Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.858 tác phẩm
2.760 tác giả
1.182
123.148.241
 
Đất Nam Kỳ - Tiền đề văn hóa mở đạo Cao Đài (Tiếp theo)
Huệ Khải

5. Cá tính người Nam Kỳ

Một hạt giống gieo trên đất màu mỡ sẽ lớn lên nhanh và tươi tốt hơn khi nó được trồng ở đất cằn. Một cây kiểng thúc ép trong chậu gốm nhỏ sẽ bị gò bó hơn nhiều so với một cây trồng thẳng xuống đất vườn với phân nước đầy đủ. Một vùng đất với thổ nghi đặc trưng thường cho một sản vật ngon ngọt đặc trưng. Không phải vô lý mà từ lâu đời dân gian đã thừa nhận giá trị những đặc sản địa phương như: bưởi Biên Hòa, cam Cái Bè, sầu riêng Cái Mơn, xoài cát Hòa Lộc, măng cụt Lái Thiêu... Con người cũng thế. Cá tính con người không thể không chịu sự chi phối của môi trường thiên nhiên, của vùng đất người đó sinh sống. Do đó, khi nói đến cá tính Nam Kỳ thì cũng cần hiểu qua về thiên nhiên Nam Kỳ.

Đất Nam Kỳ: một thiên nhiên khắc nghiệt

Nam Kỳ là đất mới của Tổ quốc. Khi còn là đất hoang, chưa được khai phá, thiên nhiên Nam Kỳ cực kỳ khắc nghiệt. Huỳnh Lứa viết: “Nam Bộ [Nam Kỳ] là một vùng đất có môi trường thiên nhiên rất phong phú và đa dạng, vừa có nhiều thuận lợi, nhưng cũng không ít khó khăn đối với cuộc sống con người”(62).

Nhiều thế hệ lưu dân đã nối tiếp nhau tìm đến Nam Kỳ khai khẩn rừng hoang, cải tạo các trũng thấp sình lầy để trồng cấy và sinh sống. Công cuộc khai thác khu vực này phát khởi từ thời Chúa Nguyễn (thế kỷ XVII). Trong quá trình mở đất mở nước ở phương Nam, các lưu dân phải liên tục chống chọi với các loài thú dữ, cá sấu, muỗi mòng, rắn rết và sơn lam chướng khí, bệnh tật. Năm 1753, Nguyễn Cư Trinh (1716-1767) đặt chân đến Nam Kỳ sau khi miền đất này đã có hơn một trăm năm được khai phá, thế mà ông còn phải buồn bã ghi nhận rằng: Tàn hà đái thấp, chiết liễu triêm nê (Sen tàn hơi ẩm thấp, khí hậu độc địa, nhánh cây bần gãy rụng xuống bùn).

Sang thế kỷ XIX, sau hai trăm năm đã được lưu dân khai phá, thiên nhiên Nam Kỳ vẫn còn làm cho thực dân Pháp kinh sợ. Theo Sơn Nam, khi mới cướp được Nam Kỳ, thực dân Pháp rất bi quan, nhận định rằng không thể nào định cư ở đây được. Họ sợ muỗi mòng rắn rết, sợ nắng chói chang oi bức và những cơn mưa sấm chớp liên hồi (63).

Thiên nhiên khắc nghiệt đó góp phần hình thành cá tính người Nam Kỳ ra sao? Huỳnh Lứa trả lời: “... môi trường thiên nhiên Nam Bộ [Nam Kỳ] với những đặc điểm riêng biệt của nó, cũng đã để lại nhiều dấu ấn sâu đậm trong đời sống văn hóa vật chất và tinh thần cũng như trong việc hình thành tính cách của con người sinh sống ở đây”(64).

Những đặc trưng của lưu dân ở Nam Kỳ qua nhiều đời đã dần dần kết tụ thành cá tính Nam Kỳ; cá tính này bộc lộ rất mạnh vào nửa cuối thế kỷ XIX, mà theo Hồ Lê, đó là “tính cách năng động, ít thủ cựu, dám tiếp cận cái mới”(65).

