1. CUỘC ĐỜI CỦA NGUYỄN BÍNH
Nguyễn Bính là bút danh của Nguyễn Trọng Bính. Ông sinh năm 1918 (khoảng cuối mùa xuân đầu mùa hạ năm Mậu Ngọ) tại xóm Trạm, thôn Thiện Vịnh, xã Đông Đội (nay là xã Cộng H òa), huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.
Gia đình ông thuộc loại nhà nho thanh bần, sinh sống tại vùng đất nổi tiếng đồng chua nước mặn. Thân phụ là cụ Nguyễn Đạo Bình (thường gọi Ông Cả Biền) làm nghề dạy học, tính tình điềm đạm, hiền lành, trọng chữ nghĩa hơn c ủa cải vật chất. Thân mẫu là cụ bà Bùi Thị Miện, đức hạnh và xinh đẹp, thuộc một gia đình khá giả và có lòng yêu nước, ở thôn Vân, xã Đông Đội (nay là xã Minh Tân), cùng huyện. Bà sinh cho chồng được ba người con trai là Trúc Đường Nguyễn Mạnh Phát, Nguyễn Ngọc Thụ và Nguyễn Trọng Bính. Sau khi sinh Nguyễn Bính được đôi ba tháng, bà ra cầu ao rửa chân thì bị rắn độc cắn, mất lúc 24 tuổi. Mấy năm sau, vì cảnh nhà cô quạnh, thân phụ của Nguyễn Bính tái giá với bà Phạm Thị Duyên, rồi sinh thêm được hai con trai và hai con gái.
Tuổi thơ cơ khổ
Sau khi mẹ mất, bà cả Giần, chị ruột của mẹ và là người giàu có, đem ba cháu về cưu mang và cho tiếp tục việc học. Lần này, thầy dạy học chính là anh ruột của mẹ (mà anh em Nguyễn Bính thường gọi là bác), tên là Bùi Trình Khiêm. Cụ Khiêm nổi tiếng hay chữ khắp vùng nhưng thi cử không đỗ. Cụ tham gia Đông Kinh Nghĩa Thục rồi vào Nam Kỳ định làm báo nhưng bị thực dân Pháp bắt giải về quản thúc ở quê nhà cho tới năm 1945; cụ cũng là thầy học của Trần Huy Liệu. Thời kỳ này Nguyễn Bính bắt đầu tấp tểnh làm thơ và dịch thơ, có bài được bác Khiêm khen hay, nên được nuông chiều. Cùng với việc học chữ nho, Nguyễn Bính vào lớp sơ học trường huyện. Từ năm 1931, ở làng Thiện Vịnh, Nguyễn Bính nổi tiếng thần đồng; được giải nhất trong một cuộc thi hát trống quân đầu xuân ở hội làng. Cậu là người gà thơ cho bên nam đối đáp với bên nữ, cuối cùng, bên nam thắng, dù kẻ gà thơ cho bên nữ là một cụ già 70 tuổi.
Từ quê ra tỉnh
Khoảng năm 1932, Trúc Đường thi đổ thành chung, vào Hà Đông dạy ở tư thục. Ông mang Nguyễn Bính đi theo, đưa em vào học tiểu học và dạy thêm tiếng Pháp cho em. Ông cũng thường đem em đi khắp các vùng quê để giữ cho mạch thơ của em đưọc chân chất. Đời sống anh em đạm bạc vì lương tháng giáo viên không được bao nhiêu, cá tính của Nguyễn Bính lại vô lo, lham làm thơ hơn chăm học.
Không chịu nổi cánh sống túng thiếu của hai anh em, Nguyễn Bính nghe lời một người bạn học ở thôn Vân rủ lên mạn ngược, vùng Thái Nguyên, dạy học kiếm sống. Nhưng rồi cũng chẳng đủ ăn mà tính nết lại bất định, thích sống rày đây mai đó, Nguyễn Bính lại về Hà Nội, có khi đi bán báo ở phố Hàng Bồ.
