(Trích Trường ca Chiến tranh-Chín khúc tưởng niệm, Nhà Xuất bản Văn Học, 10/2009)
khúc thứ Tư
TIẾNG NÓI VIỆT NAM
I
Học tiếng cành cây rơi
âm thanh chùm quả rụng
nước chảy
mây bay
vượn hót
chim gù
tiếng sóng thét gào biển bão
rừng tre cọt kẹt võng đưa…
đời trước dạy đời sau
động tác ở tay chân
âm thanh từ miệng
tiếng nói lời chào thay hú hét
cha mẹ dạy con
trai gái tỏ tình…
khác nhau nóng lạnh khác nhau nắng mưa
thảo nguyên bao la bình nguyên bát ngát
đất đai dị biệt khí hậu bất đồng
tiếng nói con người mỗi nơi mỗi khác
không hiểu lời nói
thay bằng nhựa cây sỏi màu gạch đỏ than đen
- em thương anh
- anh yêu em
vẽ hình cá chép vẽ hình chim công
nói bằng da thịt …
lời nói nơi này bổng trầm thơ nhạc
nơi kia lanh chanh líu ríu như chim
có lời êm nhẹ sương rơi lá rụng
có câu nặng trịch sỏi lặn cát chìm
sáo diều chín ống đàn đá sáu thanh
giọng nói mẹ ta có thơ có nhạc
thương giận sáu cung
buồn vui sáu bậc :
sông
dài
nước
lặng
mảng
gỗ (ghi chú: tương ứng 6 dấu trong tiếng Việt)
lênh đênh
tiếng hạc lưng trời từng giọt trong veo
trầm ấm mõ vầu
giòn sênh
nẩy phách
được lời cởi dạ miệng nói mắt cười
dỗi hờn chì chiết quang đứt mẹt trôi…
bà ngồi nhai trầu
tay đưa võng gai miệng kể ngày xưa
mẹ ta đánh khẽ giơ cao
la mắng chỉ ví von
răn dạy toàn ca dao tục ngữ :
ương như ổi xanh
nghịch như quỉ sứ
chớ ăn thùng bất chi thình
một điều nhịn là chín điều lành
vụng may sao bằng khéo vá
II
Hàng triệu trang giáo trình, hình ảnh…
Hà Nội
in tại Cục Tác chiến
Sài Gòn
soạn thảo ở Bộ Tổng tham mưu
chỉ dẫn cặn kẽ
doanh trại ở đâu
nơi nào có kho bom đạn
lô cốt mấy ngăn
rào gai mấy lớp…
phải rải thảm cánh rừng ấy bằng B.52
hủy diệt khu đồi ấy bằng trọng pháo…
chữ viết hoa
ngang dọc
thẳng hàng
đều tăm tắp như đội quân danh dự
số đen chì than
chữ xanh mực nước
bay bướm
sắc sảo
ngang tàng
viết từ bàn tay tài hoa
của những người có học
từng tu nghiệp ở Mỹ ở Nga
không ít người trong họ thực sự có tài
tất cả
viết bằng chữ Việt !
những tư lệnh chính ủy quân giải phóng
quân phục gabacđin cỏ úa Tô Châu
tướng lĩnh Sài Gòn
bận đồ trận kaki xanh dương Tếchdát
chụm đầu bàn định những kế hoạch tuyệt mật
dưới hầm sâu
cách nhau vài trăm bước chân
cũng có thể cả ngàn cây số
chiến tranh
bên nào cũng muốn chiếm giữ nhiều đất
giành giật nhiều dân
nhưng mục tiêu tối cao ý đồ tối thượng
- tiêu diệt thật nhiều “địch quân”
chiến tích càng lẫy lừng
nếu bên đối phương có thật nhiều binh lính sĩ quan bị giết !
tất cả
nói bằng tiếng Việt !
