Một người can đảm chọn cái chết để không mắc tội với vua và quyết không thể trở thành tội nhân của lịch sử và nhân dân. Đó là trường hợp của Trần Bích San, một danh sĩ triều Tự Đức.
Trần Bích San hiệu Mai Nham sinh năm 1840, người làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Năm 1864, ông đỗ giải nguyên. Năm 1865, thi đậu hội nguyên và đình nguyên nên được người đời xưng tụng là "Tam nguyên Vị Xuyên". Trần Bích San là một người tài giỏi, được người đời sánh ngang hàng với Vương Tăng, một danh sĩ đời Tống ở Trung Hoa. Ông được vua Tự Đức trọng dụng, đổi tên là Trần Hy Tăng. Trần Bích San từng được bổ nhiệm làm tuần phủ Hà Nội. Năm 1870, giữ chức lễ bộ sự vụ, được cử đi sứ sang Trung Quốc lo việc mở thương cục. Là một sĩ phu yêu nước, ông ủng hộ những người chống Pháp, kịch liệt phê phán những người bảo hòa, đầu hàng giặc để một phần đất nước rơi vào tay giặc Pháp xâm lược. Tháng 6 năm Đinh Mão (1867), Pháp chiếm 3 tỉnh miền tây Nam Kỳ, với nỗi lòng của một người yêu nước, Trần Bích San đã làm bài thơ "Văn Dương nhân bức thủ Vĩnh, An Hà tam tỉnh":
Nam trung bất khả đạo
Di lỗ tối tung hoành
Trực quát tam châu địa
Hà lao nhất thốn binh
Linh Châu thành dĩ một
Tống cảnh hộ thùy quynh
Lư kỹ do năng sính
Sài tâm thả nhật sinh
Chí nhân hoài đế đức
Thần vũ vọng thiên thanh
Thử địa đa hào kiệt
Du du cố quốc tình.
(Nam trung thôi hết nói
Giặc dữ rất tung hoành
Thẳng chiếm đất ba tỉnh
Không nhọc sức một binh
Thành Linh Châu đã mất
Cửa nước Tống ai canh?
Khôn lừa càng đua mạnh
Lòng sói lại nảy sinh
Nhớ ơn vua nhân hậu
Mong tiếng trời uy linh
Đất ấy lắm hào kiệt
Tình cố quốc mông mênh.
(Bản dịch của Chu Thiên)
Trước tình cảnh Pháp xâm chiếm đất nước ta, Trần Bích San đã viết bài thơ "Hải đào" với lòng căm thù sâu sắc:
Hoàng đường thu dạ tịch
Ngọa thính hải đào minh
Quỷ quốc do vi ngạnh
Ba tâm tự bất bình
(Phủ đường đêm thu lặng
Nằm nghe sóng bể gầm
Bọn quỷ còn ngang ngạnh
Lòng sóng cũng hờn căm)
(Bản dịch của Phùng Uông)
Trần Bích San là người có tư tưởng tiến bộ, muốn tiến hành cải cách nước ta về mọi mặt. Ông đã đề nghị triều đình sửa đổi việc đào tạo, tuyển chọn, sử dụng nhân tài, tăng cường củng cố xây dựng quân sự, mở mang công nghiệp, mở các cửa biển để thông thương mua bán với các nước, đưa học sinh du học ở nước ngoài. Trong bài "Thiên thời bất như địa lợi, địa lợi bất như nhân hòa luận", Trần Bích San đã nhấn mạnh đến vai trò của con người trong việc xây dựng đất nước và trong chiến tranh bảo vệ đất nước. Ông còn tha thiết đề nghị sửa đổi việc triều chính. Tiếc rằng, vua Tự Đức và một số quan lại bảo thủ đã bỏ ngoài tai những ý kiến quý báu, cực kỳ quan trọng của ông cũng như của những sĩ phu tiến bộ thời bấy giờ. Năm 1877, vua Tự Đức cử Trần Bích San dẫn đầu phái đoàn sang Pháp để tiếp tục nghị hòa và thương lượng về vấn đề Nam Kỳ. Đến thời điểm này, Nam Kỳ đã bị Pháp xâm chiếm được 10 năm. Một số nơi ở miền Trung và miền Bắc, quân Pháp tiếp tục gây hấn và chiếm đóng. Thế mà Tự Đức và triều đình còn "mù mờ", nói chuyện nghị hòa với Pháp, lại chọn một người có tư tưởng tiến bộ, chống Pháp đi đàm phán. Thật là trớ trêu! Từ năm 1862, rồi đến năm 1867, Phan Thanh Giản đã dẫn đầu phái đoàn nghị hòa với Pháp. Kết cuộc Nam Kỳ rơi vào tay Pháp. Đại học sĩ Phan Thanh Giản phải uống thuốc độc tự tử. Phan Thanh Giản còn bị triều đình cách bỏ chức tước, đục xóa tên ở bia Tiến sĩ. Bài học Phan Thanh Giản đã để lại cho đời nhiều đánh giá khác nhau (có lúc, bị xem như một tội nhân của dân tộc và lịch sử).
