VCV:Nhà thơ Hoàng Vũ Thuật vừa tham gia Hội nghị Quốc tế Quảng bá văn học Việt Nam và dự Hội thảo cuốn sách “Thơ đến từ đâu” ở Hà Nội trở về. Ông liền gửi cho chúng bài tham luận đọc tại cuộc Hội thảo do Đại sứ quán Pháp tại Việt Nam và công ty TKK Concert đồng tổ chức về cuốn sách nói trên. VCV trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
Khoảng năm 1974, qua Trần Nhật Thu tôi đọc được một bài thơ của Hà Thúc Sinh, nhà thơ, sĩ quan quân đội Việt Nam cộng hoà. Tôi còn thuộc đến bây giờ và nay ghi lại theo trí nhớ, có thể không hoàn toàn chính xác:
Dằn li xuống chiếu cười gượng cười
Ta biết rằng chưa ấm bụng ngươi
Bực thay bạn đến từ muôn dặm
Mà rượu không hề đủ say chơi
Con ta chợt ré lên sau bếp
Nắng chiều đổ lửa xuống nhà tôn
Hà Thúc phu nhân coi buồn lắm
Sữa thiếu làm sao tiếp rượu chồng?
Bạn ta người của mùa chinh chiến
Quen thói ngang tàng, thú tiêu pha
Kéo ta ra quán, hề ra quán
Nhìn trời nhìn đất mà thương ta
Trăng kia sao chẳng nằm dinh thự
Mà chỉ nằm chơi ở ngọn cây
Bạn ta nào hiểu niềm vui sướng
Đời ta chưa hề bẩn đôi tay.
( Uống rượu với bạn trên đường hành quân )
Có một niềm vui sướng nào đấy mà chắc gì mấy ai hiểu được trong con người Hà Thúc Sinh?
Nhưng khi đọc bài thơ tôi đã nhìn thấy một tâm hồn trong trẻo nhân văn, dù người đó đang cầm súng trên đường hành quân từ một phía của trận tuyến. Tôi cứ nghĩ một ngày nào đó tôi sẽ gặp chàng thi sĩ ấy và sẽ ôm nhau như những người bạn thân thiết xa lâu ngày.
Đời ta chưa hề bẩn đôi tay
Câu thơ vừa tâm trạng vừa bày tỏ của một người trước cuộc đời đầy biến động, phi lý. Nhưng tôi không may mắn, vì ít năm sau nghe tin Hà Thúc Sinh đã mất.
Sự hiểu biết của tôi về văn học miền Nam không nhiều. Hồi đó tôi đã ngưỡng vọng thơ Du Tử Lê, Thanh Tâm Tuyền, Nguyên Sa, Phạm Thiên Thư…văn của Vũ Hạnh, Nguyễn Thị Hoàng, Phan Nhật Nam…, bởi cái khí chất tự do, phóng khoáng trong bút pháp thể hiện. Những câu thơ của Du Tử Lê như: bàn tay năm ngón / tóc chảy nghìn hàng / không lẽ chúng mình thù oán ( Bàn Tay Sợi Tóc Cuộc Đời, 1958 ), và: như que diêm trước sau gì cũng phải một lần bật sáng / cũng một lần anh thắp rực đời em (Khởi Đầu Một Kiếp, 25-3-69 ); Hoặc của Nguyên Sa: Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát / Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông (Áo Lụa Hà Đông )… đã cho tôi cái nhìn tin yêu về thơ và người làm ra nó.
Thật thú vị, trong một lần trả lời thư tôi từ tiểu bang Cali, nhà thơ Du Tử Lê đã thông tin ngay rằng Hà Thúc Sinh vẫn còn sống, hiện đã dọn nhà đi nơi khác, và, nếu về Việt Nam lần tới, tôi mong sẽ được ôm anh, như anh từng ước ao ôm anh Hà Thúc Sinh vậy. Thế là chưa gặp nhau, chúng tôi thành người thân thiết.