những người lính dù, biệt động
đội mũ bêrê mặc đồ trận rằn ri
dàn quân xông lên đồi
vừa bắn vừa la
- mồ tổ tụi bây
- hạ súng đầu hàng hay chịu chết !…
chiến sĩ giải phóng
tiểu liên AK gắn lê nhọn hoắt
lựu đạn xếp chồng trước mặt
mấy cậu lính trẻ văng tục
- mả mẹ chúng mày
rồi hạ quyết tâm
- còn một người vẫn còn trận địa !
lời qua tiếng lại
đe dọa
thách thức
tiếng Bắc
giọng Nam
tiếng nặng tiếng thanh …
tất cả
nói bằng tiếng Việt!
đạn AR.15 bắn gần khoan vào trán găm giữa ngực
những người lính đội mũ tai bèo đổ gục
như măng vầu gãy ngang
mía non bật gốc
lời cuối cùng lọt qua cặp môi hết máu
- mẹ…ơi !…
tốp lính Sài Gòn lò dò đặt chân lên sườn đồi
hứng trọn những loạt AK. vào đầu vào ngực
chìm trong quầng lửa mìn cờlâymo chói mắt
la hét hoảng loạn
- Trời Phật ơi !
- em ơi !
- các con ơi !
những tiếng la lạc giọng lịm dần
trong ồ ồ máu xối
chú lính truyền tin còng lưng cõng máy bộ đàm
khuôn mặt non choèn mới hết tuổi trẻ con ?
ruột sổ lòng thòng kéo lê trên sỏi đá
chỉ còn đủ thời gian thốt một lời
- má !…
tất cả mọi người
nói bằng tiếng Việt !
những người dân nghèo trồng lúa trên khắp cù lao
sông Tiền sông Hậu
đốt than đước rừng ngập mặn U Minh
nuôi tôm sú ở Năm Căn
chở thuê dưa hấu Gò Công
bán mì gõ ngang cầu Ông Lãnh …
có người nhà bị bắt đi quân dịch
vô lính cộng hoà
làm dân vệ bảo an
đêm đêm vàng mã đèn nhang
mùng một ngày rằm hoa trái lên chùa
van vái cầu xin cho chồng con được giải ngũ
có dính đạn bom cũng chỉ “sơ sơ chút đỉnh ”
những người đàn bà thợ dệt Nhà máy
Mùng tám tháng Ba
những công nhân seo giấy tập dưới chân núi Đáp Cầu
chẻ gỗ làm diêm Thống Nhất bên bờ sông Đuống
đội than ngoài Uông Bí Cửa Ông
cày cấy trên những cánh đồng năm tấn
Lý Nhân Tiền Hải
có chồng con ngoài mặt trận
sớm mai ngủ dậy chỉnh tề áo khăn
một lời không nói
nửa miếng chưa ăn
chắp tay khấn vái cầu xin Trời Phật Tổ tiên
phù hộ độ trì người thân thoát mũi tên hòn đạn…
tất cả mọi người
nói bằng tiếng Việt !
tiếng Việt Nam tiếng mẹ tôi
Nguyễn Du viết Kiều
Đoàn Thị Điểm dịch Chinh phụ ngâm
Cao Văn Lầu soạn Dạ cổ hoài lang
người Huế hát Nam ai Nam bằng
Phú Thọ
trống quân hát ghẹo hát xoan
liền chị liền anh Bắc Ninh mời trầu giã bạn…
tiếng Việt
Xuân Quỳnh Lưu Quang Vũ làm thơ viết kịch
những đêm trăng Thanh Tước
rừng bia mộ long lanh sương đọng
vẳng trong gió não lòng
khắc khoải ngẹn ngào
xót đau day dứt
“Người Đàn Bà Hát”
hát
Nỗi nhớ mùa đông
chữ Việt thời chúng tôi sống
én bay ngược gió
cá lội ngược sông
tiếng Việt thời chúng ta sống
hoạ mi hót trong bão giông…
khúc thứ Bảy
CHẾT TRẺ
Không được gì nữa
không mất gì nữa
không cần gì nữa
không sợ gì nữa
Người Chết nói thật
hãy tin lời Người Chết !
