễ mẹ đi đâu thì cha đi theo đó. Cha cũng chưa bao giờ bồng con trên tay.
Chàng cắn chặt hai hàm răng để khỏi hét lên thành tiếng. Người vợ mà bao nhiêu năm qua chàng tin tưởng là người nết na đức hạnh, một lòng chung thủy với chàng. Người vợ mà không phút giây nào chàng không nhớ tưởng, nhất là những giây phút vào sinh ra tử. Không ngờ nàng đã lén lút phản bội chàng, nhưng vẻ ngoài vẫn cứ như đôn hậu thuần khiết. Trời đất như muốn sụp đổ. Chàng thầm nghĩ, phải chi chàng được chết giữa chiến trường để khỏi phải hứng nhận vết chém trí mạng này. Có lẽ như thế tâm hồn chàng sẽ thanh thản, nhẹ nhàng hơn. Chàng cảm thấy nỗi phẫn hận ngùn ngụt cháy bừng lên, nước mắt chàng ràn rụa.
Ngay trong phút giây đó, chàng thấy đau nhói ở đầu, đầu óc chàng choáng váng quay cuồng với hình ảnh những trận chiến khốc liệt chồng chéo liên tục hiện ra, những đôi mắt sợ hãi mở to, những thân xác ngã xuống, những máu và máu. . .
Đứa con nhìn chàng sợ hãi thụt lùi:
- Ông làm sao vậy ? Con sợ. Cho con vào với mẹ đi!
Chàng chợt tỉnh:
- À, không có gì !
Chàng vội vã kéo tay đứa con về nhà.
Khi bước chân vào nhà, vợ chàng mừng rỡ chạy lại nắm tay chàng. Chàng muốn kiềm chế, nhưng đầu chàng lại trở nên đau nhói, không sao kiềm chế được, chàng lạnh nhạt hất tay nàng ra. Chàng thấy khuôn mặt nàng trơ trẽn, giả dối làm sao.
Nàng mở tròn đôi mắt nhìn chàng ngạc nhiên, bối rối:
- Chuyện gì vậy hả chàng ?
Chàng giận dữ nhìn thẳng vào đôi mắt của vợ:
- Tại sao nàng dối gạt ta ?
Vợ chàng như sững người lại:
- Thiếp dối gạt chàng như thế nào? Ai đã nói với chàng ?
- Nàng không cần biết ai đã nói với ta. Nàng hãy tự vấn lương tâm mình!
Nàng quỳ sụp xuống, nước mắt tuôn trào:
- Sao chàng lại không tin lòng chung thủy của thiếp ? Chàng nỡ nào đổ oan cho thiếp !
- Nàng đã là một kẻ phản bội, lừa dối chồng chưa đủ sao mà còn dám vu cho ta tội đổ oan cho nàng?
- Có trời đất chứng giám. Nếu thiếp có lòng phản bội chàng thì trời tru đất diệt.
- Thôi nàng đừng thề thốt vô ích. Ta tuyệt đối không tin bất cứ điều gì từ cửa miệng nàng nói ra. Hãy đi ngay cho khuất mắt ta.
Nàng ngước lên nhìn chồng. Dưới chân đất như sụp lở, nàng biết có cố gắng giải thích thêm cũng vô ích. Nàng hoàn toàn tuyệt vọng, những năm tháng chờ đợi, thủy chung giờ này chẳng còn có ý nghĩa gì. Bất ngờ, nàng bậm môi vụt đứng dậy, chạy nhanh vào phòng như một cơn lốc.
Đứa nhỏ khóc thét lên và chạy theo nàng:
- Mẹ! Mẹ đợi con với!
Sau khi nàng vào bên trong, chỉ nghe một tiếng sầm, cánh cửa phòng đóng chặt lại.
Ở nhà ngoài, chàng vẫn ngồi nơi ghế, hai tay nâng nguyên cả bình rượu tu ừng ực, đổ vung rãi ra ngoài. Đứa con nhỏ vẫn liên tục kêu khóc và gọi mẹ.
Một mình trong phòng, nàng mở tủ, lục tung lên. Cuối cùng, nàng tìm thấy khuôn vải trắng để tang cho mẹ chồng còn sót lại. Ánh mắt nàng thật cương quyết. Nàng ném khuôn vải lên thanh gỗ ngang trần nhà, rồi đặt ghế đứng lên, ngửa mặt lên trời than:
- Kẻ hồng nhan này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều trái oan kết buộc, tiếng chịu nhơ nhuốc chẳng dám lên tiếng trách ai. Xin thần linh chứng giám cho lòng trong trắng, thủy chung của thiếp.
Nói dứt câu, nàng đưa cổ vào thòng lọng, rồi dùng đôi chân hất ghế khỏi chỗ đứng. Một tiếng động, nghe như một vật nặng từ trên cao rơi xuống, một chút giẫy dụa rồi im hẳn.
Ở trước cửa phòng, đứa con nhỏ vẫn tiếp tục gào khóc. Tiếng khóc làm chàng giật mình nhận ra trời đã tối, người giúp việc đã mang ngọn đèn dầu lạc đặt lên bàn, bên cạnh chàng từ bao giờ.
Chàng quay lại nhìn con. Chàng giật mình, một ý nghĩ thoáng qua rất nhanh trong đầu. Chàng cầm ngay lấy ngọn đèn đến trước cửa phòng đập cửa:
- Mở cửa!
Bên trong vẫn không có tiếng trả lời, đứa bé càng gào to :
- Mẹ. Mẹ ơi !
Chàng lại gõ cửa một lần nữa. Vẫn không có tiếng đáp lại. Chàng hối hả tống mạnh cánh cửa bước vào. Đứa bé vẫn dò dẫm theo chân.
Chàng bỗng giật mình lùi lại, trước mắt chàng là thân xác nàng đang treo lủng lẳng.
Và ngay lúc ấy, đứa con kêu lên:
- Cha con đã đến rồi kìa!
Chàng ngạc nhiên hỏi dồn :
- Đâu ?
Đứa bé đưa tay chỉ cái bóng của vợ chàng in trên tường. Chàng chợt hiểu ra tất cả mọi chuyện. Không kịp đặt cái đèn xuống, chàng đứng lên mở dây, đỡ lấy thân xác nàng. Nhưng mọi việc đều đã quá muộn. Chàng ôm ghì lấy xác vợ khóc nấc lên, đứa con cũng nhào tới. Chàng đưa tay kéo con về phía mình, mắt len lén nhìn lên tường như muốn tìm kiếm cái bóng. Nhưng cái bóng của vợ chàng đã không còn nữa, chỉ có cái bóng của hai cha con chàng hắt lên nền trắng của tường vôi đã úa đi bởi thời gian. Chàng quay lại nhìn sững khuôn mặt vợ, bất giác vùng dậy, một tay nắm lấy thanh kiếm , một tay cầm bó đuốc chạy ra vườn, đến trước mộ mẹ. Chàng máng bó đuốc lên thân cây gần đó, rồi cúi xuống dùng kiếm đào một lỗ sâu, đặt thanh kiếm xuống rồi lấy hai tay lấp đất lên.
Đứa bé ướt đẫm nước mắt hớt hải chạy theo cha, ngạc nhiên cất tiếng hỏi:
- Sao ông…à cha lại chôn kiếm ?
Chàng cúi xuống nắm lấy đôi bàn tay con:
- Cha mong con sẽ vĩnh viễn không phải dùng đến nó./.
25.8.2001