Tên Nguyễn Bính bắt đầu xuất hiện và được ngưòi đọc chú ý với bài thơ Cô hái mơ, trên tuần báo Tiểu Thuyết Thứ Năm ở Hà Nội vào năm 1936, nhưng tới khi bài thơ Lỡ bước sang ngang đăng cũng trên tờ báo ấy ông mới thật sự nổi tiếng. Năm 1937, ông được Tự Lực Văn Đoàn trao giải khuyến khích với tập thơ Tâm hồn tôi.
Giữa thời buổi thơ mới đang thịnh hành với những lời cổ vũ “theo mới, hoàn toàn theo mới” và những bài thơ chịu ảnh hưởng đậm đà về thể thơ, lối diễn tả lẫn cách đặt câu theo văn phạm Pháp của một số nhà thơ mới, tiếng thơ Nguyễn Bính nổi bật với lời thơ mộc mạc, cảm xúc đơn sơ và thấm thía, thể thơ phần nhiều là lục bát, lấy cảm hứng và hình ảnh từ những sinh hoạt ở nông thôn, những câu hò điệu hát ca dao dân dã, đồng thời chuyên chở được cái ý nhị của dân tộc và tâm tình của cả một thế hệ thanh niên nam nữ buổi giao thời. Các yếu tố ấy tạo cho Nguyễn Bính một chỗ đứng độc đáo trong lòng độc giả và trên thi đàn. Chỉ trong ba năm (1940-1942), ông in liên tiếp 7 tập thơ, trong đó nhan đề của tập Lỡ bước sang ngang (1940) đã gắn trọn đời với tên tuổi của ông.
Nhưng theo Nguyễn Bính, tập thơ đầu tay của ông là Bướm, viết về những cảm xúc và những hoạt cảnh săn bắt bướm lúc ông sống lang thang ở Thái Nguyên, Phú Thọ, Yên Bái, Cao Bằng. Tập thơ trong đó ông tự nhận tiền kiếp của mình là một loài bướm ấy không bao giờ xuất bản; những bài thơ của nó được ông đưa xen kẽ vào các thi phẩm khác.
Trong giai đoạn này, hầu như mỗi tập thơ của Nguyễn Bính đều bắt nguồn từ cảm hứng tình yêu của ông dành cho một người nữ. Tập Tâm hồn tôi gồm những bài trộm nhớ thầm yêu cô Oanh sông Nhuệ. Hương cố nhân là tình yêu của ông dành cho Anh Thơ, tác giả tập thơ Bức tranh quê. Với Nguyễn thị Tuyên, em gái của Nguyễn Đình Lạp thì ông hoàn thành Người con gái ở lầu hoa. Và còn nhiều hình bóng khác như cô Phùng, đặc biệt với một đào nương tên Dung, sanh cho ông một đứa con mà ông ghi lại trong bài Oan nghiệt viết ở Huế năm 1941.
Nguyễn Bính theo như nhà văn Tô Hoài kể: “Con người anh trông lôm lam lắm. Tay chân thô nhám quềnh quàng, lúc nào cũng lừ đừ thủng thỉnh, như ‘ông từ vào đền’, như người thong thả đi giữa làng. Lại lam lũ như người lướt mướt từ đồng sâu mặn lên, dẫu cho anh đương mũ áo chửng chạc trên đường phố. Khi nào anh cũng là người của các xứ đồng, của cái diều bay, của dây hoa lý, của mưa thưa, mưa bụi giữa mọi công việc làm ăn vất vả sương nắng.”
Nhưng con người thơ ấy vốn giàu đam mê hơn nghị lực, nhiều mơ mộng hơn thực tế lại sống giữa chốn Hà thành phồn hoa với những cuộc vui hát ả đào thâu đêm và bên bàn đèn thuốc phiện suốt sáng. Tô Hoài kể đi đâu Nguyễn Bính cũng cầm trên tay một hộp sắt tây để lâu lâu lại “ngồi lên, vuốt ve, sắp xếp lại các thứ trong ấy. Đấy là bản thảo những bài thơ của anh và những bức thư tình, một hộp thư tình. Tờ trắng, tờ xanh, vết tay mồ hôi đã về vệt cả. Bao nhiêu thư của một mối tình, của những mối tình của anh, anh xếp chật cái hộp. Có điều chắc chắn đấy là những cái thư cũ, những người ta ở những đâu đâu ấy đã ‘cho rơi’ anh rồi. Chỉ còn lại những lá thư trong hộp. Cơ chừng, mỗi lúc canh tàn rượu tỉnh, lại lôi những của oan trái giời ơi ấy trong cái hộp gối ra.”
