Sứ Móng Cái, vại Hương Canh
Ai lên mình gửi cho anh với nàng
Làng gốm Hương Canh nay thuộc thôn Đại Đồng, thị trấn Hương Canh, huyện Bình Xuyên. Hương Canh nằm trong vùng sản xuất gốm của trung tâm gốm Vĩnh Phúc giai đoạn 10 thế kỉ đầu Công nguyên, là làng gốm cổ sành truyền lâu đời ở vùng trung du Bắc bộ. Khu vực sản xuất gốm tập trung ở xóm Lò Cang. Từ cang ngoài ý nghĩa là sự cứng rắn, đanh, còn dùng để gọi các loại đồ sành nói chung. Xóm Lò Cang nằm gần khu vực ngã ba sông được tạo bởi sự hợp lưu của đoạn sông Phan ( Đoạn sông chảy qua Hương Canh còn gọi là sông Cánh ) bắt nguồn từ dãy Tam Đảo bao quanh từ 3 phía đông, tây và nam của xóm Lò Cang với sông Cọn- Một nhánh của sông Cà Lồ. Từ ngã ba sông này, xuôi xuống phía nam qua bến Nam Viêm, Phủ Lỗ, xuống cầu Đuống về Hà Nội và lên Bắc Ninh, Bắc Giang, nếu theo đường thuỷ về phía tây bắc vào sông Hồng ngược lên vùng ngã ba sông Việt Trì.
Hệ thống các lò gốm ở Mộ Đạo ( xã Đạo Đức ) nằm kề bên đã cho thấy các mối tương đồng về chất liệu và kĩ thuật làm gốm với Hương Canh. Tiếc rằng khu lò nung gốm ở Mộ Đạo chưa được khai quật nên chúng ta vẫn chưa tìm được thêm những bằng chứng về mối liên quan giữa các lò gốm này. Tuy nhiên việc các lò gốm Hưong Canh và Mộ Đạo cùng có chung một cảnh quan, một môi trường sinh thái và môi trường kĩ thuật, lại cùng được dựng ở bên bờ con sông cổ mà ngày nay đã bị cạn đã cho thấy những mối liên quan nào đó.
Theo cán bộ Bảo tàng tỉnh Vĩnh Phúc thì tại khu vực xóm Lò Cang trước đây đã phát hiện được gốm và rừu đá mài thời Hùng Vương ở giai đoạn văn hoá Phùng Nguyên.
Gần đây, trong cuốn Địa chí Vĩnh Phúc đã cho rằng sau cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Danh Phương ( 1740- 1751 ), quan nội hầu người Thanh Hoá Trịnh Xuân Biền “ đã giúp dân phục hồi sản xuất nông nghiệp và đem người đến dạy dân làm nghề cang chĩnh “ ( Nguyễn Xuân Lân 2000 : 205 ), sau khi ông mất, nhân dân Hương Canh lập miếu thờ, tôn ông làm tổ sư nghề gốm. Tác giả cuốn sách cũng cho rằng ông Trịnh Xuân Biền “ đã tổ chức truyền nghề gốm Thanh Hoá cho dân Thổ Hà “( Nguyễn Xuân Lân 2000 : 205 ). Như vậy là làng gốm Hương Canh chỉ mới có từ sau cuộc khởi nghĩa Nguyễn Danh Phương.Theo chúng tôi, vấn đề này cần phải được xem xét lại.
Trước hết, về nghề gốm ở Thổ Hà : cũng như làng Hương Canh, làng Thổ Hà nằm trong trung tâm gốm Bắc Ninh giai đoạn 10 thế kỉ đầu Công nguyên, gần với khu vực lò gốm Đương Xá ( Xã Vạn An, huyện Yên Phong ), có niên đại khoảng thế kỉ 10. Nguồn gốc của làng gốm Thổ Hà có từ thời Lí, bắt đầu từ khu vực Núi Gốm, qua nhiều lần di chuyển dọc theo bờ sông Cầu đến các làng Vạn An ( Tức Đương Xá ), làng Đặng, làng Chọi, làng Quả Cảm, cuối cùng định cư ở làng Thổ Hà. Gốm Thổ Hà phát triển đến đỉnh cao vào cuối thế kỉ 17- đầu thế kỉ 18 ( Phạm Ai Phương 1980 : 55-62 ).Tấm bia Tam bảo thị độ dựng năm Thịnh Đức thứ nhất ( Năm 1653 ) đã cho biết tại Thổ Hà vào thời gian này“ nghề sành gốm tinh xảo phát đạt, việc bán, mua tiền của dồi dào “ ( Nguyễn Văn Phong, Phạm Thanh Hùng 2003 : 630 ). Các tài liệu thu thập được ở làng gốm Cẩm Trang ( huyện Đức Thọ – Hà Tĩnh ) thì vào đầu thế kỉ15, khi quân Minh xâm lược nước ta, một số thợ gốm của Thổ Hà đã đến đây lập nghiệp, tạo nên làng gốm Cẩm Trang ( Thái Kim Đỉnh 2000 : 23-28 ). Khoảng cuối thế kỉ 19, người Thổ Hà vào Thanh Hoá, cùng với các thợ gốm ở làng Đinh Xá ( Huyện Kim Bảng- Nam Định ) lập nên làng gốm Lò Chum ( Thanh Hoá ) ( Nguyễn Đỗ Bách 1978 ).