Cá tính người Nam Kỳ: khái quát một số đặc trưng

Có thể khái quát cá tính Nam Kỳ là: Cởi mở trong giao lưu, nhạy bén với cái mới, năng động. Dân chủ, bình đẳng. Nhân nghĩa, bao dung, nhưng rạch ròi và quyết liệt. Thiết thực, giản dị, không chị gò bó trong những khuôn khổ cứng ngắc.

a. Tính cởi mở, phóng khoáng

Nói về cá tính Nam Kỳ, Sơn Nam viết: “Nét lớn trong tính cách người đi khẩn hoang vẫn là chuộng sự phóng khoáng...”(66).

Thạch Phương viết: “Dừng chân trên vùng đất mới, cộng đồng lưu dân - thông qua giao lưu và sáng tạo - dần dần vươn tới một tầm nhìn, một cách nghĩ khóang đạt và năng động hơn. Hiện thực bày ra trước mắt người nông dân rộng mở hơn. Tầm mắt không còn bị lũy tre làng và bờ đê che chắn nữa”(67).

Đinh Văn Hạnh giải thích: “Nơi đất mới rộng rãi con người không cần sự bon chen như ở nơi đất hẹp người đông. Họ sống rộng rãi, cởi mở và hào hiệp hơn. Sự gò bó, cứng ngắc, hẹp hòi được họ cởi bỏ lại đằng sau [trên đường Nam tiến] để sáng tạo ra một phong cách sống tự do, phóng khóang hơn...”(68).

Nguyễn Văn Xuân viết: “Cái lợi lớn nhất của miền Nam là được thu nhận một nền giáo dục Khổng Mạnh như miền Trung, song ít khắt khe hơn mà đồng thời, nhờ sinh hoạt xa triều đình, lại ở vào khu vực cây ngọt, trái lành, vườn rộng, đồng xanh thênh thang nên tình cảm cũng nảy nở, phong phú hơn nhiều lắm”(69), “... nhân tâm còn chất phác, hình như càng về miền cực Nam chừng nào lại càng chất phác chừng ấy...”(70), “... miền Nam không đứng yên một chỗ mà luôn luôn di động. Dân chúng cứ phải phiêu lưu, phiêu lưu mãi, nhưng phiêu lưu để đạt được đời sống càng ngày càng phong phú hơn. Một đặc điểm đáng chú ý là các chúa cũng như quan lại, được sinh ra và lớn lên ở một miền đất mới, chỉ thấy có hoạt động và hoạt động nên rất ít thành kiến”(71).

b. Tính dân chủ, bình đẳng

Thạch Phương viết: “Càng đi về phương Nam, chất phong kiến nhạt dần, thay vào đó là tinh thần dân chủ, bình đẳng thể hiện ngay trong đời sống cộng đồng thôn xã cũng như trong đời thường của mỗi gia đình”(72).

Làng Nam Kỳ là làng khai phá, nên có ba hệ quả: 1. Không có sự phân biệt giữa dân chính cư và dân ngụ cư như ở Bắc Kỳ; 2. Mối quan hệ dòng họ không cố kết chặt chẽ vì không có được quan hệ huyết thống “ba họ chín đời” như ở Bắc Kỳ; 3. Con người liên kết với nhau do nghĩa tình gắn bó, và đó cũng là cội nguồn sâu xa của tính dân chủ, bình đẳng trong cá tính người Nam Kỳ (73).

Có lẽ tính dân chủ bình đẳng đó đã khiến người dân Nam Kỳ gặp ở Cao Đài một sự hòa điệu. Bởi vì trong Cao Đài, mọi người đối với nhau là anh em, thậm chí chư tiên thánh thần cũng gọi tín đồ là hiền đệ, hiền muội.

c. Tính hiếu khách, lòng bao dung, nhân ái

Một tác giả cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX là Trịnh Hoài Đức khi viết về phong tục ở Nam Kỳ (Gia Định thành thông chí, Phong tục chí) ghi nhận rằng: “Có khách đến nhà, đầu tiên gia chủ dâng trầu cau, sau đó dâng cơm bánh, tiếp đãi trọng hậu không kể người thân sơ, quen lạ, tông tích ở đâu ắt đều thâu nạp khoản đãi...”(74). Cho đến giữa thế kỷ XX, nhiều nơi ở miền Nam vẫn còn giữ tập quán để lu nước mát và cái gáo trước hiên nhà, mà nhà không có hàng rào, hoặc có thì khách bộ hành vẫn có thể dễ dàng đẩy cánh cổng khép sơ sài, và cứ tự nhiên múc nước uống giải khát, đỡ cơn nắng trưa.