Loanh quanh ở Hà thành và là người thơ thèm sống tới tận cùng nhưng không bao giờ nắm bắt được những giá trị trần thế thực dụng, Nguyễn Bính tiêu pha ngày tháng và những khoản nhuận bút thất thường trong những cuộc vui phóng túng, những chuyến giang hồ vặt với các thi hữu, khi Bắc Ninh, khi Hải Phòng. Túi khi rỗng khi vơi mà tay tiêu pha thì vung lên quá trán. Khi làm thơ, ông trân trọng từng câu kỹ lưỡng từng chữ bao nhiêu thì trong cuộc đời, ông sống buông thả bấy nhiêu. Lối sống đó hình như không chỉ của riêng ông mà còn chung cho hầu hết một thế hệ văn thi sĩ tiền chiến ở Hà Nội. Những con người trẻ tuổi tài hoa, bồng bềnh với một tâm thức lãng mạn trong hoàn cảnh bế tắc về sinh kế, mịt mù về chính trị với sự bắt đầu có mặt của người Nhật trên một đất nước đã mất từ lâu vào tay người Pháp.
Lưu lạc phương nam
Phải tìm một lối thoát cho đời mình và cho thơ mình. Sau những ngày lang thang ở mạn ngược và những chuyến giang hồ vặt, Nguyễn Bính tìm đường xuôi nam. Có lẽ chuyến đi Sàigòn đầu tiên của ông diễn ra năm “chàng trai còn trẻ mới hai mươi” mà ông đã ghi lại trong bài thơ “Lá thư về bắc”, gửi người anh họ là nhà văn Bùi Hạnh Cẩn – con trai cụ Bùi Trình Khiêm — được in lại trong tập Lỡ bước sang ngang (1940).
Tới năm 1941, ông lại đi Huế với nhà văn Vũ Trọng Can. Gặp nhà thơ Tế Hanh ở Huế, cả ba trình diễn vở kịch thơ Bóng giai nhân ở Hội trường Acceuil, Dòng Chúa Cứu Thế. Ðã không có mặt hoàng đế Bảo Ðại, hoàng hậu Nam Phương và Khâm sứ Pháp như dự kiến, buổi diễn còn bị thất thu về tài chính, và Nguyễn Bính nằm lại cố đô, thấm thía với mưa dầm xứ Huế. Cơn phấn chấn ngày ra đi nay lụi dần và giọng điệu thơ Nguyễn Bính đã bắt đầu chua cay, khinh bạc.
Sau khi về lại Hà Nội, ông cùng Vũ Trọng Can lại làm một chuyến “hành phương nam” khác, lần này có thêm Tô Hoài. Chuyến thứ ba, có lẽ là chuyến sau cùng. Diễn thuyết, viết báo, rồi lang thang ở Sàigòn một thời gian, ba người bạn chia tay người mỗi ngả. Nguyễn Bính về miền tây.
Khoảng năm 1943, ông ở trọ tại khách sạn nghèo Tân Hưng, Mỹ Tho. Tại đó ông gặp một thanh ni ên về sau là nhà-thơ-ca-dao-cung-đình Bảo Ðịnh Giang, người mà thuở đó ông gọi là có “mắt xanh”, đã tiếp đãi ông tận tình. Qua Bảo Ðịnh Giang, ông làm quen và được sự giúp đỡ bởi những người yêu mến thi tài Nguyễn Bính như Bác sĩ Trần Hữu Nghiệp, đặc biệt Bác sĩ Dương tấn Tươi, từng giúp ông 700 đồng, trong khi tiền ăn cơm tháng thuở đó chỉ tốn 3-4 đồng. Năm 1944, Nguyễn Bính được giải nhất truyện ngắn của tạp chí Thanh Niên Ðông Pháp, với tựa đề “Không đất cắm dùi.”