Những tư liệu này cho hay, làng gốm Thổ Hà đã có từ trước khi quan nội hầu Trịnh Xuân Biền đến Thổ Hà tới hàng mấy trăm năm trước.Như vậy không thể có chuyện ông đã mang nghề gốm từ Thanh Hoá ra dạy cho dân Thổ Hà, mà ngược lại, người Thổ Hà đã vào Thanh Hoá dựng nên làng gốm Lò Chum nổi tiếng ở xứ Thanh vào đầu thế kỉ 19.
Về làng gốm Hương Canh, cũng như các làng gốm khác ở nước ta, Hương Canh chỉ là nơi định cư cuối cùng của làng gốm này. Nằm trong vùng có truyền thống gốm lâu đời, ít nhất cũng là từ giai đoạn Phùng Nguyên thời các vua Hùng, sau đó ở giai đoạn 10 thế kỉ đầu Công nguyên lại tiếp tục ở trong vùng phát triển của trung tâm gốm Vĩnh Phúc.Tiền thân của làng gốm Hương Canh nhiều khả năng cũng chỉ ở trong khu vực của trung tâm gốm này. Theo truyền thuyết tại Hương Canh thì xưa kia làng gốm lúc đầu được lập ra ở khu vực Gò Sành, xã Tam Hợp, vốn khi đó gần mỏ sét xanh, gần rừng rất thuận tiện cho việc làm gốm. Nhưng sau này nguồn nguyên, nhiên liệu cạn dần nên làng gốm đã di chuyển về khu vực xóm Lò Cang như hiện nay.
Thần tích ở đình làng thôn Chiêm Trạch ( Xã Vĩnh Ngọc, huyện Đông Anh, Hà Nội ) cho rằng cha mẹ của tướng Nồi Hầu của An Dương Vương quê ở Hương Canh làm nghề bán nồi đất. Nồi Hầu đã cùng các thợ gốm Hương Canh góp phần vào việc xây thành Cổ Loa.
Qua các tài liệu khảo cổ học, thần tích, truyền thuyết sưu tầm được, chúng tôi thấy rằng nguồn gốc của làng gốm Hương Canh có từ thời Hùng Vương – An Dương Vương là rất có cơ sở tin cậy.
Việc Trịnh Xuân Biền sau khởi nghĩa Nguyễn Danh Phương vâng mệnh triều đình đến Hương Canh, theo chúng tôi hiểu, chỉ là để góp phần phục dựng lại nghề gốm ở đây thì đúng hơn.Trong bối cảnh của thế kỉ 18, thiên tai nạn đói và các cuộc thảm sát của quân Nguyễn Danh Phương đối với một số làng trong vùng như làng Khả Do, làng gốm Hương Canh đã làm cho sản xuất gốm và nông nghiệp có những thời gian bị gián đoạn. Trịnh Xuân Biền sau đó đã giúp dân Hương Canh khôi phục lại sản xuất là có thể chấp nhận được.
Xóm Lò Cang hiện có 157 hộ, với gần 600 nhân khẩu, trong đó có 10 hộ là có ruộng, số còn lại là làm nghề thủ công, làm thuê buôn bán. Nhiều hộ vốn là từ các làng Cánh ( Ngọc Canh, Hương Canh và Tiên Hường ) chuyển sang. Các làng Cánh vốn gốc nông nghiệp, một số hộ buôn bán, ngày nay đã có nhiều hộ mở lò sản xuất ngói. Ba làng Cánh, mỗi làng đều có một ngôi đình riêng. Cả 3 ngôi đình đều to và đẹp, lại ở rất gần nhau. Người Lò Cang vốn xuất thân từ làng nào thì sinh hoạt tại đình làng đó. Đền thờ tổ lò gốm ở xóm Lò Cang chỉ của riêng của các hộ làm gốm. Cửa đền viết 4 chữ Hán : Ngũ hành tương sinh. Đền và tượng đức tổ cũ đã bị quân Pháp đốt, nhưng vẫn còn câu đầu viết dòng chữ Cảnh Hưng... tu tạo. Tượng đức tổ hiện nay là pho tượng đã mới được làm lại. Mồng 6 tháng giêng hàng năm là ngày giỗ tổ. Đêm hôm đó cả xóm Lò Cang rước tượng tổ đi xung quanh làng suốt cả đêm.