Linh hồn
I
Những đứa trẻ nhà quê
tóc thả trái đào
áo nâu quần cộc
ra đường cái quan túm vạt áo cha
lớn ngộc còn nhay ti mẹ
mẹ đi cấy sớm mẹ về chợ khuya lại bú tí bà
vú bầu vú mướp đã lâu không còn mùi sữa
chúng tôi ra đời từ những vùng quê heo hút
Na Hang Xích Thổ Bá Thước Con Cuông
mười mấy tuổi lên tỉnh xem ô tô
ham chơi đáo thích đánh khăng chọi cù
quanh quẩn đồng làng chăn trâu cắt cỏ
sớm học cách làm chồng làm vợ
bắt cá dựng nhà
mùng ba tết được cha dạy bói chân gà
tháng sáu học ông nội xem rễ si búp đa
tính mưa đoán nắng
ngày tết chơi súng diêm pháo đất
vào lính
lần đầu tập bắn đạn thật
giật mình nghe tiếng nổ xé tai
được mặc quần mới áo lành
ngày ăn những ba lần
nằm ngủ trong màn đắp chăn thay chiếu
những chú lính nhà quê ra trận vụng về ngờ nghệch
phía quân địch
lính cũng ngơ ngơ ngác ngác y hệt chúng tôi
trai quê Tháp Mười Bù Đăng Kinh Xáng…
cùng trang lứa
mười bảy mười chín hai mươi
bộ đội nghĩa vụ quân sự
chọi nhau với lính quân dịch cộng hoà
như chia hai phe đá bóng trên cánh đồng mới gặt
cầu thủ con nhà nghèo
nghiệp dư chân đất
nhiều đứa lần đầu ra “sân”
vụng về lóng ngóng
những trận đánh dằng dai
mùa Khô sang mùa Mưa
không dễ phân thắng bại
có khi may mắn
tàn trận lưới hai bên vẫn “ sạch ”
nhiều khi lưới mỗi bên thủng mấy trăm lần
mỗi bàn thắng - thua
một thằng trai gục ngã
lực lượng chênh lệch càng sớm phân định thắng thua
máu quân lính hai bên ít đổ
đáng sợ là những cuộc chiến dằng dai cân sức cân tài
không bên nào “ nhường điểm
sứt đầu mẻ tai
cáng nhau dìu nhau vào chấm mười một mét
có một bên thua
cả năm trái ra ngoài
chỉ cần một lần bóng bật xà lăn qua vạch cầu môn
- một bên toàn thắng !…
không ai từ cõi sinh chìm vào cõi tử
dễ như người lính
nhanh như người lính
nhiều như người lính
đương nhiên
mặc nhiên
tất nhiên
hồn nhiên như lính
từ nòng súng người lính bên kia sang trái tim
người lính bên này
đạn bay chỉ mấy phần nghìn giây
quả DKB rời ống phóng
nổ tung trong căn hầm bên trại giặc chen chúc người
chỉ trong nháy mắt
chết nhanh đến nỗi nhiều người không hay không biết
như đứt dây điện
bóng đèn phụt tắt
như trứng quạ từ nóc tháp chuông
rơi xuống sân nhà nguyện
mảnh ngói mái chùa Diên Hựu văng xuống
mặt nước ao sen
thân thể tử sĩ khoẻ mạnh căng đầy
sạch sẽ thơm tho hồng hào
có người to cao
ngồn ngộn thịt múi da săn
ván thiên tuột đinh
nắp quan tài bật
có người máu chảy cạn
thân thể như quả bóng lỗ chỗ mũi đinh
lép xẹp cá kình khô
lùng nhùng tấm chăn lính màu rêu
huyệt nông choèn
vun mãi vẫn không đầy mộ
ngày nào ta chăn trâu bờ đê chơi bịt mắt trốn tìm
anh ẩn vào bụi cây
nấp sau mô đất
tìm không thấy
mắt em đỏ hoe
môi em méo xệch
tiếng gọi ngẹn ngào
tìm thấy anh
em mừng hú
hơn cả tìm thấy trâu bò đi lạc
chùm bom khoan rơi trúng dãy nhà hầm
nửa trung đội chết trong lúc ngủ
tìm các anh từ sáng đến chiều
thâu đêm suốt sáng
kẻ dọc vạch ngang bới từng hòn cuội
sàng đất
sảy cát
lay cây rung cành
chặn dòng suối
tát bùn
lọc nước
mười mấy mạng người
thịt xương gom chưa đầy mảnh võng
táng một huyệt chưa đầy
đủ mộ
nỡ nào chia !