Sơn Nam giải thích: “Nơi hẻo lánh, khách tha phương lập nghiệp luôn luôn thấy cô độc, vì vậy rất hiếu khách... Gặp khách quen thân một quê xứ, cần tiếp đón để có lượng thông tin về quê cũ của mình. Gặp khách lạ lại càng thú vị, họ sẽ kể lại bao chuyện mà chủ nhà chẳng bao giờ nghe được lần nào”(75). “Thêm vào đó cuộc sống nơi đất mới có nhiều thuận lợi, ưu đãi hơn, con người không phải vất vả, bon chen như ở nơi đất hẹp người đông. Có nhiều nhân tố để con người sống rộng rãi, cởi mở, hào hiệp hơn”(76).

Có thể nói rằng thiên nhiên tuy khắc nghiệt, nhưng sản vật phong phú, ưu đãi; do đó con người Nam Kỳ không so đo vật chất, thế nên rất hiếu khách.

d. Tính nhân ái, trọng nghĩa khinh tài

Có người thấy rằng tính mở của của làng Nam Kỳ khiến người Nam Kỳ thiếu nhân tố liên kết cộng đồng kiểu cũ ở Bắc Kỳ, nhờ vậy người Nam Kỳ thường hướng tới cái nghĩa với mọi người trong một phạm vi lớn hơn (77).

Phân tích rõ hơn, Nguyễn Phương Thảo cho rằng: Khác với làng Bắc Kỳ, làng Nam Kỳ là làng khai phá, không có sự phân biệt dân chính cư và dân ngụ cư, không có ba họ chín đời nên không có tính cố kết chặt chẽ về quan hệ dòng họ (78). Do không có tâm lý phân biệt người chính cư và người ngụ cư nên dân làng sẵn sàng bỏ đi nơi khác, nếu ở nơi cũ họ thấy không còn sống được nữa, cả về mặt vật chất lẫn tinh thần (79). “Trong hoàn cảnh chung ấy, mối gắn bó giữa người và người trong cùng một làng không phải là quan hệ dòng họ, thậm chí cũng không phải là quan hệ láng giềng lâu đời nữa. Cùng chung cảnh ngộ, cùng rời bỏ quê hương đến làm ăn nơi đất lạ, khi quan hệ thân tộc không còn chặt chẽ nữa, dây liên kết gắn bó con người với con người chỉ còn là nghĩa tình giữa họ với nhau”(80). “Con người gắn bó với nhau thành một cộng đồng mà chất [kết] dính là nghĩa, sống với nhau vì nghĩa”(81).

Là lưu dân tứ chiếng quy tụ nơi đất rộng người thưa, tìm sự sống trong muôn vàn gian nguy chết chóc, không trọng nghĩa, không hào hiệp, không nhân ái thương người sa cơ lỡ bước thì không dễ sống còn (82). Ca dao Nam Kỳ có câu:

Dạo chơi quán cũng như nhà,

Lều tranh có nghĩa hơn nhà ngói tô (83).

Tới đây thì ở lại đây,

Bao giờ bén rễ xanh cây thì về.

e. Tính bất khuất

Những lưu dân đi về phương Nam có nguồn gốc địa phương khác nhau, phong tục tập quán khác nhau, cách thức làm ăn, thân phận giàu nghèo, dân tộc và tôn giáo có thể không giống nhau (84), nhưng điểm chung của lớp người dám bỏ quê hương ra đi vào Nam Kỳ phá rừng dựng nước là dũng khí, tính bất khuất.

Trần Thị Thu Lương và Võ Thành Phương cho rằng: “Về cơ bản cư dân ở đây là [dân] “tứ chiếng”, cuộc đời của họ, của họ hàng cha mẹ anh em họ đã trải qua nhiều sóng gió và bất ổn định nên đã tạo trong họ bản sắc ngang tàng”(85). Cho nên: “Họ không khuất phục trước cường quyền, sẵn sàng cứu khốn phò nguy, sống cái đạo làm người “kiến nghĩa bất vi vô dũng dã”, dám đứng lên dẹp bất công, bênh vực người yếu đuối, thế cô, sẵn sàng bảo bọc kẻ thất cơ lỡ vận”(86).