Cả 3 làng Cánh có chung một ngôi chùa có tam quan khá đẹp, trên gác chuông còn cả chuông và khánh đồng. Cửa giữa của tam quan viết 4 chữ Hán thượng cổ tự môn. Một điếm nhỏ của trong xóm Lò Cang mà tên gọi của nó lại liên quan chặt chẽ đến nghề gốm : Ma Hồng tự. Ma Hồng cũng có nghĩa là chuốt, lặn.
Sản phẩm truyền thống của làng gốm Hương Canh trước đây là các loại đồ sành như : vại thuổi, vại tít, máng to, chum ngang ( Lọai chum chứa được cỡ 30 lít nước ),lọ, lọ hoa, bình vôi, cang, chĩnh, tiểu sành, ống đóm, chậu giặt, nồi, ấm, tượng con giống bằng sành, trang trí kiến trúc trong đình chùa, miếu, như tượng nghê, đầu đao, lá lan đằng...
Chum, chĩnh, vại của Hương Canh nổi tiếng, không chỉ vì màu sành lên đẹp và có độ bền khi dùng mà quan trọng hơn cả là những đồ ẩm thực đựng bên trong sẽ không bị hỏng. Tương, cà, dưa, mắm...được làm trong chum, vại, chĩnh sành của Hương Canh sẽ ngon hơn, không bị váng, mốc. Bí quyết nằm ở lớp da mầu xanh trong lòng của đồ vật. Người sành mua thế nào cũng phải chọn những đồ sành có lớp da xanh trong lòng. Để tạo được lớp da xanh đó, độ nung của món đồ sành này thường có nhiệt độ cao gấp 2 lần loại đồ sành có lớp da mầu đỏ. Nhưng quan trọng hơn cả là để tạo được màu xanh đó, người thợ gốm có những bí mật riêng. Ví dụ khi nung vại, người ta đã để một số loại lá vào lòng phôi gốm. Khói của loại lá này, kết hợp với độ nung cao đã tạo nên mầu xanh trong lòng vại sành.
Các tên gọi những sản phẩm sành, cùng một số loại hình sản phẩm cũng đã mai một đi nhiều. Ví dụ như chĩnh sành đã từ lâu nay không còn được sản xuất nữa. Ca dao cổ có câu :
Chuông khánh còn chẳng ăn ai
Nữa là mảnh chĩnh vứt ngoài búi tre.
Chỉ vài chục năm nữa thôi, các thế hệ con cháu chúng ta có lẽ sẽ không hiểu được chĩnh sành là loại đồ sành như thế nào.
Sành Hương Canh hầu như không trang trí hoa văn, ngoại trừ tiểu sành. Hoa văn trang trí trên tiểu sành ở các thế kỉ 19- thế kỉ 20 được làm riêng bằng khuôn sau đó mới dán lên tiểu. Các mô trang trí là hình chữ thọ tròn, chữ thọ vuông và chữ thọ hình chữ nhật, bao xung quanh chữ thọ là các loại hoa cúc, sen có nhiều cánh, hoặc hoa lá cách điệu. Ngoài chữ thọ còn có các mô típ trang trí rồng, phượng, dơi, bướm, kì lân...
Ông Nguyễn Thanh Nhạn ở xóm Lò Cang có cho chúng tôi xem hai di vật sành cổ của làng gốm Hương Canh mà ông có may mắn tìm được.
Đó là một chiếc khuôn tạo hoa văn rồng và một miếng phù điêu gốm trang trí nổi hình rồng hoá lá.
- Chiếc khuôn hình rồng được làm từ chất sành cổ khá mịn, phát hiện được trong lòng đất của Hương Canh. Da sành màu nâu thẫm, khuôn dài17 cm, rộng nhất 9,5 cm, dày 2 cm. Mặt phải của khuôn khắc lõm hình 1 con rồng đuôi soắn đang bay trong các đám mây. Rồng có 4 chân ( hoặc chân ). Một tay phải ở phía trước giơ lên vuốt râu, một chân sau túm giữ một dải mây mỏng như dải lụa. Đầu rồng, tư thế của rồng, phong cách vuốt râu gần gũi với phong cách của thế kỉ 18. Rồng đuôi soắn đã có từ thế kỉ 18, chiếc khuôn hình rồng này còn mang khá nhiều yếu tố của hình rồng cuối thế kỉ 18. Tuy nhiên bàn tay rồng không phải là các ngón như tay người như đã thấy ở hình rồng thế kỉ 17, 18 mà là các móng vuốt. Vì vậy, chúng tôi nghĩ rằng chiếc khuôn này có niên đại khoảng đầu thế kỉ 19. Mặt trái của khuôn khắc chìm chữ thượng để đánh dấu chiều bên trên khi sử dụng khuôn.