sớm muộn trước sau
những người lính cũng sẽ trở về
trên những toa tàu
xe lăn nạng gỗ
riêng chúng tôi
khuất chìm trong hư vô không ai nhìn rõ
chúng tôi sống bình thường rồi chết
chưa xấu
cũng chưa kịp tốt
không thành ma qủy
chẳng hoá thánh thần
không phải xuống Địa ngục
cóc được lên Thiên đường
tụ tán trên tàn cây ngọn cỏ
ẩn trong giọt sương
tiêu dao trên sóng
trở về nơi mẹ cha sinh hạ
nuôi ta thành người
vạt rừng hoang sơ
cánh đồng phóng khoáng
trở về với cánh diều cuối cùng
cánh võng đầu tiên
ngược chiều những đoàn quân
vẫn hăm hở rùng rùng ra trận
người chết bay ra người sống đi vào
gặp em trai ngủ ngồi trong công sự
bạn chăn bò ôm súng nhai trệu trạo lương khô
có người sống những thời khắc cuối cùng
đang lặng lẽ bước vào cõi chết
chỉ người cõi Âm chúng tôi mới biết
mẹ hét lạc giọng
kinh hoàng nhìn ta tóc rối xoã vai
thân hình trong veo xanh lè như lá
cha gặp con trai trong cơn mộng mị
đàn ông ít nói
ta ngồi ôm chân giường
khóc thầm
lặng lẽ bay đi…
người trong làng ngoài phố nửa tin nửa nghi
thấy lảng vảng trong sương
nghe lào thào trong gió
thoắt gần thoắt xa
khi khóc lúc cười
gặp con trong mơ
cha mẹ vừa mừng vừa sợ
trâu già nhận ra cậu chủ chăn dắt bao năm
gõ sừng dậm chân
cổ nghẹn cỏ rơm
cặp mắt chén tống rưng rưng nước đục
khôn ngoan nghĩa tình chó Mực
rên ư ử, gừ gừ trong họng
cụp tai sợ hãi
ve vẩy đuôi mừng
không nhảy lên ngoạm tay liếm mặt
cũng chẳng nỡ nhí nhách cắn ma
chúng tôi vô hình vô ảnh
bay ngang bàn thờ, ngồi trên nóc tủ
“véo” xôi gấc mẹ đồ
“bẻ” phẩm oản nếp chiêm chị đóng
“nhón” thịt vịt cha đơm
ngồi bông bênh trên khói bốc lên lúc em gái ghế cơm
bay lượn quanh nhà
nấp sau cánh hoa lan hoa huệ
khiến đốm lửa đầu nén nhang cháy bùng
di ảnh trên bàn thờ mắt long lanh ướt
chúng tôi trở về
lượn lờ ở cổng đình
rụt rè quanh đền miếu
ma làng
nguời cùng xóm chết già
tổ tiên nội ngoại
chỉ loáng thoáng mấy người chết trẻ
đón tiếp ma mới chúng tôi mười chín hai mươi
chia rượu ngô vài hơi
thuốc lào dăm điếu
nghe nói sau khi chết người ta thành gió
không hướng không chiều
nghe nói chết rồi người ta thành cỏ
cỏ mọc lan man cỏ bám vật vờ
nghe nói chết đi con người thành bụi
bụi bay lang thang bụi cuốn bơ vơ…
vừa mới hóa thân từ kiếp người
bụi lơ lửng trên cao
sắp được đầu thai làm người
những hạt bụi bay là ngọn cỏ
ơi những hạt bụi tiền nhân tiền kiếp
những hạt bụi luân hồi sắp được đầu thai
đang là bố là mẹ
là vợ là chồng
lại hoá gió lang thang
cỏ xanh bụi hồng
không còn yêu thương không còn giận dữ
tiếc nuối người đi
đau lòng người ở
nhưng nếu còn được làm bụi làm cỏ
cái chết với ta cũng nhẹ đôi phần
ừ thì chết
nhưng không hủy diệt
dẫu là mất
cũng không mất hết !
