Yến Lan là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nhóm thơ Bình Định mà tên tuổi đã gắn liền với hình tượng “Bến My Lăng” huyền thoại. Ông cũng là thi sĩ mà tác giả thi nhân Việt Nam tỏ ra ngưỡng mộ, khi cho rằng: “xem thơ Yến Lan tôi mơ màng như đi trong mây mù. Khi đầu thì cũng hay nhưng dần lâu cơ hồ ngạt thở”. (1) Quả thật, thơ Yến Lan, mà đặc biệt là thơ tứ tuyệt của ông là một loại thơ “chỉ thấy mờ mờ những con đường chảy êm như những dòng sông” (2). Không những thế nó còn là một thứ rượu được chưng cất từ men say của những ám ảnh khôn nguôi. Tôi muốn nói đến sự ám ảnh của mai trong thơ tứ tuyệt của Yến Lan.
Một trong những nét đặc sắc của văn hóa Việt trong ngày xuân, bên cạnh “rượu, thịt, dưa, hành, câu đối đỏ” thì hoa là một thành tố văn hóa không thể thiếu. Sự hiện hữu của các loài hoa ngày tết mà trong đó hai loài hoa đặc trưng cho hai vùng miền tiêu biểu là hoa đào ở miền Bắc và hoa mai ở miền Nam luôn là biểu tượng của sự an lành, hạnh phúc, viên mãn khi đón xuân. Yến Lan là người miền Nam (quê ông ở An Nhơn, Bình Định), vì vậy cũng như bao người dân của vùng đất mở cõi này, ông rất yêu quí hoa mai. Trong quan niệm của ông mai không chỉ là loài hoa bình thường, đó là loài hoa quý phái mà “cốt cách tượng hình cây” khiến bao người “kẻ vái chào mai, kẻ mộng mai”. Còn đối với ông mai đã trở thành một nỗi ám ảnh, một tâm thức hiện sinh. Mai luôn là chứng nhân của những thăng trầm trong cuộc sống, gắn liền với những biến sinh của xã hội mà ông đã trãi nghiệm. Vì vậy, từ một cành mai trong “vườn hoang” ông đã liên tưởng đến sự hưng phế trong cuộc đời:
Trán lựu thâm nghiêm pho cổ tích
Má đào trơ trẽn nét xuê xoang
Xe săn liễu nối dòng bạc mệnh
Buông rụng mai bày cảnh phế hoang
Vườn hoang
Thời gian bao giờ cũng đồng hành với sự phát triển, sự sinh sôi nhưng thời gian cũng là chứng nhân của sự tàn tạ, sự hoang phế, sự tan rã vì cuộc đời chỉ là cõi phù du. Và bước đi của thời gian là hiện thân của cõi phù du ấy. Yến Lan đã cảm nhận điều này qua sự chiêm nghiệm về vẻ đẹp mong manh của hoa mai
Nét nhớ cong theo bóng núi đồi
Vương qua nhè nhẹ cõi lòng tôi
Bao nhiêu cánh đẹp như mai nở
Sao vội vàng qua một thoảng hơi
Nhớ Mai
Nhớ mai, nhớ cái đẹp qua đi một cách “vội vàng”, chỉ như một “thoáng hơi”. Cái cảm nhận vô thường ấy ở Yến Lan cũng là điều mà Vạn Hạnh thiền sư đã thức nhận chúng ta trong bài thơ Thị đệ tử: “Thịnh suy như lộ thảo đầu phô”. (3) Vì vậy, nỗi “Nhớ mai” của Yến Lan ở đây là một sự nuối tiếc, một hoài niệm, một ám ảnh. Thế nên, mai không chỉ hiện hữu trong thơ tứ tuyệt Yến Lan với một nỗi nhớ đơn thuần mà nó đã kết tinh thành mộng mị trong vô thức, trong tâm linh thi sĩ.
Ngấp nghé hiên tây mấy khóm hồng
Nhài đơm giậu bắc lựu tường đông
Yêu hoa há để thềm nam trống
Đêm mộng mai vàng đến trổ bông
Thềm nhà phía Nam
“Yêu hoa chớ để thềm nam trống/ Đêm mộng mai vàng đến trổ bông”. Hai câu thơ cuối của bài tứ tuyệt đã cho thấy tình cảm giữa nhà thơ và hoa mai sâu nặng biết dường nào!? Mối thâm tình ấy đã kết tinh thành một nỗi nhớ đến nao lòng. Một nỗi nhớ mà nếu không phải là tri âm thì không thể nào cảm nhận được.
Hăm mấy năm xa, trông nhớ mai
Về đây nỗi nhớ vẫn không khuây
Mai ơi, nở đó mà thưa thớt
Phẩm chất thanh u trĩu nhánh gầy.
Vóc mai
Rõ ràng mai đã trở thành hiện thân của nỗi nhớ trong tâm cảm thi nhân. Đó cũng chính là một sự hướng nội, một sự tìm về như một ám ảnh. Không có sự ám ảnh nầy Yến Lan khó có thể viết nhiều bài thơ về hoa mai như thế! Chỉ trong một tập thơ tứ tuyệt mỏng manh mà tác giả đã có rất nhiều bài viết về hoa mai như: Nỗi khổ của mai, Vườn hoang, Nhớ mai, Thềm nhà phía Nam, Vóc mai, Xuân hoài, Xuân tảo, Xuân cách, Nhớ rừng mai, Quý mai, Đêm xuân trông sao, lụy nhớ, Tỉa mai…
Sở dĩ hoa mai đã trở thành một nỗi nhớ thương tràn vào cả mộng mị thi nhân để trở thành một nỗi ám ảnh trong tâm linh của tác giả Bến My Lặng đầy huyền hoặc vì hoa mai trong thơ Yến Lan không chỉ đơn thuần là tín hiệu của mùa xuân mà còn là chứng nhân của những hồi ức, hoài niệm mà thi nhân vẫn mãi kiếm tìm. Thơ viết về hoa mai của Yến Lan vì thế là thơ của những “thấm lạnh tình người”.