- Miếng phù điêu trang trí hình rồng hoá lá hình chữ nhật, dài 14,2 cm, rộng 9 cm, dầy 1,4 cm. Mặt phải khắc nổi hình con rồng thân gầy guộc, mảnh dẻ, vảy rồng ở giữa thân được tạo giống như vẩy cá, còn ở phần cổ và đuôi lại tạo các đường kẻ ngang giống như các đoạn thân cây. Các bộ phận chân, đuôi, vây lưng, bờm, mào lại được tạo thành các cành lá. Mặt sau của tấm phù điêu phẳng , không trang trí hoa văn.
Có lẽ còn khá nhiều loại sản phẩm sành khác nữa mà ngày nay chúng ta còn chưa biết hết. Trong kháng chiến chống Pháp, sản xuất gốm lại một lần nữa bị đình đốn. Sau năm 1954, các lò gốm lại được khôi phục, hợp tác xã gốm được thành lập, các sản phẩm truyền thống của làng gốm này lại được sản xuất, đồng thời còn sản xuất thêm một số mặt hàng mới như bình đựng hoá chất, ống nước bằng sành...Cuối những năm 80 của thế kỉ 20 cho đến nay, do sự ế ẩm của đồ gốm sành, làng gốm này đã có sự phân hoá và lúng túng trong tìm ra các loại hình sản phẩm mới. Một số gia đình vẫn sản xuất gốm truyền thống, đại đa số đã chuyển sang sản xuất ngói, một số ít chuyển sang làm gốm mỹ nghệ. Vào thời điểm cao nhất, cả xã Hương Canh ( Khi đó gọi là xã Tam Canh ) đã có tới hơn 800 lò nung ngói và hàng chục hộ sản xuất gạch ngói mộc bán cho các lò gốm. Vào thời điểm hiện nay, khi mà đất làm ngói đã cạn kiệt dần, các chủ lò ngói đã phải mua đất từ các xã khác trong vùng, giá đất tăng cao, cung đã vượt cầu, các lò ngói giải nghệ hàng loạt, số chủ lò còn lại làm cầm chừng, chưa có được những giải pháp hữu hiệu. Số hộ sản xuất gốm mỹ nghệ, mặc dù có rất ít, tiêu biểu là gia đình ông Nguyễn Thanh Nhạn lại có những suy nghĩ khác. Ông Nhạn cho rằng : nguồn đất làm gốm ngày một cạn kiệt, đất không đẻ thêm ra. Nếu ông có 1 kg đất sản xuất ra được 1-2 viên ngói, chỉ được vài ngàn đồng, thì ông sẽ không làm thế mà phải biến 1 kg đất thành hàng trăm ngàn đồng. Từ suy nghĩ ấy ông đã chuyển sang sản xuất gốm mĩ nghệ, quyết tâm giữ lấy nghề, chuyển hướng sang sản xuất gốm sành mỹ nghệ có giá trị kinh tế cao.Từ nhiều năm nay ông đã theo đuổi theo hướng đi nay.Tới nay ông đã có một xưởng gốm với 2 lò nung gốm. Sản phẩm của gia đình ông khá đa dạng và với phong cách hoàn toàn mới : gốm sành hiện đại kết hợp với sành truyền thống. Hiện nay sản phẩm của ông đã nhiều lần được mời tham gia hội chợ Giảng Võ. Đây cũng là một hướng đi mới hé mở ra triển vọng cho làng gốm sành Hương Canh, mặc dù ở phía trước còn rất nhiều gian nan.
Theo tài liệu điều tra của chúng tôi vào năm 1984, cụ Trần Văn Nguyễn ở xóm Lò Cang cho biết : làng Hương Canh còn có một số thợ gốm chuyên đi đắp tượng đất và sau này là tuợng cốt xi măng. Khi làm tượng đất thì không cần nung, đất được trộn với trấu, giấy dó, sau đó dùng thanh tre nện cho thật nhuyễn rồi mới đắp tượng.