Từ Mỹ Tho, ông xuống Cần Thơ, ở lại nhà của Ðoàn Trọng Khang. Từ Cần Thơ ông qua Rạch Giá, bụi đời ngủ nóp ở đình thờ Nguyễn Trung Trực. Tại đó, ông quen với nhà thơ Kiên Giang Hà Huy Hà, về sau là tác giả tập thơ “Hoa trắng thôi cài trên áo tím” và là soạn giả cải lương nổi tiếng. Kiên Giang nhờ gia đình giúp đỡ, thuê một cái lều của ông chủ sân banh Rạch Giá, rộng đủ chứa một cái nóp nằm ngủ mà ông mô tả là “Ở nhà hẹp mà hồn trùm vũ trụ!” Có lẽ vào thời gian này, bị mật thám để ý vì những bài thơ dán đầy vách lều, Nguyễn Bính bèn đổi tên thành Nguyễn Bính Thuyết.
Ðầu mùa hạ năm 1944, Nguyễn Bính chia tay với Kiên Giang. Ông vào tiệm Công Yên ở Rạch giá hút suốt một đêm rồi đi Hà Tiên, sống những ngày rất đằm thắm với hai văn thi hữu mà ông xem như anh chị của mình, là Ðông Hồ và Mộng Tuyết. Ðất Hà Tiên giúp Nguyễn Bính làm được nhiều thơ, say sưa bộ truyện Tam Quốc Chí, mộng mơ lãng đãng với thiếu nữ tên Ngọc, cháu của Ðông Hồ, và nhất là khiến ông xa được nàng tiên nâu một thời gian. nhưng rồi những tiếp đãi ân cần đó cũng chẳng giữ chân ông được lâu. May mắn là trong khoảng thời gian này ông kịp sáng tác được truyện thơ Tỳ Bà Truyện, theo thể lục bát, dài 1550 câu, mô phỏng vở tuồng nam hí Tỳ Bà Ký của Cao Minh thời cuối Nguyên đầu Minh của Trung Hoa (thế kỷ 14).
Từ bỏ những ngày tháng mà Mộng Tuyết kể lại là “rất yêu đời, lành mạnh, vui vẻ, sống cuộc đời mẩu mực” ở Hà Tiên, Nguyễn Bính lại về Sàigòn, dù chủ nhân “năn nỉ mãi Bính cũng không ở lại”. Thế là lại lao vào cuộc sống phiêu bạt “bất thường vô định của nhà thơ trác táng đến [có thể] vong khước hình hài” (Mộng Tuyết), Nguyễn Bính khi trọ vùng Chợï Cũ, khi ở Xóm Dừa hay khu Nancy, làm thơ đăng báo và lui tới với các văn nhân thi sĩ thành đô. Thơ ông lại càng thấm đẫm chua cay và chất ngất khinh bạc. Có lúc, ông viết tùy bút dưới bút hiệu Kiều Mộc.
Tham gia kháng chiến
Từ những ngày chưa kết thúc Thế Chiến Hai, Nguyễn Bính đã được móc nối bởi một cán bộ Việt Minh trí thức vận, đồng hương với ông. Tiếng hát Tổng Khởi nghĩa Mùa thu vang lên khắp đất nước rồi tiếp đó là tiếng súng của cuộc kháng chiến trường kỳ, từ chợ Rạch Giá, Nguyễn Bính vào bưng biền tham gia đánh giặc. Thơ ông lúc này chuyển hướng, gần như vè, và được ông sử dụng như một thứ vũ khí động viên nhân dân vùng lên đuổi Pháp.
Tại Rạch Giá, ông lập hội Văn hóa Cứu quốc, và làm Phó chủ tịch Tỉnh bộ Việt Minh. Nhà văn Sơn Nam có nhiều dịp gặp ông, kể lại là các công văn ông phê thường kèm theo một bài thơ dưới ký tên Nguyễn Bính. Sau một nhiệm kỳ Phó chủ tịch, Nguyễn Bính chuyển lên công tác ở Ban văn nghệ Khu 8 tại Ðồng Tháp Mười, làm việc chung với Bảo Ðịnh Giang và nhà văn Ðoàn Giỏi...