Vẹt ngang cành trúc ngước trông trời
Mặt trái xoan tìm dõi bóng ai
Thấm lạnh tình người sao lảo đảo
Chập chờn lây cả khóm hoa mai.
Đêm xuân trông sao
Thơ bao giờ cũng đi từ cõi thực đến cõi mộng. Và từ cõi mộng thơ lại trở về tắm mình trong cuộc đời thực. Đọc thơ tứ tuyệt Yến Lan, chúng ta như đi vào một thế giới ngập tràn giữa mộng và thực. Như đang phiêu bồng trên chiếc “Thuyền thơ nằm đợi gió/ buồn trĩu nặng nhớ nhung”. (4) Thơ Yến Lan mà đặc biệt thơ tứ tuyệt của ông là thơ của thế giới nội cảm được kết tinh từ những nghiệm sinh của thi nhân. Theo Yến Lan cuộc sinh nở của hoa mai là một quá trình “đau đớn”. Để có vẻ đẹp huyễn hoặc khoe sắc chào đón mùa xuân, mai đã phải tự lột xác tẩy rửa mình để hóa thân nhiệm mầu trong thế giới của cái đẹp.
Vặt lá đầu mùa để đón hoa
Biết trong chồi biếc sắc vàng pha
Bao nhiêu đau đớn cành mai chịu
Đợi với trời xanh rực bóng nhà.
Tỉa mai
Mùa xuân là mùa của tươi xanh và hạnh phúc. Nhưng để có được mùa xuân nhân gian ngập tràn ánh nắng, chúng ta phải trải qua những gió mưa, bão tố, lạnh giá của của mùa đông mà hơn ai hết với một trái tim nhạy cảm của một thi nhân, Yến Lan đã cảm nhận nó thật sâu sắc và tinh tế. Vì thế, ám ảnh mai trong thơ tứ tuyệt của Yến Lan là ám ảnh của mộng và thực, của hiện hữu và hư vô, của sắc và không. Đó là một sự ám ảnh của hiện sinh và vô thường. Vì vậy, đối với Yến Lan hoa mai mãi mãi là khát vọng là nỗi nhớ, là sự đốn ngộ, là nhân duyên, là định mệnh…
Về giữa thu phân mai chưa nở
Lập xuân mai nở bận không về
Hữu tình chẳng lẽ vô duyên mãi
Đông chí đây rồi lạnh tái tê.
Nhớ rừng mai
Không phải ngẫu nhiên mà sau bao nhiêu năm xa cách quê hương, mặc dù quen sống ở Hà Nội thủ đô ngàn năm văn vật, khi đất nước thống nhất trở về miền Nam ông lại chọn lựa trở về góc thành Bình Định nhỏ nhoi ngày nào mà không chọn những nơi đô hội khác, chỉ vì ông muốn được sống với hoa, với cây cỏ quê nhà, đặc biệt là được sống với mai như những người bạn tri âm tri kỷ. Ông luôn khao khát tìm mai như đi tìm chính bản thể của mình. Và ông luôn canh cánh bên lòng nỗi lo sợ sẽ vắng mai trong mùa xuân khiến mình phải lụy trong nỗi nhớ:
Gió sẵn đầu hiên, mây cuối thôn
Mà sao cách khuất suốt thu tròn
Hay vì bệnh tật tìm phương tránh
Sợ góc trời mai lụy nhớ thương.
( Lụy Nhớ)
Và hôm nay, một mùa xuân mới lại về. Hoa mai lại khoe sắc với chúa xuân. Mùa xuân này cũng là mùa xuân thứ mười một nhà thơ Yến Lan đã đi “ra ngoài cõi sống”. Nhưng những bài thơ viết về mùa xuân của ông đặc biệt là những bài thơ tứ tuyệt viết về hoa mai sẽ mãi hiện tồn trong lòng người đọc. Bởi vì trong tâm thức người Việt hoa mai đã là một phần tâm linh, là một hệ giá trị trong văn hóa Việt. Vẻ đẹp của hoa mai vì thế là vẻ đẹp của sự an lành và hạnh phúc như chính lời thơ của Yến Lan đã viết:
Đây cúc, kìa mai, nọ hải đường
Cùng mai hoa tụ nhóm thiên chương
Ấm trà mạn hảo lai rai rót
Phảng phất hương thầm bạch ngọc lan.
(Xuân cách)
Hy vọng rằng trong những ngày xuân ấm áp, đọc những vần thơ tứ tuyệt của Yến Lan viết về hoa mai chúng ta sẽ tìm thấy sự bình yên trong tâm hồn. Và rồi, cũng như Yến Lan ta nguyện làm một người bạn tri âm của hoa mai không chỉ trong những ngày xuân mà mãi mãi trong hành trình cuộc sống của mình trên cõi nhân gian vốn đầy những bất an này. Mùa xuân ơi những ngày mới bắt đầu!./.
Chú Thích:
(1) (2) Hoài Thanh- Hoài Chân, Thi Nhân Việt Nam, Nxb Văn học H, 1989, tr 155
(3) Câu thơ trong bài Thị đệ tử của Vạn Hạnh thiền Sư đời Lý
(4) Hai câu thơ trong bài Đợi gió của Yến Lan