Các kĩ thuật làm gốm cổ truyền ở Hương Canh
Luyện đất
Các cụ Trần Trọng Quế, Trần Văn Dược ở xóm Lò Cang đều cho rằng, gốm Hương Canh sở dĩ trở nên nổi tiếng cũng phần nào phụ thuộc vaò chất liệu đất. Xưa kia các cụ làm gốm rất kén đất. Nếu làm gạch thì lấy đất sét mịn mầu nâu hoặc đất sét đỏ ở khu Đồng Bẽ. Đất làm gốm sành ở Hương Canh cần phải có 2 loại : Đất sét xanh thì chỉ có ở các khu đầm chiêm trũng. Đất thường được lấy ở độ sâu 3 mét – 10 mét. Đất làm vại, cang, chĩnh phải lấy đất sét xanh. Trước đây các cụ lấy đất sét xanh ở đầm Mát. Ưu điểm của loại sét xanh nguyên chất có độ mịn và độ dẻo rất cao, là loại sét có chất béo, dẻo, khi chuốt gốm mới dễ kéo lên, không bị nứt, sành có độ bóng giống như đã được tráng men dân làng gốm gọi là cườm da. Đất sét xanh có độ chịu nhiệt cao. Đất sét xanh ở Hương Canh có độ kết màng tốt mà theo cách gọi dân gian ở đây là đất có nhựa. Độ co ngót của đất cao. Gốm mộc có thể co tới 17%. Ví dụ nếu làm một chiếc vại có chiều cao là 40 cm, nếu chỉ dùng riêng đất sét xanh thì phải làm cao tới 48 cm. Đó là chưa kể đến khi nung gốm, phôi gốm sẽ bị biến dạng, đặc biệt là đối với những đồ gốm mỏng, đồ gốm dễ bị co ngót làm nứt nẻ sản phẩm. Để tránh được nhược điểm đó, người ta phải pha thêm loại đất thứ hai, đó là đất sét móng trâu có mầu nâu nhạt ngả vàng. Loại đất này chịu nhiệt kém hơn nhưng rất dai, làm giảm bớt độ co ngót, tăng cường thêm tỉ lệ ô xít sắt và độ bóng của đồ gốm. Đất sét nâu cũng được lấy ở đồng chiêm trũng, nhưng chỉ ở độ sâu khoảng 0,60m. Tỉ lệ trộn đất tuỳ thuộc vào loại sản phẩm định làm ra. Để làm đồ sành bình thường, màu nâu xẫm, bóng thì tỉ lệ pha trộn là 50% đất móng trâu + 50% đất sét xanh. Để làm các đồ sành có chất lượng cao thì tỉ lệ pha trộn là 70% đất sét xanh + 30 % đất sét nâu. Đất được trộn sẽ làm cho việc chuốt gốm được nhẹ nhàng và dễ dàng hơn, giảm được giá thành mua đất. Khi trộn nhuyễn, đất làm được có màu xám nhạt, lẫn nâu nhạt và vàng đất. Cách luyện đất trước đây cũng rất cẩn thận. Đất lấy về để thành đống, phơi cho dãi dãi dầu sương nắng. Người thợ gốm gọi là để cho ải ra, tối thiểu là 6 tháng, còn tốt nhất là 1 năm.Thực chất của quá trình này là làm mất đi một số thành phần không cần thiết cho việc làm gốm như các khí mê tan, ti tan ...bay đi. Tỉ lệ ô xít sắt tăng lên.
Đất đủ thời gian để ải được đem vào sử lí tuỳ theo loại sản phẩm định sản xuất ra :
- Cách sử lí đất làm các loại gốm truyền thống :
Đất được thái ra thành các củ bằng nắm tay, vốc tay, rồi lại tiếp tục được băm, ủ cho ngấu. Trước khi làm, đất được tưới nứoc ủ chừng 20 giờ, rồi thỉnh thoảng lại tưới nước để nước có thể ngấm hết vào các thành phần của đất, sau đó mới dùng mai giã đất, sang mai nhiều lần ( Tức là sắn mỏng, đổ từ đống này sang đống kia ) quá trình này được gọi là lộn đất. Sau đó tiếp tục dùng kéo chải thành quả đất cao chừng 1,20 mét, rồi lại cắt, xéo nhào liên tục cho đất đủ độ nhuyễn.Trong khi làm đất sạn, sỏi , cỏ rác lẫn vào được nhặt ra. Đất vừa làm, không nhả, không cứng thì gọi là đất chín. Khi dã có đất chín rồi thì việc nhào đất cho nhuyễn có ảnh hưởng rất lớn đến khâu chuốt tiếp theo. Quả đất được xéo, tước mỏng bằng cạnh dọc của bàn chân từ các phía xung quanh vào dần đến giữa. Lúc này quả đất trông tự như một đoá sen nên việc xéo nhuyễn đất được gọi là nảy hoa sen. Một sản phẩm bị lẫn nhiều màu cũng là do đất làm không đều, không nhuyễn vào với nhau. Nguyên tắc là đất làm ngày nào thì xéo ngày ấy, đất để qua đêm sẽ bị cứng lại.
- Đất làm đồ sành có giá trị kinh tế cao :
Những đồ gốm đòi hỏi chất lượng cao, gốm có hoa văn trang trí bằng các phương pháp đắp nổi, in nổi hoa văn, khắc vạch, đổ khuôn như : tượng gốm, con giống, gạch lát nền trang trí hoa văn, phù điêu treo tường, các chi tiết trang trí trên tiểu sành gốm....đói hỏi đất làm gốm phải cực mịn, do đó cách làm đất phải giống như cách của gốm tráng men. Đất phơi ải đủ thời gian, được thái nhỏ cho vào bể lọc thứ nhất ngâm, thỉnh thoảng phải khoắng lên, xả nước cho dung dịch đất chảy xúông bể thứ hai, ngâm một thời gian, khắng đều liên tục, lọc đựơc các tạp chất, cỏ rác, sạn...lúc này đất đã khá mịn, rồi cho sang bể thứ ba. Tại bể này, khi đất được hoà tan trong nứơc thành thứ bột đất rất mịn thì tháo nước, vớt đất ra nhào, dẫm, chải vài lần rồi mới mang ra chốt hoặc đổ khuôn. Trước đây đổ khuôn gỗ phải dùng gio bếp rắc lên cho khỏi dính. Bây gìo thì người ta dùng khuôn caolin. Khi đổ khuôn có dùng thêm hoá chất.