Khi Nguyễn Đức Tùng mail những câu hỏi đầu tiên xung quanh chuyện Thơ đến từ đâu, anh nói rất thực trong thư riêng gửi cho tôi:“Cám ơn anh Du Tử Lê đã cho địa chỉ và dặn gửi thư. Em có một bà chị ruột, khi nào về Việt Nam, chưa kịp ngồi xuống ăn cơm, thì bà ấy đã nhét cái phone và bấm số sẵn. Có ba bốn ông anh họ, ở xa, nên bà chị muốn chắc chắn là anh em giữ liên lạc với nhau, không thì “quên nhau mất”. Anh Lê giống như chị của em ở nhà vậy”. Nhà thơ Du Tử Lê đã nối Nguyễn Đức Tùng và tôi lại với nhau, khi giữa chúng tôi chưa thật sự quen biết. Dù Nguyễn Đức Tùng đọc tôi đã lâu, không nhiều, nhưng rất thích. Và tôi cũng đọc anh cả thơ và phê bình văn học, trong đó có lần, ở loạt bài “Đọc một bài thơ như thế nào”, anh đã dẫn thơ tôi khi nói về hình ảnh không những mang lại cảm giác vật lý cụ thể mà còn gây ra những thay đổi về giọng điệu của bài thơ.
Thế là tôi như người ma ra tông trước câu hỏi của anh, khi thì thư thả, khi vội vã, khi như đang bên nhau trò chuyện trong khuya khoắt yên tĩnh, khi gây hấn, tranh cãi, thách đố. Cuộc đối thoại giữa chừng, khiến tôi chạy từ Sài Gòn, ra lại Đồng Hới để tiếp tục công việc. Đã có lúc mệt mỏi, vì có nhiều chuyện tôi không muốn nói ra làm gì nữa. Nhưng dần dần, như một ma lực cuốn hút, không thế thoát, và, tôi cảm thấy hứng thú thật sự, cốt sao tìm đến cái đích mà bao đời nay con người muốn tới. Thơ đến từ đâu, làm thơ để làm gì, viết thơ cho ai đây, nếu không có thơ thì cuộc đời này sẽ ra sao…?
Điều gì đã đưa đến sự gặp gỡ giữa nhà thơ Du Tử Lê, Hà Thúc Sinh và tiếp đến là Nguyễn Đức Tùng? Trong khi chúng tôi chưa một lần gặp, chưa nghe tiếng nhau qua điện thoại. Câu trả lời có lẽ duy nhất đó là thơ. Thơ chính là sự kết nối, ràng rịt tất cả lòng người Việt Nam lại với nhau, cho dù tận chân trời góc bể nào, xa xôi hẻo lánh nơi đâu chăng nữa.
Nếu trả lời câu phỏng vấn của Nguyễn Đức Tùng thêm một lần nữa, tôi sẽ nhắc lại lần nữa, dù rất cũ rích, loài người đã nói ngàn năm trước, rằng, thơ đến từ lòng người.
Bởi khi tôi chưa gặp các nhà thơ, tôi đã đọc họ, ở đấy tôi gặp được họ, tôi thấy họ rất rõ. Những trái tim văn học sẵn sàng mở rộng cửa và dung chứa nhau, sau những tháng ngày thất lạc, cũng trong một thư khác, sau này, Du Tử Lê đã nói như thế.
Văn học Việt Nam nói chung, thơ Việt Nam nói riêng đã thất lạc quá lâu, đã xa nhau quá dài, đã chối từ nhau như những kẻ đối nghịch. Điều ấy như tay chối bỏ chân, như răng chối bỏ miệng, nó trở nên bi hài trớ trêu.
Không gì có thể phủ nhận, vùi dập văn hoá, văn học nghệ thuật. Nền văn học Việt Nam đích thực, tựu trung phải hội tụ đủ cả mọi miền Nam, Bắc, trong nước, hải ngoại, không phân biệt chính kiến chính trị, tôn giáo, tín ngưỡng, sắc tộc. Văn hoá là tinh hoa, tinh tuý, phản ánh đúng bản chất lịch sử xã hội, thể hiện khát vọng muôn thuở của con người. Văn hoá cao hơn tất cả, nằm ngoài dòng chảy quy định của xã hội. Văn hoá, văn học nghệ thuật phi biên giới.
Bởi vậy Thơ Đến Từ Đâu là một cuốn sách, đồng thời là một thang thuốc đầu tiên ràng rịt vết thương văn hoá Việt Nam sau hàng chục năm thương tổn. Thang thuốc ấy có thể còn thiếu những vị thuốc cần có, người kê đơn và người bốc thuốc có thể chưa thật thoả mãn, nhưng vẫn là thang thuốc quý, kịp thời cho người bệnh.
Và tôi không thể không nói lời cám ơn Nguyễn Đức Tùng, cũng như các nhà thơ khác có mặt trong tập sách và những người tôi quen biết hay chưa quen biết hạnh ngộ ở đây, lúc này, trong tiếng vọng muôn thuở thơ đến từ đâu./.
Mùa Giáng Sinh 2009