Nói như Huỳnh Lứa, “… chính công việc mở mang vùng đất mới đầy rẫy khó khăn, hiểm nguy cũng đã góp phần tôi luyện họ thành những con người can trường, gan góc, không chịu lùi bước trước trở ngại thiên nhiên, cũng như không chịu luồn cúi trước mọi sức mạnh phi nghĩa: “Trời sanh cây cứng lá dai, gió lay mặc gió, chìu ai không chìu””(87).

Cách đây gần ba thế kỷ, Trịnh Hoài Đức đã viết về dân Nam Kỳ: “... sĩ khí hiên ngang ... con người hay chuộng tiết nghĩa, nhiều người trung dũng, khí tiết, trọng nghĩa khinh tài, dù hàng phụ nữ cũng thế”(88).

Nguyễn Văn Xuân, một người nghiên cứu sinh trưởng ở miền Trung nói rõ hơn về cá tính miền Nam: “... dân miền Nam, trực tiếp tiếp xúc với Tây học vẫn còn những người ngang nhiên mang cái búi tó khá lớn để lái chiếc xe hơi kiểu mới nhất..., và các bà thì nói đạo nghĩa vanh vách, các ông thì nhắc những lời những lời Khổng Mạnh như lưu... Điểm tâm lý đó gắn liền với tình yêu nước, yêu dân tộc (89).

Có lẽ tính cách Nam Kỳ như thế đã góp phần làm lớn nhanh đạo Cao Đài là một tôn giáo mới ra đời ở Sài Gòn. Tuy đạo bị thực dân Pháp coi là “hội kín” (sic), tuy luật pháp thuộc địa buộc rằng hội họp từ hai mươi người trở lên phải xin phép chánh quyền, dân chúng Nam Kỳ vẫn mạnh dạn tìm đến các đàn cơ hay lễ cúng Cao Đài rầm rộ. Rất nhiều người đã mạnh dạn không tiếc của cải, điền thổ, đem hiến nhà, hiến đất để làm thánh thất. Nhờ thế, đạo Cao Đài ra đời trong một thời gian ngắn mà tín đồ đông đảo khắp nơi, thánh thất rải khắp Nam Kỳ.

Những hồ sơ từ thời Thống đốc Nam Kỳ hiện còn lưu trữ được ở Trung tâm Lưu trữ Quốc gia 2 (thành phố Hồ Chí Minh) là bằng chứng cho thấy dân Nam Kỳ ngang tàng, bất khuất, trọng đạo nghĩa khinh tiền tài như thế nào. Chẳng hạn, khi mở đạo Cao Đài ở Sài Gòn, những người Nam Kỳ như ông Lê Văn Trung đã không làm đơn xin phép Tây như từng có sách vở viết lầm. Trái lại, trong Tờ khai đạo ngày 07-10-1926 gởi cho Quyền thống đốc Nam Kỳ Le Fol, thay mặt cho đồng đạo, Thượng đầu sư Lê Văn Trung đã bằng cái giọng lịch sự mà vẫn ngầm chứa đầy khí phách ngang tàng của Nam Kỳ khi nói rằng:

“Nhân danh đông đảo những người Việt Nam..., những người ký tên dưới đây hân hạnh tuyên bố cho ông biết là chúng tôi sẽ truyền bá cho toàn thể nhân loại giáo lý thiêng liêng này, “... những người ký tên dưới đây yêu cầu ông hãy chính thức tiếp nhận tuyên ngôn của chúng tôi”(90).

Đinh Văn Hạnh cho rằng cá tính của người dân Nam Kỳ “là điều kiện để họ cũng như các tộc người khác dễ dàng giao lưu văn hóa (acculturation), ảnh hưởng lẫn nhau” (91).

Nói tóm lại, cá tính Nam Kỳ là tính cởi mở, phóng khóang, dân chủ, bình đẳng, hiếu khách, bất khuất... Những tính ấy “không phải bỗng nhiên một lúc có được, mà phải trải qua hàng thế kỷ hun đúc, tôi luyện trong suốt quá trình lập nghiệp”(92). Cá tính Nam Kỳ là một tiền đề tích cực cho sự ra đời của đạo Cao Đài ở Nam Kỳ.

