“Thủ Khoa Huân ta nhắn về phương Bắc
Đừng ngông cuồng mưu nhổ vảy rồng Nam”
Khẩu hiệu ấy đã hoà cùng hàng hàng lớp lớp học sinh Vĩnh Long xuống đường phản đối Trung Quốc xâm lược Hoàng Sa vào những ngày tháng Giêng năm 1974. Hình ảnh ấy đến nay tôi không bao giờ quên được.
Sáng nay, đọc xong lời phân bua của một ông Tổng biên tập, tôi thấy ông trơ tráo đến lạ thường,
Xin chép lại vài bài thơ mà tôi đã được học để thay lời muốn nói.
“Tôi kể ngày xưa chuyện Mỹ Châu
Trái tim lầm chỗ để trên đầu
Nỏ thần vô ý trao tay giặc
Nên nỗi cơ đồ đắm bể sâu.”
(Tố Hữu)
“Tò te kèn thổi tiếng năm ba,
Nghe lọt vào tai, dạ xót xa.
Uốn khúc sông rồng mù mịt khói,
Vắng hoe thành phụng ủ sầu hoa
Tan nhà cám nỗi câu ly hận,
Cắt đất thương thay cuộc giảng hòa
Gió bụi đời cơn xiêu ngã cỏ,
Ngậm cười hết nói nỗi quan ta”.
(Phan Văn Trị)
“Vòng trời đất dọc ngang ngang dọc
Nợ tang bồng vay trả, trả vay
Chí làm trai nam bắc đông tây,
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể
Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh
Đã chắc ai rằng nhục rằng vinh
Mấy kẻ biết anh hùng thời vị ngộ
Cũng có lúc mây tuôn sóng vỗ,
Quyết ra tay buồm lái trận cuồng phong
Chí những toan xẻ núi lấp sông
Làm nên đấng anh hùng đâu đấy tỏ
Đường mây rộng thênh thênh cử bộ,
Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo,
Thảnh thơi thơ túi rượu bầu”.
(Nguyễn Công Trứ)
“Cay đắng do từ một sách kinh
Bốn năm quạnh quẽ cảnh đao binh
Bông tung gió: vỡ tan sông núi
Gió đập bèo: chìm nổi kiếp mình
Ghềnh Sợ Hãi kể niềm sợ hãi
Biển Lênh Đênh than nỗi lênh đênh
Xưa nay hỏi có ai không chết
Hãy để lòng son chiếu sử xanh”
(Văn Thiên Trường)
“Anh hùng sáu tỉnh thiếu chi đây
Đâu để giang sơn đến thế này.
Ngọn lửa Tam Tần phừng đất cháy,
Chòm mây Ngũ quý lấp trời bay.
Hùm nương non rậm đang chờ thuở,
Cáo loạn vườn hoang thác có ngày.
Một góc cảm thương dân nước lửa,
Đền Nam trụ cả há lung lay”.
(Bùi Hữu Nghĩa)
“Dù đui mà giữ đạo nhà
Còn hơn có mắt ông cha không thờ
Dù đui mà khỏi danh nhơ
Còn hơn có mắt ăn dơ tanh rình”.
(Nguyễn Đình Chiểu)