Tạo men
Trước đây, đồ gốm truyền thống của Hương Canh là không có men, những năm xây dựng hợp tác xã đã có thêm mặt hàng sành có men. Gốm sành tráng men có 2 mầu:
- Men màu da lươn
Công thức của loại men này là : Thổ hoàng + vôi + trấu. Tỉ lệ = 10 trấu + 3 vôi. Trấu và vôi trộn với nhau, rồi đốt cho đến khi thấy tàn trắng, sau đó ngâm nước và lọc lấy nước trong. Thổ hoàng mang về phơi thật khô, rồi ngâm lọc lấy nước trong, hoà lẫn với, tàn của vôi trấu.Thổ hoàng có tác dụng làm giảm độ chảy của men.
- Men mầu nâu xẫm
Đây là loại men dễ chảy nhất. Công thức của loại men này là: Vôi + trấu + phù sa sông. Công thức này tương đối phổ biến đối với các làng gốm cổ. Chỗ khác nhau chỉ là tỉ lệ các thành phần trong men. Người thợ gốm Phù lãng thì quan niệm rằng màu tím máu đỉa mới là mầu đẹp của đồ sành. Còn người Hương Canh thì cho rằng màu đẹp là màu nâu ánh của lớp da sành do các khoáng chất tự chảy ra.
Tạo dáng
Gốm Hương Canh chỉ được dùng kĩ thuật chuốt trên bàn xoay đối với những đồ gốm sinh hoạt, còn khi làm tiểu thì người ta dùng khuôn. Các hoa văn trang trí trên tiểu cũng được đổ khuôn sau đó được dán lên tiểu.Nguyên tắc tạo dáng gốm truyền thống ở Hương Canh cũng giống như ở các làng gốm Việt khác. Người ta phải tạo đáy đồ gốm trước, sau đó đến thành và miệng đồ gốm. Trước đây ở Hương Canh hay làm các loại đồ sành lớn nên công việc chuốt tạo dáng cần phải có hai người. Một người đứng đạp bàn xoay, đồng thời chuẩn bị xe đất thành đòn dài khoảng 1,1m – 1,2 m. Người chuốt gốm ngồi, vừa chuốt vừa sửa phôi gốm.
Gốm đã tạo dáng xong mang phơi trong bóng dâm, chỗ thoáng gió nhưng không lộng gió để cho gốm khô từ từ khỏi bị nứt nẻ, sau đó mới được cạo sửa, bập vân, quét hồ tẩy xoá, che lấp các vết lồi lõm.
Lò nung gốm
Nung gốm là khâu cuối cùng trong sản xuất gốm và cũng là khâu quyết định chất lượng của sản phẩm, sau khi các khâu trước đã làm tốt. Nhưng để nung được gốm thì việc đầu tiên phải có phương tiện để nung gốm- Đó là các lò nung gốm. Dưới đây là các kĩ thuật xây lò ở Hương Canh.
Lò nung gốm của Hương Canh đều là loại lò cóc và chia làm 2 kiểu : lò cóc có một ngăn và lò cóc có nhiều ngăn.
Mặc dù là kiểu lò nào thì kĩ thuật xây dựng lò đều giống nhau: Thơì xưa, các lò gốm đèu được bằng đất, còn ngày nay thì đậi đa số được xây bằng gạch. Đất đắp lò đều phải chọn loại đất ở đồng Lương Quan. Đất ở đây là loại đất mầu pha cát, dùng để xây và trát. Khi làm vòm lò, người ta cho thêm cả gạch non vào giã nhỏ, hoặc đất từ các lò nung cũ đã bỏ đi trộn với đất đồng Lương Quan. Để làm vòm, người ta làm cốt tre. Chỗ bầu đốt thì trát dầy hơn, phía sau trát mỏng. Chân các tường dọc, gọi là tường mế đắp dày khoảng 0,70m để giữ nhiệt.
Nền lò phaỉ đầm nện chặt đảm bảo không được lún. Đất Lương Quan được đổ cát lên rồi đầm kĩ. Trên lớp cát chọn loại sỏi son to bằng ngón tay ( Lấy trên các quả đồi ) rải lên trên mặt, tạo thành lớp dày 2-3cm, đổ xong phải đầm thật êm. Việc đổ lớp sỏi vừa để tạo độ cứng, vừa tạo độ xốp để giữ nhiệt.