6. Nhu cầu tâm linh người Nam Kỳ

Có người như Sơn Nam cho rằng dân Nam Kỳ chịu ảnh hưởng của Tam giáo, họ đã “xây dựng một nếp sống tinh thần khá ấm áp, bình đẳng, lấy tình nghĩa huynh đệ làm trọng, sống chết có nhau, giữ trung cang nghĩa khí lúc khó khăn, hiếu động. Đúng là nếp sống tinh thần kết tinh đạo Phật, Lão, Khổng”(93). Điều đó hoàn toàn không sai. Nhưng phân tích hoàn cảnh Nam Kỳ thời khai hoang mở đất thì phải nói rõ rằng ảnh hưởng Tam giáo chỉ bàng bạc, rất mỏng. Tam giáo không thực sự là tư tưởng chủ đạo chi phối trọn vẹn đời sống tinh thần của những lưu dân ở Nam Kỳ.

Nho giáo

Ở đất mới Nam Kỳ, Nho giáo đã mất địa vị độc tôn. ảnh hưởng Nho giáo tuy có trong nếp sống, nếp nghĩ của người Nam Kỳ, nhưng lại thóang hơn Trung Kỳ và Bắc Kỳ, do lối sống ngang tàng của lưu dân xa xứ, muốn phá bỏ mọi lề thói ràng buộc cũ.

Phật giáo

Theo Đinh Văn Hạnh, giáo lý nhà Phật vốn cao siêu và thâm thúy, nhưng trong bối cảnh suy thóai từ thế kỷ XV, càng suy ở giữa thế kỷ XIX và kéo dài đến thế kỷ XX, thiếu các bậc chân tu dìu dắt, lại ở vào miền đất mới đầy khổ ải nên vốn liếng đạo Phật mà một số lưu dân mang theo trong chừng mức nào đó không còn phù hợp với những tâm hồn đang muốn vươn lên khuấy nước chọc trời. “Do đó, Phật giáo ít có điều kiện ăn sâu vào đời sống tinh thần của đại đa số nông dân”(94).

Sơn Nam đã viết nhiều về cuộc sống lưu dân trong Hương rừng Cà Mau, về những người xưa Vạch một chân trời, dấn mình vào Hai cõi U Minh... Những trang văn sống động ấy cho thấy cuộc sống bất trắc và khắc nghiệt của lưu dân ở Nam Kỳ: có rắn ăn rắn, có rùa ăn rùa, phải đấu tranh sinh tồn với mãng xà, cá sấu, cọp, heo rừng... Bên đống lửa hun khói xua muỗi mòng, chai rượu đế cay nồng cũng là cách đơn giản giúp lưu dân giải phiền, tạm quên đi nỗi trơ trọi giữa chốn hoang vu sơn lam chướng khí nghiệt ngã. Trong hoàn cảnh ấy, với môi trường sống và tâm trạng ấy, thử hỏi làm sao có thể khuyên nhau tu hành giữ giới (chay lạt, cấm sát sinh) được?

Lão giáo

Lão giáo ở Nam Kỳ cũng cùng tình trạng như triết học hình nhi thượng của đạo Nho, và giáo lý đại thừa của nhà Phật. Triết lý vô vi thanh tĩnh của các đạo gia quá cao siêu và không thể thích nghi với tâm hồn lưu dân Nam Kỳ trong buổi đầu phá rừng dựng nước. Dễ hiểu vì sao Nam Kỳ lại là miền đất màu mỡ cho Đạo giáo dân gian với muôn vẻ biến thái, vì một khi thuốc men không có, khi mà con người phải chống chọi với ma thiêng nước độc, thì bùa chú của pháp sư, phù thủy đương nhiên dễ chiếm ưu thế, dễ là chỗ dựa gần gũi, tin cậy. Điều này cũng phù hợp với tín ngưỡng của người Hoa, người Khơme, Chăm và các dân tộc bản địa khác đã có mặt sẵn ở Nam Kỳ từ trước.

Đạo giáo dân gian lại có sức quyến rũ cố kết nông dân lại để chống ngoại xâm và cường hào ác bá. Những di dân người Hoa quy tụ về Nam Kỳ lại mang thêm cho miền đất này xu hướng lập hội kín để tự bảo vệ phe nhóm và mưu đồ đại sự. Cuối thế kỷ XIX, Đạo giáo dân gian và những biến thái tương tự của tín ngưỡng này đã là dòng sinh hoạt tâm linh mạnh mẽ ở Nam Kỳ và gắn liền với phong trào yêu nước chống thực dân Pháp.

