Trần Huiền Ân, Nguyễn Hữu Hạnh Vũ , Nguyễn Thỵ Thùy Mỵ , Lâm Hảo Dũng , Mường Mán ,Nhất Uyên
, Từ Thế Mộng và Nguyễn Đức Nhơn….Do Nhà văn Mang Viên Long tập hợp.
…
NGƯỜI ĐÃ LÊN TÀU
Trần Huiền Ân
Nhà tôi chen xóm nhỏ
Đường sâu ép chặc đỉnh vai gầy
Chiếc võng ngoài hiên chiều đợi gió
Anh thường ngồi trông lớp lớp mây
Chúng mình thân nhau
Những con đường Tuy Hòa về khuya vắng vẻ
Những đêm buồn nhìn từng giọt café rơi nhẹ
Những chung trà thơm khói buồi mờ sương
Chúng mình xa nhau khi từ giã mái trường
Xếp sách vở làm thân lính thú
Tôi biết mẹ anh thương con trời biển
Thân già quên với tháng năm
Cứ mỗi lần anh có dịp về thăm
Than trách mãi: Thằng Uy không lấy vợ!
Mới hôm nào anh viết cho tôi
Rằng đang quên phấn hương thành phố
Chiếm lãnh đồn xa viết truyện dài
Góp lại đầy bao trang kỷ niệm
Gởi cho tôi đọc một ngày mai
Chiều nay đọc thấy tin anh mất
Tờ báo trên tay đứng sững sờ
Không dám nghĩ đây là sự thật
Tưởng mình đang sống giữa cơn mơ
Anh đã đi rồi sao Y Uyên?
Dâng xác thân cho cuộc đất ưu phiền
Mẹ già chờ con mỏi mòn tóc bạc
Thế hệ bây giờ tre khóc măng
Thật tình anh đi sao Y Uyên?
“Người đã lên tàu” sang vô biên
Thiên truyện Nora chắc còn để ngỏ
Sự nghiệp đời anh đành dang dở đó
Mình tôi ngồi đây thương tiếc anh
Càng thêm căm uất cuộc tương tranh
Đầy sông máu đục tình huynh đệ
Xương trắng từng phơi biết mấy thành?
THÂ
( 13 th01/69)
( Tạp Chí Bách Khoa – 1968)
TƯỢNG ĐÁ BUỒN
Nguyễn Hữu Hạnh Vũ
Anh nằm xuống tuổi đời anh hăm sáu
QUÊ MẸ nghèo xơ xác nỗi bi thương
Anh nằm xuống bãi cỏ hồng vấy máu
Thân xác này đem dâng hiến quê hương
Anh nằm xuống đôi môi còn mấp máy
Mắt anh buồn khép vội chẳng kêu than
Bầy NGỰA TÍA thôi giờ còn đâu thấy
Ngẩn ngơ hồn cất vó dội vang vang
Khi anh chết bài tình ca thôi hát
TƯỢNG ĐÁ buồn rơi lệ ướt SƯỜN NON
( Bãi dừa xa mỏi mòn đôi mắt KHÁNH
Chiều vàng rơi thôn nứ gọi tình son)
Cuộc đời đã bắt anh làm lính chiến
Súng gươm nào đâu phải của riêng anh
Anh chỉ thích và lòng anh chỉ muốn
Đem văn chương trang trải quảng đời xanh
Khi anh chêt trận BÃO KHÔ cũng dứt
Nguồn tin vui xa tít đỉnh rời cao
Đời buông xuôi như nguồn sâu, hỏa vực
Tôi chợt buồn: Đã lạc một vì sao!
NHHV
( Tạp Chí Văn – 1968)
THƠ CHO Y UYÊN
Nguyễn Thỵ Thùy Mỵ
trong ý tưởng lạ về chàng
trong tim tôi có
một giọt máu tình cờ
chảy hoài trên thánh giá
giọt máu hình như đen
ứa qua chiều say khướt
phải rồi có máu đen
phải rồi có máu đen
có chim sẻ hót lúc bình minh
có quạ đen đậu trên nóc nhà
có tình nhân hộc máu mồm
có lá cờ phủ lên quan tài
phải rồi có Y Uyên
phải rồi có Y uyên
chiều ngưng thổi bong bóng
địa cầu quanh chúng ta
trong vú tôi căng sữa
có dấu tay chàng
có môi trẻ thơ
NTTM
( Tạp Chí Văn – 1968)
TUẦN 100 NGÀY KHÓC Y UYÊN
Lâm Hảo Dũng
Rồi mai bỏ bỏ về trời
Dấu trong lửa đạn buồn rời quê hương
Tay xuôi mạng số đoạn trường
Khóc đôi mắt biếc của buồn thanh niên
Rồi mai hồn đắm du thuyền
Lang thang gởi lại trăm miền vui xưa
Bỗng dưng buồn bã bây giờ
Trong khô lệ xót ngoài mưa cuối mùa
LHD
(Tạp Chí Văn- 1968)
LỜI DẶN DÒ
Mường Mán
Khi đẩy đưa tim trên võng mắt hiền
em hãy lắng nghe hồn cỏ ướt dưới chân chim
nếu thấy mùa thu cuốn về trời những cơn bão lửa
hãy nghĩ rằng
lúc bấy giờ chỉ còn mình chàng ở lại với đêm
Nếu qua sông bằng thuyền mây đêm nay
hãy lắng nghe trăng hấp hối trong rừng cây
trăng rót rượu hồng trăng úp mặt
chàng chết mơ hồ như cơn say
Khi trở về không còn ai mở cửa
Hãy cúi đầu mặc tình cho lòng nhớ mênh mang
Nếu bỗng dưng chợt thấy mình buồn ngủ
hãy nằm xuống nghe
đất kể
chuyện trăm năm
MM
( Tạp Chí Văn – 1968)
CHO NGƯỜI NẰM XUỐNG
Nhất Uyên
Thôi đã chiều, đừng than thở nữa
Vườn đá này sẽ tròn cạnh giữa trùng khơi
Thôi đừng khóc, lòng đại dương đã mặn
Qua cánh đồng khô, đau thương kết tinh rồi
Người nằm xuống thân cỏ cây mục nát
Đạn vẫn bay, và sẽ đến bao giờ?