Ngay sau khi được triều đình cử dẫn đầu phái đoàn đi Pháp để đàm phán, Trần Bích San đã có ngay một sự lựa chọn. Với kẻ sĩ, không nhận nhiệm vụ là chống lại mệnh vua, là bất trung, vâng mệnh vua, đi nghị hòa với giặc, chưa chắc đã thành công. Với một người có tư tưởng chống Pháp, đứng trước bối cảnh lịch sử, trước cán cân lực lượng của ta và địch, trước sự nhu nhược bảo thủ của triều đình, theo Trần Bích San, nghị hòa là bán nước, đầu hàng giặc Pháp, sẽ trở thành tội nhân của dân tộc, đất nước và lịch sử đến muôn đời sau. Thế là sau khi vào triều trở về nhà được 1 ngày, Trần Bích San uống thuốc độc tự tử để phản đối chủ trương nghị hòa của triều đình, thể hiện chí hướng của mình. Ông đã lấy cái chết để thức tỉnh người đang sống. Trước khi tự tử, Trần Bích San đã viết bài thơ tuyệt mệnh, nói lên chí hướng và nỗi lòng của mình đối với tình cảnh của đất nước:
Tự sủy tài sơ xỉ vị cường
Tây sà kim hựu phiếm trùng dương
Cực tri sơn hải ân tình trọng
Na quản đông tây đạo lộ trường
Vạn lý Thiết thành thông dị vực
Thập niên Ngưu chử ức luân cương
Hoàng hoa tương mệnh tri hà bổ
Lại hữu gia du xuất miếu đường.
(Tự xét tài sơ tuổi chửa bao
Sứ Tây nay lại vượt ba đào
Ơn trên non biển còn mang nặng
Nẻo thẳm đông tây có sá nào
Muôn dặm Thiết thành non nước lạ
Mười năm Bến Nghé đắm chìm đau
Biết mình đi sứ, làm chi được
Trông cậy triều đình có chước cao.)
(Bản dịch của Phùng Uông)
Trần Bích San đã để lại cho đời các tác phẩm chính: Thanh tâm tài nhân quốc âm thi, Nhân sự kim giám, Mai Nham thi thảo, Gia huấn ca...
Phạm Văn Nghị, một danh sĩ triều Nguyễn đã làm thơ khóc Trần Bích San:
Tài ngộ như kim hữu kỉ nhân
Điều canh trực nghĩ Tống danh thành
Nhất tâm đoạn thiết duy ưu quốc
Vạn lí phù sà cảm ái thân
Sinh dã hữu nhai tùy tạo hóa
Tử nan minh mục trọng quần thần
Hoàn danh hoàn cuộc ninh tu thuyết
Tráng ngã sơn hà khí vị nhân.
(Tài ngộ xưa nay được mấy ai ?
So cùng tướng Tống kém chi người
Một lòng son sắt luôn lo nuớc
Muôn dặm bè khơi dám tiếc đời
Sống chỉ có chừng, quyền tạo hóa
Chết khôn nhắm mắt, nghĩa vua tôi
Vẹn danh, tròn cuộc không cần nói
Khí mạnh non sông chửa chút vơi.)
(Bản dịch của Nguyễn Q. Thắng – Nguyễn Bá Thế)
Sau này, khi có dịp đi qua Vị Xuyên, quê hương của Trần Bích San, danh tướng Tôn Thất Thuyết, người cầm đầu phong trào Cần Vương, đã làm câu đối viếng Trần Bích San, ca ngợi và thương tiếc một con người tài hoa, trung hiếu của đất nước:
Lân quân độc thủ cô thành, quốc trung thần, gia hiếu tử
Sử ngã kinh qua thử địa, giang bán dạ, nguyệt trung thu
(Thương ông riêng tấm lòng thành, con hiếu của nhà, tôi trung của nước
Khiến tôi qua nơi đất cũ, dòng sông đêm vắng, vầng nguyệt giữa thu.)
(Bản dịch của Hoàng Tạo)
Tài liệu tham khảo & trích dẫn:
- Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim (1999)
- Vương triều cuối cùng của Phạm Minh Thảo (2007)
- Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam của Nguyễn Q. Thắng – Nguyễn Bá Thế (1999)
- Thơ văn yêu nước của NXB Văn học (1970)