Thiên Chúa giáo

Theo Huỳnh Lứa, “đầu thế kỷ XVIII, một bộ phận lưu dân người Việt trong đó phần lớn là tín đồ Thiên Chúa giáo lánh nạn cấm đạo đến sinh sống ở khu Cái Mơn, Cái Nhum. Họ cũng đến sinh sống ở vùng đất giồng như Sóc Sãi, Ba Vác, Pang Tra Thom, Mỏ Cày vào thời gian muộn hơn sau khi cư dân người Khơme rời khỏi vùng này”(95).

Theo Hall, nửa sau thế kỷ XVIII, tại Hòn Đất (Hà Tiên) đã có nhà tu nhỏ của Thiên Chúa giáo, dựng bằng tre, với khoảng bốn mươi tu sinh Việt Nam, Trung Quốc, Xiêm (Thái Lan). Năm 1765 một giáo sĩ Pháp là Pierre Joseph Georges Pigneau đã tới đây (96). Sơn Nam cho biết thêm: ở vùng sông Hậu, tín đồ đạo Thiên Chúa đã đến tỵ nạn tại Cái Đôi, Cù Lao Giêng (1778), Bò ót (1779), Năng Gù (1845)(97). Nhưng, như Trần Thị Thu Lương và Võ Thành Phương ghi nhận, “mặc dù đến thế kỷ XIX Thiên Chúa giáo đã có khá nhiều ở nước ta và một số giáo dân trốn tránh việc cấm đạo của nhà Nguyễn đã chạy vào đồng bằng sông Cửu Long cư trú, nhưng ảnh hưởng của Thiên Chúa giáo không mạnh”(98).

Đinh Văn Hạnh đánh giá: “Như vậy, suốt một thời gian dài, trong cộng đồng cư dân người Việt ở đất mới Nam Bộ [Nam Kỳ] đã không có một hệ tư tưởng hay tôn giáo chủ đạo nào chi phối, mà trái lại, bị nhiều hệ tư tưởng, tôn giáo khác nhau (mới và cũ) cùng tác động”(99). Đinh Văn Hạnh lưu ý rằng: những người tha phương, khẩn hoang ở vùng đất xa lạ có nhu cầu rất lớn về tín ngưỡng, tâm tư tình cảm; đời sống tinh thần, tâm linh của lưu dân rất phong phú; thế nhưng những tư tưởng, tôn giáo độc tôn trước đây vì nhiều lý do khác nhau đã không đáp ứng được nhu cầu của những người đi khai hoang mở đất (100).

Khoảng trống hệ tư tưởng (hay ý thức hệ)

Lưu ý của Đinh Văn Hạnh cũng là quan điểm của không ít nhà nghiên cứu khác. Nói về những biểu hiện nhu cầu tâm linh của người Nam Kỳ ở cuối thế kỷ XIX, có người chỉ coi đó là “tâm lý hẫng hụt, do hẫng hụt mà cần đi tìm một tôn giáo mới (101). Nhưng có tác giả như Werner lại xác định rõ rằng đó là khoảng trống lớn về hệ tư tưởng (hay ý thức hệ) ở Nam Kỳ trước thế kỷ XX: “Đạo Phật và Khổng suy thóai, để lại một khoảng trống văn hóa thuận lợi cho việc sáng lập các giáo thuyết mới nhắm vào mục đích khôi phục nền văn hóa Việt Nam”(102). Khoảng trống đó là hậu quả của đất nước bị thực dân Pháp xâm chiếm, biến Nam Kỳ thành thuộc địa. Werner viết: “... sau khi Pháp cướp nước, đạo Khổng và Phật đã suy thoái. Các thầy tu có học thức của Phật và Lão thực tế đã không có mặt ở Nam Kỳ trong những năm 1920. Đạo Khổng không còn sức mạnh là một học thuyết chính trị và xã hội, mặc dù đạo Khổng vẫn còn là căn bản cho đạo đức gia đình trong những thập niên 1920 và 1930”(103).