Lò cóc có 1 ngăn
Lò cóc ở Hương Canh có nhiều loại kích thước. Kích thước, quy mô của lò gốm một phần cũng phụ thuộc vào điều kiện kinh tế của người thợ. Các bộ phận trong lò phải có kích thước tỷ lệ với nhau. Ví dụ một lò gốm dài 6,3 mét thì bầu đốt dài 1,2 mét, vòm cao 2,8 mét, hộp đậu ( ngăn nhỏ nối với các ống khói) dài 60cm. Nếu lò có kích thước lớn như vậy thì có cửa cời than ở một bên sườn lò. Cửa ra vào lò cũng chính là cửa đun gốm. Nền lò bằng, thậm trí hơi dốc về phía sau. Lò đun khoảng 100 tiểu thì thân lò thường dài 4 mét, chỗ rộng nhất ở giữa thân là 2,5- 2,6 cm, hoặc 2,4- 2,5 cm, cao 2,3- 2,4cm, chỗ giáp với bầu đốt chỉ rộng 1,8- 2 m. Chúng tôi đã khảo sát chiếc lò nhà ông Nguyễn Thanh Nhạn thì thấy chiều dài của lò là 2,5 mét, chiều rộng là 1,2 mét. Như vậy chiều dài gấp 2 lần chiêù rộng của lò .
Lò cóc có 3 bộ phận: Bầu đốt ( hay còn gọi là bầu đun ), thân lò và hệ thống các ống khói ở phía sau lò.
Bầu đốt gần với hình phễu. Phía trước bầu đốt là cửa lò.Hiện nay các lò gốm ở Hương Canh đều nung bằng than nên bộ phận cửa lò chia làm 2 phần, có gác các ghi sắt để đỡ nhiên liệu. Phần ở dưới ghi gọi là lòng than, phần bên trên gọi là đầu ròn. Lòng than là nơi nhóm lò, nơi chứa xỉ than. Trong lòng than có các trụ dọc xây bằng gạch, cách đều nhau tạo thành các khe rộng để có thể nhóm lửa được từ nhiều chỗ. Khi nhóm than thì dùng củi, cỏ, rác. Các lò cổ đun bằng củi chồm ( Cành củi khô nhỏ của các loại cây sim, mua lấy từ vùng núi Tam Đảo ) thì không có ghi sắt, trong trường hợp đun các lò gốm không ghi, người ta gọi là đun ệp.
Thân lò và các ống khói
Giữa bầu đốt và thân lò được ngăn cách nhau bởi một bậc cấp gọi là đầu dờn. Giữa thân lò và ống khói có một khoang hẹp nối với các ống khói gọi là hộp đậu. Tường ngăn giữa hộp đậu và thân lò gọi là tường bịch. Các lỗ thoát khói đặt ở chân tường gọi là các cửa mà hay lỗ giáp mào. Các lỗ của ống khói gọi là lỗ trấn dương.
Vòm lò gọi là mui luyện. Mui luyện càng dốc thì độ cháy càng lớn. Nếu mui luyện nằm ngang thì lửa trong lò sẽ không cháy.Trên vòm lò, khoảng vòm bên trên đầu dờn gọi là màn đầu dờn, khoảng vòm giữa lò gọi là màn vại thuổi. Ơ những vị trí này, vòm lò đều phải đắp dày hơn và cong lồi vào phía trong lò để khi nung lửa sẽ hắt xuống lòng lò. Cuối thân lò, vòm lò cũng được đắp dày hơn và cong lồi về hướng lòng lò để lửa tiếp tục được hắt xuống. Bộ phận này gọi là quạt vả.
Lò cóc chỉ đun từ phía cửa chính mà không có cửa phụ. Với kết cấu của lò cóc kiểu này, đồ gốm nung ở lò cóc sẽ chín từ phía trên xuống bởi vì đường lửa trong các lò cóc Hương Canh sẽ buộc phải đi theo hướng dích rắc: lửa táp lên vòm sẽ bị dằn xuống rồi lại vọt lên, dằn xúông vài lần trước khi thoát ra các ống khói. Thợ gốm Hương Canh gọi hướng đi của lửa do lò cóc tạo ra kiểu này là ngọn lửa đảo. Nếu các lò cóc có cầu lò thì gốm sẽ chín từ dưới lên.
Lò cóc có nhiều ngăn ( Còn gọi là lò bầu )
Là loại lò gồm nhiều lò cóc nối nhau kéo dài, thông thường người ta chỉ làm 2 ngăn. Thời xưa, người Hương Canh đã đắp những lò gốm kiểu này với 3- 5 ngăn. Khi đó người ta gọi là lò bầu. Lò bầu chỉ có chung một bầu đốt, chung ống khói nhưng có nhiều phần thân lò. Cấu trúc của loại lò này có thêm các lỗ dòi ở phía sau tường hậu, lỗ nghé ( Lỗ quan sát gốm trong lò ) ở chân tường dọc của thân lò.