thực hư nào hay
đi trên cỏ chợt thấy run chân
hạt Bụi - Ai cay xót mắt mình
người thợ chẳng vô tình
đời trước dạy đời sau
để lại khe hở cho gió lọt trên mái nhà
vào ra quanh khung cửa…
nuối tiếc
xót đau
linh hồn thét gào thành giông thành gió
Xương cốt
Mỗi năm chúng tôi chỉ được về quê quán một lần
trong Lễ Xá tội vong nhân Rằm tháng Bẩy
trước gà gáy canh ba
linh hồn phải rời nhà mẹ cha
trở lại với cây với đá
nơi ấy
mồ hoang
mới thực nhà mình
xương cốt ở đâu linh hồn về đó
mộ phần thất lạc linh hồn lang thang…
xương cốt chúng tôi
khỉ đầu đàn bọc lá thờ ở góc hang
lẫn vào cát chìm trong suối
hóa ụ kiến vàng, gò mối
huyệt khoét bằng lưỡi xẻng cá nhân nhỏ tựa bàn tay
tấm võng làm vải liệm
mảnh nilông buộc túm thay quan tài
mấy chục năm trời
rễ cây rừng hoang tham lam hút kiệt
trăm người chết tìm thấy vài huyệt mộ
lẫn giữa đất đỏ của rừng có chút đất xám mùn đen
lẽ nào đó lại là tất cả những gì còn lại
của anh ta
em ta
bạn ta
đồng môn
đồng tuế !
trận địa năm xưa lại lút giữa đại ngàn
rễ cỏ tranh xuyên vào hốc mắt
đá đè vỡ xương đầu dập nát xương chân
cây che phủ nắng không lọt tới
đồng đội chôn vội chúng tôi giữa hai trận đánh
không vải liệm không hòm ván
quân giặc vây chặt cánh rừng
đạn xuyên trước mặt pháo cày sau lưng
những Nghĩa - Địa - Hoang chìm lấp dưới rừng
đồng đội ngày ấy về đâu ở đâu
nhiều người đã già lắm người đã chết
rừng cây đổi dạng núi đá thay hình
mồ hoang đã lâu không còn dấu vết…
những người khiêng cáng thương binh bệnh binh
trúng đạn chết dần trên đường về hậu cứ
người sốt ác tính sống lâu hơn người khoẻ !
nằm mươi ngày nửa tháng trên võng vải đòn tre
cái chết đến không vội vàng
hiền lành
dịu nhẹ
khẽ khàng
chết nhiều khi không hiểu tại sao
chảy hết máu hay vì đói khát
chết mà không biết chết lúc nào
cây rừng lớn thêm dâng võng lên cao
thịt rữa nát
võng dù bền chắc
võng rung cùng cây võng chao theo gió
xương đen
nắng nỏ
cốt trắng
gội mưa…
Saigon, 2008