Đạo Cao Đài ra đời đã đáp ứng nhu cầu tâm linh Nam Kỳ

Khi đã nhìn ra khoảng trống ý thức hệ ở Nam Kỳ cho đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, Werner lý giải vì sao đạo Cao Đài có sức thu hút mạnh mẽ người dân Nam Kỳ: “Quả thật, trong một mức độ nào đó, đạo Cao Đài có thể được coi là một nỗ lực nhằm trả lại sinh lực cho đạo Phật - các thầy tu đứng đầu trong đạo Phật, Lão và các chi Minh [Minh Sư, Minh Đường...] đã quy tụ về đạo Cao Đài khi đạo này mới được thành lập. Trước khi các thánh thất được xây dựng, những người khai đạo Cao Đài cũng dùng các chùa Phật để hành lễ khắp cả Nam Kỳ, và một số các hòa thượng chủ chùa ấy đã theo đạo Cao Đài. Trong các vùng ảnh hưởng của đạo Cao Đài, người ta biết rằng đông đảo phật tử các chùa ấy đã nhập môn tập thể theo Cao Đài”(104).

Tóm lại, trên miền đất mới Nam Kỳ, tuy có sẵn tín ngưỡng bản địa của các dân tộc khác, tuy có sẵn những tôn giáo cổ truyền lưu dân mang theo trên đường về phương Nam, tuy đã có thêm cả dòng tín ngưỡng do phương Tây mang tới, trong tâm hồn của người Nam Kỳ rốt lại vẫn là một trống vắng của một nhu cầu tâm linh chưa được đáp ứng. Lớp tiền nhân Nam Kỳ cần có một sắc thái tâm linh khác hơn, mới hơn, mà không hoàn toàn xa lạ để họ khỏi dị ứng, khỏi lạc lõng. Để lấp kín khoảng trống tâm linh ấy, người Nam Kỳ đã tìm thấy ở đạo Cao Đài những giá trị mới mẻ mà thân quen, huyền bí mà gần gũi, đơn giản và bình dị mà lại đầy tính tổ chức trong một hình tướng nhiều màu sắc.

Đó là lý do người Nam Kỳ đã đi theo Cao Đài rất sớm, cho dù đạo ra đời chỉ trong một thời gian rất ngắn, cho dù những người đầu tiên mở đạo vốn không phải là thầy tu chuyên nghiệp, hầu hết lớp tiền nhân mở đạo Cao Đài xuất thân từ nhiều giai tầng xã hội khác nhau, trình độ học vấn khác nhau, và họ đều chưa hề trải qua bất kỳ một trường lớp đào tạo giáo sĩ nào trước khi đem cả nhiệt tâm chân thành ra truyền đạo.

7. Kết luận

Khảo sát khái quát trên đây chắc chắn chưa có thể nói được hết những mối liên quan giữa các yếu tố thiên nhiên, nhân văn Nam Kỳ với sự ra đời của đạo Cao Đài trên đất Nam Kỳ. Có thể tạm đúc kết mấy nét lớn và chủ yếu như sau:

- Nam Kỳ là đất mới, có vị trí mở, thoáng và động; là giao điểm hội tụ các luồng văn hóa Đông Tây; cũng là đất giao lưu, hội nhập của nhiều dân tộc, nhiều tín ngưỡng khác nhau.

- Sống trong môi trường đa văn hóa, con người Nam Kỳ có cá tính riêng. Cá tính đó là bình đẳng, dân chủ, thoáng, mở, nhạy bén với cái mới và có xu thế “đa hệ”.

- Do đó đất nước và con người Nam Kỳ sẵn sàng tiếp thu, nhiệt tình ủng hộ cái mới, nhất là khi cái mới đó chẳng những không xa lạ với tâm hồn Nam Kỳ, mà còn đáp ứng được sự trống vắng tâm linh của người Nam Kỳ buổi đầu thế kỷ XX.

- Chính vì đạo Cao Đài ra đời ở Nam Kỳ trong bối cảnh lịch sử, thiên nhiên và nhân văn như thế, nên đã mau lẹ thu hút đông đảo dân chúng Nam Kỳ theo đạo trong một thời gian rất ngắn.

- Là một tôn giáo bản địa sinh ra trong lòng những tôn giáo lớn đã định hình từ những kỷ nguyên xa xưa trước đây, mà những tôn giáo ấy đã có ảnh hưởng “rễ sâu gốc bền” trong lịch sử, văn hóa, tâm lý dân tộc, đạo Cao Đài đã chọn một giải pháp khác, là xây dựng hiện đại trên nền truyền thống và “Việt hóa” các dòng văn hóa khác để phù hợp với tâm lý của người Việt.