Chồng gốm
Kĩ thuật chồng gốm cổ truyền ở Hương Canh được bắt đầu chồng từ cuối lò cho đến phần đầu dờn.Trong một lò, người ta thường chồng nhiều loại phôi gốm lẫn với nhau. Nếu chồng vại, người ta chồng ngửa theo nguyên tắc : đáy của chiếc bên trên chồng lên miệng của chiếc bên dưới. Hàng vại trên cùng thì úp máng ( là loại nắp đậy hình tròn, thành thấp, sau đó đựoc tận dụng làm máng đổ thức ăn cho gia súc ), hoặc chum vừa với miệng vại để giữ độ tròn của miệng vại. Các loại phôi gốm như bình vôi, ấm tích, lọ nhỏ thì mỗi một chiếc được bỏ vào một bao nung sành nhỏ để cho khi chồng lò dễ xếp thành hàng. Những bao nung sành loại này được làm từ chất liệu đất xấu hơn. Bao nung cũng được tạo dáng như vại với kiểu truyền thống thượng thu hạ thách. Loại bao nung nhỏ đó ( mà chúng ta vẫn thường gọi là non sành ) được đưa vào lò từ gốm chưa nung. Sau khi nung xong, loại bao nung này được tận dụng làm các vại cỡ nhỏ, giá bán rẻ hơn các loại vại sành khác.
Nung gốm
Quá trình nung gốm bằng củi chồm cổ truyền ở Hương Canh trước đây trải qua 3 giai đoạn : Dân om, gộc dân và gộc chặn (còn gọi là xả khói ).
Dân om
Là giai đoạn đầu của quá trình nung gốm. Giai đoạn này mất 1 ngày và 1 đêm, đun nhỏ lửa, làm cho nước trong gốm bay hơi từ từ, tránh co ngót và nứt nẻ. Người ta nhóm lò bằng cỏ, rác, lá cây khô, sau đó phải giữ cho lửa cháy đều.
Gộc dân
Giai đoạn này đun bằng củi to, củi phải khô, thời gian đun là 1 ngày hoặc 2 đêm. Kết thúc giai đoạn này nhiệt độ trong lò đạt được khoảng 600 0 C- 7000C, gốm trong lò sáng lên, có màu hung.
Gộc chặn
Là giai đoạn cuối cùng của quá trình nung gốm. Giai đoạn này kéo dài từ 5- 6 giờ, nhiệt độ trong lò đạt đựơc khoảng trên 10000 C. Trong giai đoạn này, người ta phải dùng củi thật cháy nỏ và đun to lửa.
Sau khi nung xong phải lấp tất cả các cửa lò và lỗ ống khói lại để om gốm trong lò. Nếu lò ở nơi thoáng gió thì ủ lò từ 2- 3 ngày, nơi kín gió thì mất 3- 4 ngày.Khi lấp lò không được dùng đất thuần mà phải dùng gạch hoặc đất trát với các mảnh sành để chống nứt nẻ. Khi dỡ gốm trong lò ra phải theo nguyên tắc dỡ từ cửa vào và từ trên xuống.
Hương Canh là làng gốm ở cạnh đường giao thông thuỷ bộ rất thuận tiện. Hương Canh vừa có chợ trên bến sông, vừa có chợ trên đất liền. Chợ Hương Canh ( Chợ Cánh ) là loại chợ vùng, xưa kia vốn rất nổi tiếng về sự buôn bán nhộn nhịp sầm uất, được người xưa sánh với các chợ vùng lớn cuả các tỉnh Nam Định, Bắc Ninh :
Xứ Nam nhất chợ Bằng Gồi
Xứ Bắc Vân Khám, xứ Đoài Hương Canh.
Từ cuối thế kỉ 18- đến đầu thế kỉ 20, gốm Hương Canh rất được người tiêu dùng mến mộ, được bán ở rất nhiều vùng trong cả nước như : Vĩnh Yên , Việt Trì, Yên Bái, Hà Nội, Nam Định, Thanh Hoá Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Nam , Đà Nẵng, Huế....các lái thương buôn gốm Hương Canh có những người quê ở ngay tại Hương Canh, có cả những khách buôn từ các tỉnh khác đến. Từ xóm Lò Cang đã hình thành nên một dãy phố nhỏ mà ngày nay là thị trấn Hương Canh. Cuối thế kỉ 17- đầu thế kỉ 18 vùng Hương Canh tương đối sầm uất, ba làng nhỏ là Hương Canh, Ngọc Canh và Tiên Hường ở kề sát nhau nhưng đã có tới 3 ngôi đình lớn tiêu biểu cho dòng nghệ thuật điêu khắc trang trí kiến trúc và trang trí gỗ dân gian Việt Nam ở cuối thế kỉ 17- đầu thế kỉ 18./.