Mùa nào rồi cây vội vàng thay lá?
Đồng khai quang còn lại mấy cành khô?
Buổi ban mai máu điểm lá xanh nào?
Giấc đêm qua người đến thế giới nào?
“ Tượng đá sườn non” ngàn năm vẫn đợi
Người đã đi, đã đến,đã là bao?
Rồi đất đá ôm kiếp người vùi ngủ
Thiên đường trong tim nọc từng đốt xương rồng
Hạt bụi trên đời,hạt bụi quay cuồng trong gió
Còn lại gì mà gọi giữa hư không?
NU
( Tạp Chí Văn -1969)
THƯƠNG NGƯỜI KHÔNG THỂ CẦM TRONG TAY
Từ Thế Mộng
ta với ngươi tuy quen đã lâu
lênh đênh ngàn dặm tình không sâu
bỗng dưng một sáng nghe ngươi mất
buông thõng hai tay ta cúi đầu
nhớ khi ta đổi về Tuy Hòa
trời chưa muốn sáng trăng còn xa
bảo: “suốt cả đêm nay ta đánh phé”
rủ: “ hôm nào cậu tới chơi cùng ta”
cái thằng hiền khô con gà chết
thấy ta để râu con cá chốt
cậu cười, ta đưa ống sáo ngang mày
chào tuốt người thương và kẻ ghét
ta yêu tiếng nấc sầu em xanh
sầu như em Thúy sầu lênh đênh
người yêu tiếng hí xa ngàn dặm
Hòn Vọng Phu hơi sương còn long lanh
có lần ngươi muốn ngươi thay đổi
ánh mắt ngươi buồn hơn thuở xưa
trời mới lên cao, trời sáng lắm
mắt ngươi chìm khuất phương trời xa
ta đi biền biệt-ngươi biền biệt
hồn trai không kín mộng giang hồ
nghe ngươi vào lính, ta đang lính
súng đạn như đùa với khách thơ
ta tròn hai mắt ra kinh ngạc
mắt ngươi dìu dịu mầu ca dao
ngươi áo quần xanh đường kẻ mới
hai hàng ánh sáng ngã lao đao
ngươi về Phan Thiết đang mùa gió
chuyện vãn chưa vừa được mấy câu
đã mịt mùng xa ngươi lửa đạn
ta phương trời cách mấy trùng sâu
mấy trùng sâu cách ngươi nằm xuống
Nora còn chùng bông cỏ may
Nora chùng lòng dăm đứa bạn
thương ngươi không thể cầm trong tay
thương ngươi lũ bạn quây quần lại
đánh phé vui tràn suốt cả đêm
vui quá nên vui tràn nước mắt
hồn buồn không thấy mộng Y Uyên!
TTM
( Tạp Chí Văn – 1968)
NHỚ Y UYÊN
Nguyễn Đức Nhơn
rừng chồi im phăng phắc
ta một bóng xiêu xiêu
vai trần chân bám đất
nặng một gánh đìu hiu
kẽo kịt trên đường mòn
ngõ về xa hun hút
bóng của buổi chiều tà
đuổi theo ta bén gót
ngang qua đồi Nora
ngậm ngùi bao ký ức
một sáng nào năm xưa
anh giã từ chiến cuộc
một dặm đường anh qua
bỏ sau lưng một kiếp
chiều nay ngồi trên đồi
ta nghe buồn da diết
tựa lưng gốc cây già
ngủ vùi trong mộng mị
chợt bóng anh hiện về
cùng ta ngồi uống rượu
ta cựa mình ngơ ngác
nhìn quang gánh hửng hờ
con giốc dài trở giấc
thở khói chiều lưa thưa
ta lặng lẽ lên đường
may mùa phơi râu tóc
nhuộm trắng cả mái đầu
trong nỗi buồn se cắt
ta ngó về phương xa
từ một nơi vô định
con chim trời bay qua
ta rùng mình ớn lạnh!
NĐN
( Tạp Chí Bách Khoa – 1969)