Để Nam Kỳ trở thành miền đất giàu đẹp như ngày nay, tiền nhân Việt Nam đã phải qua 300 năm phá rừng dựng đất gian khổ. Đã bao lớp tiền nhân Nam Kỳ phải chịu cảnh xuống sông sấu bắt lên bờ cọp tha để cho ngày nay cháu con có được nước ngọt quả lành, ruộng đồng mênh mông bát ngát. Tìm hiểu đất Nam Kỳ để phần nào hiểu thêm về buổi bình minh của đạo Cao Đài, dường như hiếm thấy một tín ngưỡng nào lại thân thiết, gắn bó với một tâm tình dân tộc thắm thiết như thế.

L.A.D

----------------------------------------------------------

-62, 64, 65, 67, 72, 76, 86, 87, 88, 92. Thạch Phương và Hồ Lê, Huỳnh Lứa, Nguyễn Quang Vinh, Văn hóa dân gian người Việt ở Nam Bộ, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1992, tr.44, 108, 251, 68, 37, 38.

-63. Sơn Nam, Cá tính của miền Nam, Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1992, tr.9, 10.

-66, 75. Sơn Nam, Đồng Tháp Mười xa xưa, in trong Lịch sử Đồng Tháp Mười, Võ Trần Nhã (chủ biên), Nxb Tp.HCM, 1993, tr.31, 33.

68, 74, 84, 91, 94, 99, 100. Đinh Văn Hạnh, Đạo Tứ ân Hiếu nghĩa của người Việt ở Nam Bộ, Nxb Trẻ, Tp. HCM, 1999, tr.28, 307, 27, 29, 34, 35, 37, 38.

-69, 70, 71, 89. Nguyễn Văn Xuân, Khi những lưu dân trở lại, Nxb Thời mới, Sài Gòn, 1969, tr.51, 53, 58, 59.

73, 78, 79, 80, 81, 101. Nguyễn Phương Thảo, Văn hóa dân gian Nam Bộ - những phác thảo, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1994, tr.11, 12, 13, 14, 28.

-77, 82, 83. Khoa Ngữ văn Đại học Cần Thơ, Văn học dân gian đồng bằng sông Cửu Long, Nxb Giáo dục, 1997, tr.7, 8, 479.

-85, 98. Trần Thị Thu Lương và Võ Thành Phương, Khởi nghĩa Bảy Thưa (1867-1873), Nxb Tp.Hồ Chí Minh, 1991, tr.108, 42.

-90. Lê Anh Dũng, Lịch sử đạo Cao Đài thời kỳ tiềm ẩn 1920-1926, Nxb Thuận hóa, Huế, 1996, tr.169, 172.

-93. Sơn Nam, Miền Nam đầu thế kỷ 20: Thiên địa hội và cuộc Minh tân, Nxb Phù sa, Sài Gòn, 1971, tr.6.

-95. Huỳnh Lứa (chủ biên), Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ, Nxb Tp.Hồ Chí Minh, 1987, tr.53.

-96. D.G.E.Hall, Lịch sử Đông Nam á, Bùi Thanh Sơn và nhiều người dịch, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997, tr.630.

-97. Sơn Nam, Tìm hiểu đất Hậu Giang, Nxb Phù sa, Sài Gòn, 1959, tr.59.

-102, 103, 104. Jayne Susan Werner, Peasant politics and religious sectarianism: peasant and priest in the Cao dai in Viet Nam, Connecticut: Monograph series No.23, Yale University Southeast Asia Studies, 1981, p.56, 13.

 

Huệ Khải
Số lần đọc: 3095
Ngày đăng: 28.10.2004
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Nghề gốm ven sông Tiền - Khuyết danh
Nghiên cứu văn hoá dân tộc, một vấn đề thời sự - Khuyết danh
Bình thơ : - Khuyết danh
Hiểu và làm - Thu Nguyệt
Đất Nam Kỳ - Tiền đề văn hóa mở đạo Cao Đài - Huệ Khải
Bàn tròn thơ Đồng bằng sông Cửu Long: Đừng quên “những miền thơ mùa trái chín” - Khuyết danh
Chào tiễn biệt bác sĩ Trần Bồng Sơn: - Nhựt Quang
Nhạc sĩ Cao Văn Lầu có phải là ông tổ ngành cải lương? - Khuyết danh
Thay lời giới thiệu - Võ Ðắc Danh
Vĩnh biệt Trúc Phương - Phố Thu