Sau vài năm, Nguyễn Bính không sống đời bưng biền nữa nhưng vẫn làm thơ kháng chiến và ở lại vùng giải phóng, dù chính quyền Nguyễn Văn Thinh treo giải thưởng ai đem Nguyễn Bính về thành hoặc tự ý nhà thơ về thành sẽ được thưởng 1.000 đồng bạc Ðông Dương, một số tiền rất lớn vào thời đó. Trong giai đoạn này, ông có một người vợ miền nam, mỹ danh là Hồng Châu, ở bên bờ con kinh xáng Chắc Băng-Thái Bình, cách thị xã Vĩnh Long khoảng ba bốn cây số, trên đường đi Cần Thơ. Bà sanh cho ông một con gái tên là Nguyễn Bính Hồng Cầu. Ông còn có một đứa con gái khác tên là Hương Mai. Sau năm 1975, Hồng Cầu có thời làm Tổng biên tập Nhà Xuất Bản Vĩnh Long, nay hình như đã nghỉ hưu.
Lại về đất bắc
Năm 1954, theo qui định của Hiệp định Genève tạm thời chia đôi đất nước trong chỉ hai năm, trong đoàn quân tập kết ra Bắc có Nguyễn Bính. Ông để lại người vợ và hai con ở trong nam.
Nhà thơ tái ngộ đất bắc sau mười ba năm xa cách, với bối rối ngỡ ngàng. Người thân mừng rỡ gặp lại nhà thơ vì từng nghe đồn ông đã chết mấy năm trước. Ðời sống xã hội thay đổi không như mình mộng tưởng, ông ghi lại các cảm xúc đó trong bài thơ “Tỉnh giấc chiêm bao”, mà cho đến nay vẫn chưa được phép xuất hiện trong các tuyển tập thơ Nguyễn Bính.
Năm 1956, ông chủ trương báo Trăm Hoa. Báo ra được mấy số thì đình bản vì không có đủ tiền tư túc mua giấy để in báo, trong khi các báo văn nghệ chính thức của nhà nước thì được mua giấy bao cấp. Và theo quan điểm của chính quyền thời đó thì Nguyễn Bính “đã cho đăng trên tờ báo này một số bài viết (trong đó có vài bài của anh) còn mang tính mơ hồ trong lập trường tư tưởng.”
Từ sau Trăm Hoa và thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm cho tới năm 1964, tác phẩm của Nguyễn Bính hầu hết được viết ra theo đúng đường lối chính trị và định hướng văn học dành cho văn nghệ sĩ sống dưới chế độù. Tuy thế, bên cạnh những bài thơ, những truyện thơ và mấy vở chèo phải đạo ấy, ông còn có một chuỗi thơ đặc sắc, bày tỏ lòng tha thiết thương nhớ người vợ trong nam và mấy bài thơ nói về những oan khuất, tàn tệ trong cuộc cải cách ruộng đất.
Lụy tình vẫn đeo đuổi người thơ không dứt. Nguyễn Bính ăn ở với nữ thư ký tờ Trăm Hoa, cóù một đứa con trai đặt tên là Hiền. Mẹ nó đi lấy chồng giao con lại; đi đâu cha con cũng quấn quít nhau. Bỗng dưng trong một cơn say, ông lỡ đem con cho một người qua đường, tại ngả sáu Bà Triệu, Hà Nội. Về nhà, quá nửa đêm, tỉnh rượu, mới nhớ ra chuyện, ông hốt hoảng đi tìm khắp nơi nhưng không bao giờ gặp lại người chẳng quen biết ấy.
Tới năm 1958, Nguyễn Bính túng thế ph ải quay về cư trú ở Nam Ðịnh, làm việc tại Ty Văn hóa Thông tin Nam Ðịnh, d ưới sự kềm cặp của “nhà văn” Chu Tấn và quan chức địa phương. Nhà văn Ngọc Giao kể là “(.)Nguyễn Bính cảm thấy mệt mỏi, yếu đau(.) Anh sống với gia đình, coi như an phận. Chị Bính là người hiền hậu, nết na. Chị hằng ngày ra chợ Rồng, thu nhặt từng xu từng hào với mẹt bày quả chanh quả ớt. Chị tháo mồ hôi, phai tàn tuổi trẻ, làm sao cho hằng ngày có đủ rượu, đồ nhắm, bồi dưỡng cho ông chồng thơ.”
Ðể lại mùa xuân
Vào những ngày cuối năm Ất Tỵ, cảnh nhà Nguyễn Bính trống trơn trong khi xuân về rộn rịp đất trời; nhà thơ lửng thửng rời đất Vị Hoàng, đi tới một thôn xóm ven đô. Theo lời nhà văn Chu Tấn kể thì: “Nguyễn Bính có một chương trình khác. Cái máu giang hồ vặt lại nổi lên. Anh muốn tạo ra một mùa xuân tha hương nữa. Tha hương đây không phải là nơi cách trở ngàn dặm, mà là một làng ở ngay huyện Lý Nhân, ở đây có một anh bạn yêu thơ, nhà làm thuốc đông y. Hai vợ chồng ngõ ý mời từ lâu. Nguyễn Bính chọn ngày giáp Tết. Anh xắn cao quần, xông pha đường bùn đất, lặn lội tới chơi. Chủ nhà cảm động đến rơi nước mắt. Cái tết “tha hương” này hẳn là ấm cúng. Ngờ đâu...”
Nguyễn Bính cùng chủ khách lãng đãng nhắm rượi dưới gốc mai, đào. Cứ thế, sáng hôm sau (20.1.1966), đúng sáng ba mươi Tết Bính Ngọ — ông thức dậy ra cầu ao rửa mình. Một cơn gió bấc thổi đến. “Nguyễn Bính, thấy trời đất xoay tròn, anh chỉ kịp kêu một tiếng rồi cả thân mình đổ xấp xuống, mặt úp vào bùn nước, máu mủi rỉ ra. Anh vừa mổ dạ dày tháng trước. Có lẽ anh chết vì bục dạ dày” (Ngọc Giao). Năm ấy Nguyễn Bính 48 tuổi.
Ngôi mộ và nhà tưởng niệm
Thời điểm Nguyễn Bính từ giã cuộc đời, theo nhà văn Trần Lê Văn trong một bài tưởng niệm bạn hiền, thì ứng với bốn câu thơ ông để lại cho đời trong bài Nhạc Xuân, được viết vào 27 năm trước, trong tập Hương Cố Nhân:
Năm mới tháng giêng mồng một tết,
Còn nguyên vẹn cả một mùa xuân.
và:
Giờ đây chín vạn bông trời nở,
Riêng có tình ta khép lại thôi.
Ngay sau khi Nguyễn Bính qua đời, người ta an táng ông ở nghĩa trang Nam Ðịnh như những người dân bình thường. Ba năm sau, ông được cải táng vào nghĩa địa Tam Ðiệp, cũng như những người dân bình thường khác.
Nhưng rồi thời thế thay đổi. Năm 1986, mở đầu “vận hội đổi mới”. Thơ Nguyễn Bính nhờ thế được tái bản khá đầy đủ, xào đi nấu lại trong nhiều tuyển tập, bán sạch gần cả trăm ngàn cuốn và các nhà phê bình đua nhau ca ngợi ông không tiếc lời. Chợt nhớ ra Nguyễn Bính là một nhà thơ lớn của dân tộc, người ta đưa hài cốt ông về chôn ở cồn đất rìa làng Thiện Vịnh, nằm cạnh ngôi mộ của ông nội ông, vì ngôi nhà cũ của cha mẹ ông bao lâu nay đã thuộc về người khác.
Cuối cùng, chính quyền phải đổi cho người chủ mới ấy một mảnh đất khác để ở, và thêm lần nữa, vào năm 1990, hài cốt Nguyễn Bính được dời, nay an nghỉ ở chính nơi ông cất tiếng khóc chào đời.
Theo nhà báo Vũ Hậu Luật kể thì: “Kể từ khi hắt hơi thở cuối cùng đến nay [1990] đã đằng đẵng hai mươi nhăm năm trời, trải qua bốn chặng giang hồ, thi sĩ mới có một nơi yên nghỉ vĩnh hằng. Mộ xây giữa khu đất rộng bốn sào, nằm chính giữa làng Thiện Vịnh. Xung quanh rợp bóng tre, xoan, ruối và lô nhô vài ba đống rơm. Ngôi mộ đơn sơ hình chữ nhật, có đắp nổi hình ngọn bút với dòng chữ: ‘PHẦN MỘ NHÀ THƠ NGUYỄN BÍNH 1948-1966’. Hoa mười giờ nở đỏ dưới chân mộ chí. Người ta dự định xây dựng tại khu đất này, bên cạnh mộ, nhà lưu niệm trưng bày các di vật và tác phẩm của Nguyễn Bính.”
2.TÁC PHẨM CỦA NGUYỄN BÍNH
Không kể hàng chục tập thơ tuyển, lớn có nhỏ có, in gần đây từ nam chí bắc, do bởi nhu cầu thưởng ngoạn hoặc thương mại, về mặït chính thức, các tác phẩm của Nguyễn Bính gồm có:
Trước Tháng Tám 1945:
- Lỡ bước sang ngang (1940)
- Tâm hồn tôi (1940)
- Hương cố nhân (1941)
- Một nghìn cửa sổ (1941)
- Người con gái ở lầu hoa (1942)
- Mười hai bến nước (1942)
- Mây Tần (1942)
- Bóng giai nhân (kịch thơ – 1942)
- Tìø bà Truyện (truyện thơ – 1944)
Sau Tháng Tám 1945:
- Ông lão mài gươm (1947)
- Ðồng Tháp Mười (1955)
- Trả ta về (1955)
- Gửi người vợ miền Nam (1955)
- Trông bóng cờ bay (truyện thơ – 1957)
- Nước giếng thơi (tập thơ chọn – 1957)
- Tiếng trống đêm xuân (truyện thơ – 1958)
- Tình nghĩa đôi ta (1960)
- Ðêm sao sáng (1962)
- Cô Son (chèo – 1961)
- Người lái đò sông Vỵ (chèo – 1964)
3. TỈNH GIẤC CHIÊM BAO
Chín năm đốt đuốc soi rừng,
Về đây ánh điện ngập ngừng bước chân.
Cửa xưa mành trúc còn ngăn,
Góc tường vẫn đọng trăng xuân thuở nào.
Làng xa bản nhỏ đèo cao,
Gió bay tà áo chiêm bao nửa chừng.
Anh về luyến núi, thương rừng,
Nhớ em đêm sáng một vùng Thủ đô.
Bồi hồi chuyện cũ năm xưa,
Gặp nhau lần cuối... trang thư lệ nhòa.
Thư rằng: “Thôi nhé đôi ta,
Tình sao không phụ mà ra phụ tình.
Duyên nhau đã dựng Trường đình,
Mẹ em đã xé tan tành gối thêu...”
Trăng khuya súng núi gươm đèo
Anh đi, thư vẫn nằm đeo bên mình.
Lửa sàn nét chữ chênh chênh,
Nếp thư đến rách chưa lành vết thương.
Ðằm đằm hoa sữa lên hương,
Chân anh đương bước giữa đường cái đây.
Nẻo hồ, song cửa, lá bay,
Sáng chưng bóng dáng bao ngày yêu xưa.
Trăm năm đã lỡ hẹn hò,
Cây đa bến cũ con đò còn không?
Tình cờ gặp giữa phố đông,
Em đi ríu rít tay chồng tay con.
Nét cười âu yếm môi son,
Áo bay nhắc buổi trăng tròn sánh vai...
Chín năm bão tối mưa ngày,
Nước non để có hôm nay sáng trời.
Em đi hạnh phúc hồng tươi,
Anh nhìn tận mắt cuộc đời đẹp sao!
Sắc hương muôn nẻo tuôn trào,
Tiếc mà chi giấc chiêm bao một mình.
Anh về viết lại thơ anh,
Ðể cho bến mát cây xanh đôi bờ.
Cho sông cho núi tự giờ,
Chẳng còn lỡ chuyện con đò sang ngang.
Lứa đôi những bức thư vàng,
Chẳng còn chữ chữ hàng hàng lệ rơi.
Chim hồng chim nhạn em ơi,
Trên nền gối cưới đời đời yêu nhau.
(Báo Trăm Hoa, Hà Nội, số 9.12. 1956)